SKKN: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH LỚP 1 VẼ HÌNH TỰ TIN TẠO BỐ CỤC THUẬN MẮT TRONG BÀI VẼ TRANH ĐỀ TÀI
I. Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển ngày càng đi lên của thế giới
nói chung và việt nam nói riêng, việc đưa môn mĩ thuật trở thành một trong 9
môn học bắt buộc trong nhà trường tiểu học là quan trọng và cần thiết. Giáo dục
thẩm mĩ cho học sinh, nhất là những năm đầu đi học, từng bước giúp trẻ hoà nhập
thế giới xung quanh ;trẻ biết suy xét và mong muốn làm theo cái đẹp - chính là giúp
trẻ tự hoàn thiện mình, trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Là người giáo viên dạy mĩ thuật, tôi luôn mong
ước với kiến thức của mình có thể giúp trẻ em, nhất là trẻ em mới vào lớp 1 nhìn
nhận và thể hiện cái đẹp thông qua các bài vẽ tranh đề tài một cách tự tin.
II. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm phát huy cách vẽ hồn nhiên, ngây thơ của
trẻ từ mẫu giáo.
- Giúp trẻ bộc lộ sự phát triển trí tuệ, cảm quan
đối với thế giới xung quanh một cách tự nhiên, “rất trẻ thơ” qua các bài vẽ tranh
đề tài.
- Giúp trẻ lớp 1 ngày càng yêu thích môn mĩ thuật
- làm nền tảng cho việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh khi học ở các lớp trên trong
bậc tiểu học.
Cụ thể hơn là giúp trẻ lớp 1 điều chỉnh nét vẽ
thật tự nhiên, cách sắp xếp hình vẽ (bố cục) trong khuôn khổ giấy vẽ cho phù hợp.
- Tôi đã chọn đề tài này với mong muốn giúp trẻ
lớp 1của trường tiểu học THTH càng ngày vẽ càng tự tin hơn, đạt hiệu quả - phù hợp
mục tiêu giáo dục của môn mĩ thuật: Giúp trẻ có sân chơi lí thú, bổ ích, phần nào
có cái nhìn tổng thể đối với sự vật, hình ảnh quen thuộc xung quanh. Đây cũng là
một yếu tố giúp trẻ học các môn khác tốt hơn.
III. Kết quả cần đạt
…
IV. Đối tượng, phạm vi
nghiên cứu
-
Sau khi biết rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan tôi cố gắng tôi cố gắng, tìm
hiểu, vạch ra một kế hoạch thực hiện trong năm học này, tôi cố gắng biến những
nguyên nhân, trở ngại này không còn là trở ngại, khó khăn nãư và tiết Mĩ Thuật
của tôi cũng đạt được kết quả khả quan hơn
- Học sinh khối 1 trường tiểu học THTH năm học 20... -20...; 20... – 20... và học kỳ 1
năm học 20... - 20...
- Thời gian 02 năm – 1 học kỳ.
PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên
cứu
- Chương trình giáo dục mĩ thuật ở bậc tiểu học
mục đích không phải là đào tạo học sinh trở thành hoạ sĩ, mà với tiêu chí giúp trẻ
làm quen với môn mĩ thuật - cụ thể là với ngôn ngữ của mĩ thuật (đường nét, hình
mảng, bố cục, mầu sắc ). Do đó giáo viên dạy mĩ thuật tiểu học, nhất là giáo
viên dạy học sinh lớp 1 càng phải quan tâm đến việc giáo dục thẩm mĩ ở trẻ hơn
- hướng cho trẻ vẽ đẹp song phải thật tự nhiên; tạo cho trẻ kĩ năng vẽ hình phù
hợp khổ giấy, nét vẽ khoáng đạt, thể hiện đuợc nội dung đề tài định vẽ.
* Nguyên nhân khách quan :
Đa
số phụ huynh chưa chú ý đến việc vẽ của con mình còn quan niệm đây là môn học
chưa cần thiết., chưa quan trọng còn xem là môn học phụ, chủ yếu chỉ cần cho
con học Tiếng Việt và Toán là chính. Còn các em có vẽ được hay không thì không
quan trọng, nói gì giáo dục cho các em tính thẩm mĩ qua bức tranh.
Một
số phụ huynh chưa quan tâm đến việc mua đồ dùng học tập cho học sinh như: (Bút
màu, sáp màu, bút chì tẩy, vỡ tập vẽ...) cho các em học còn thiếu thốn nhiều.
Tài
liệu, các phương tiện ĐDDH do trên cung cấp, tranh ảnh vật mẩu phục vụ cho việc
học vẽ chưa nhiều.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Riêng bản
thân tôi và học sinh các lớp do tôi giảng dạy là vùng nông thôn, đa số các em
gặp hạn chế về khả năng tạo hình ở các bài nặn nói chung và những bài vẽ nói
riêng cũng còn hạn chế. Sự hiểu biết về môn học này cũng còn có mặt khó khăn
nhất định. Thiếu tài liệu tham khảo, mẫu vật thật, thiếu phương tiện giáo cụ
trực quan...
Sau khi biết
rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan tôi cố gắng tìm hiểu, vạch ra một kế
hoạch thực tiển trong 2 năm nay, tôi cố gắng biến những nguyên nhân, trở ngại
này không còn là trở ngại, khó khăn nữa và tiết dạy Mĩ Thuật của tôi cũng đạt
kết quả khả quan hơn.
- Tôi nghiên cứu đề tài này luôn chú trọng đến
đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học mà các nhà tâm lí học đã đúc kết với
mong muốn phần nào giúp trẻ lớp 1 điều chỉnh cách vẽ hình cho thật đẹp, phù hợp
mục tiêu giáo dục của môn Mĩ Thuật.
Mục
đích làm trẻ yêu thích môn Mĩ Thuật, hào hứng khi được học môn Mĩ Thuật.
+ Nét vẽ khoáng đạt, tự tin, rất trẻ thơ.
+ Hình vẽ được sắp xếp phù hợp tờ giấy.
Mục đích làm trẻ yêu thích môn Mĩ
thuật, hào hứng khi được học môn Mĩ thuật.
II. Thực trạng vấn đề
nghiên cứu
1- Những việc làm trước đây chưa có kết
quả cao :
Tôi là giáo viên chuyên trách môn Mĩ
Thuật thuộc trường tiểu học THTH, ở nơi tôi công tác là một trường vùng sâu.
Học sinh đa số là con em nông dân nghèo, có nhiều hoàn cảnh khó khăn, thiếu
thốn phương tiện, đồ dùng học tập cho môn Mĩ Thuật, gia đình thiếu quan tâm mua
sắm đồ dùng học cho học sinh vì thế nên còn hạn chế về nhiều mặt. nên khi đến
tiết dạy Mĩ Thuật tôi rất lo lắng vì đến lúc cho các em thực hành công việc,
nên có những em vẽ không được, tôi phải dành nhiều thời gian đến hướng dẫn các
em vẽ để các em có điều kiện cùng làm việc với tập thể, nên khi đánh giá sản
phẩm, tôi thường chú ý các em vẽ không được, những em mà phụ huynh không mua đồ
dùng học tập, tôi cho các em vẽ bằng chì đen hoặc động viên những học sinh
trong lớp có đủ đồ dùng học tập cho mượn, giúp bạn cùng thực hiện công việc, có
lúc do các em vẽ không được, tôi lại phải hướng dẫn vẽ mẫu nhiều lần tốn nhiều
thời gian, các em vẽ chưa đạt yêu cầu, còn một vấn đề rất quan trọng là vẽ chưa
đẹp, nhất là giáo cụ trực quan cho các em quan sát lại thiếu, chưa có nhiều,
chưa phong phú nội dung
2- Khảo sát chất lượng vẽ đầu năm học
của các em :
Trong từng đầu năm học
tôi tiến hành cho các em vẽ kiển tra theo chú thích để phân loại xem khả năng
vẽ của các em như thế nào ?
Kết quả đầu năm học 20... – 20... được phân loại như
sau:
+ Tổng số trẻ trong khối 1: 82 học sinh.
+ Chia ra 3 loại :
-
Vẽ nghèo về nội dung: 26 học sinh
-
Vẽ yếu về bố cục: 44 học sinh
-
Kỉ năng vẽ chưa tốt: 12 học sinh
III. Mô tả nội dung
1.
Những nội dung và cách làm mới
:
- Hiện nay học sinh ở Mẫu giáo trường tiểu học
THTH đã được làm quen với môn Mĩ thuật theo chương trình mẫu giáo 26 tuần và
mẫu giáo 5 tuổi song do cách tư duy tưởng tượng của trẻ vẫn còn tản mạn, rời
rạc, ít có tổ chức, hình ảnh của trí tưởng tượng còn đơn giản hay thay đổi,
chưa bền vững, chỉ một số ít học sinh vào lớp 1 có ý thức sắp xếp bố cục trong
tờ giấy, còn đa số học sinh lớp 1 bỡ ngỡ chưa làm quen được với cách học của
bậc tiểu học - các em vẽ hình bằng chì, hình vẽ nhỏ, hay tẩy xoá không tự tin
khi vẽ hình, tạo bố cục trống trải không đẹp mắt dẫn đến khó tô màu, khó biểu
đạt nội dung đề tài.
- Quan niệm từ trước, cứ vẽ hình là cô giáo
tiểu học cho dùng bút chì; nhiều em vẽ rất đẹp ở mẫu giáo, lên lớp 1 lại lúng
túng không tìm được cách thể hiện bài vẽ thoải mái dẫn đến nhiều bài vẽ hình vẽ
đẹp song lại quá bé không phù hợp tờ giấy hoặc tâm lí sợ vẽ không đúng với thực
tế.
Ví dụ: trẻ khi vẽ con
chó, chúng muốn là phải thật giống, nếu vẽ sai sợ cô giáo phê bình, hoặc
khi vẽ người: Trẻ vẽ người có chân tay dài hơn thật, khi bị bạn chê vội tẩy xoá
ngay.
Vậy để giúp học sinh, nhất là học sinh lớp 1
ngay từ ngày đầu cấp học đã có thiện cảm, yêu thích với môn Mĩ thuật, luôn muốn
được vẽ - được hoạt động phù hợp sinh lí trẻ - tôi đã cố gắng nghiên cứu, vận
dụng muốn đưa ra một cách làm mà theo tôi là đạt hiệu quả, giúp trẻ vẽ hình tự
tin, thoải mái, sắp xếp hình hợp khuôn khổ giấy vẽ.
2.
Những vấn đề tâm lí trẻ thường gặp ở lớp 1 khi học môn Mĩ Thuật:
a.
Tâm lí trẻ 6 tuổi.
*
Theo các nhà tâm lí học, ở lứa tuổi tiểu học, sự tri giác của các em có các đặc
điểm sau:
Tri giác: tri giác của
các em mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết, tri giác những gì gây ấn
tượng mạnh đối với các em hoặc các em tri giác những gì mình thích.
Tình cảm có ảnh hưởng đến độ nhanh, độ bền
trong trí nhớ của các em. Các em có thể nhớ rất nhanh và làm những gì mình thích.
Mau nhàm chán, ểu oải những gì không theo sở thích. Do đó, khi dạy vẽ học sinh
lớp 1, ta lợi dụng đặc điểm tâm lí trên để hướng trẻ vẽ tranh đề tài với cách
nhìn của mình. Trong mỗi tiết học vẽ, tạo ra sự hứng thú cho trẻ đối với những
đề tài định vẽ; không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng; đưa ra đồ dùng trực
quan hợp lí, ấn tượng, bám sát chủ đề tranh định vẽ; các mẫu tranh vẽ là tranh
của thiếu nhi, nhất là của chính học sinh lớp 1 - làm học sinh dễ hiểu dễ tri
giác hơn. Khi học sinh có thoãi mái và nhận thức tốt, thì các em sẽ yêu thích
và sai mê với công việc của môn học.
Ví dụ: Trong bài “ Vẽ con
vật mà em thích” các em rất thích vẽ con trâu; giáo viên mô tả lại con trâu một
cách khéo léo, cụ thể để lôi cuốn, cho các em xem tranh các bạn vẽ con trâu
đang hoạt động (ăn cỏ, nằm nghỉ, đang cày ruộng) và nêu bằng lời cách vẽ trâu:
Đầu hình quả đu đủ, mình trâu hình quả trứng to hơn nhiều so với đầu, 2 sừng
cong nhọn, 4 chân trâu có móng guốc...
* Việc tìm hiểu những đặc điểm tâm lí nói trên
rất có lợi cho việc dạy trẻ lớp 1 vẽ những sự vật, hiện tượng quanh ta một cách
tổng quát, song hồn nhiên theo cảm quan của các em.
- Tư duy: ở học sinh lớp
một, tính trực quan cụ thể vẫn còn chiếm ưu thế (sẽ chuyển dần sang tính trừu
tượng, khái quát ở lớp cuối cấp ).
Cho nên đồ dùng trực quan đưa ra phải đẹp, cô
đọng, phong phú về thể loại (tranh vẽ, băng hình video, giáo án điện tử, phần
mền thực hành tô màu trên vi tính ) hoặc vật thật. Mục đích cho học sinh lớp 1
tiếp xúc nhiều với những sự vật hiện tượng sắp được vẽ. Tranh vẽ đẹp của các
bạn năm trước được giới thiệu với học sinh sẽ làm cho các em có chuẩn của cái
đẹp mà vẽ bài hứng thú hơn.
b.
Những biện pháp thực hiện:
Giáo viên dạy Mĩ thuật vẽ thị phạm lên bảng,
lên giấy sẽ giúp học sinh nhận biết cách vẽ nhanh hơn, dễ hơn nhiều so với chỉ
dạy trên tranh mẫu.
- Hoạt động chủ đạo của trẻ dưới 6 tuổi là vui
chơi (ở gia đình, ở lớp mẫu giáo). Đến 6 tuổi, các em vào học trong trường tiểu
học; lúc này hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học tập; môi trường của
các em có sự thay đổi.
Thời gian đầu của lớp một các em gặp một số
khó khăn, chưa quen bạn và cô giáo, khó tiếp thu trong khi học, tính kỉ luật
chưa cao. Giáo viên dạy Mĩ thuật phải biết điều chỉnh - gây không khí hào hứng
trong lớp học song vẫn giữ được tính kỉ luật, trật tự: Cho phép các em trao đổi
ý kiến, xem, nhận xét bài bạn - Nhưng giáo viên phải nhắc nhở những học sinh
mải chơi, nói chuyện riêng ngoài việc học vẽ.
- Tưởng tượng: Lứa tuổi này là lứa tuổi giàu
tưởng tượng, tuy nhiên tưởng tượng của các em còn tản mạn, ít có tổ chức. Hình
ảnh của tưởng tượng còn đơn giản, hay thay đổi, chưa bền vững; nhất là lớp 1,
các em phải dựa vào đối tượng cụ thể. Cho nên tranh vẽ theo đềtài của các em
còn đơn giản về các hoạt động (của nhân vật), ít chi tiết, bố cục chưa đẹp.
Do đó người giáo viên dạy Mĩ thuật chú ý tập
cho các em kĩ năng vẽ hình đơn giản song cô đọng, dạy cách sắp xếp hình ảnh hợp
với khuôn khổ giấy vẽ qua nhiều tiết học.
Người giáo viên dạy Mĩ thuật phải biết cách
khai thác óc tưởng tượng phong phúc của trẻ phục vụ cho việc biểu hiện hình vẽ
trong bài vẽ tranh đề tài; Có thể dùng phương pháp hỏi đáp, kể chuyện, so sánh
để bật ra đặc điểm của bức tranh định vẽ.
- Ví dụ: vẽ bài “Cây và
nhà”: Cô giáo hỏi học sinh: Con biết các loại cây gì? Con thử mô tả lại đặc
điểm của cây đó... Đi ngoài phố, con nhìn thấy những ngôi nhà giống hay khác
nhau - mô tả cụ thể.... Cô kể lại ngôi nhà của mình có đặc điểm nào đó. Cô hỏi
một vài học sinh về ngôi nhà của mình. Hoặc so sánh nhà ở nông thôn và thành
phố bằng cách hỏi học sinh.
* Tư duy lứa tuổi học sinh tiểu học có những
nét đặc thù so với những lứa tuổi khác. Mà bậc học tiểu học là bậc học nền tảng
cho những bậc học sau này. Vì vậy, giáo viên dạy Mĩ thuật phải lựa chọn phương
pháp dạy học tối ưu, phù hợp với nội dung từng bài vẽ tranh đề tài (Cũng như
các phân môn vẽ khác ). Hướng dẫn các em tích cực suy nghĩ để hình thành kiến
thức về Mĩ thuật, khuyến khích học sinh chủ động, tự tin khi vẽ bài; Người giáo
viên có vai trò hướng dẫn giúp đỡ chứ không áp đặt, làm thay các em.
Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh
tiểu học, cụ thể là học sinh lớp 1, giúp cho giáo viên dạy vẽ như bản thân tôi
rất tự tin trong việc nghiên cứu hướng dẫn cho các em cách vẽ hình tự tin, tạo
bố cục thuận mắt trong bài vẽ tranh đề tài
c.
Khái niệm “tranh vẽ theo đề tài”.
- Đây là một phân môn của Mĩ
thuật trong chương trình dạy học ở bậc tiểu học.
- Học sinh được vẽ những đề tài
về cuộc sống xung quanh: Thiên nhiên, sinh hoạt của con người, thế giới động
vật...
- Qua cách học vẽ tranh đề tài,
giúp trẻ khám phá thêm về thế giới xung quanh, thêm yêu cuộc sống, yêu gia
đình, bạn bè, thầy cô...
- Giúp học sinh phần nào biểu đạt
được tình cảm, cảm xúc của mình với cuộc sống qua các bài vẽ của chính bản
thân.
- Rèn luyện óc quan sát, tưởng
tưởng, kĩ năng cầm bút, giúp trẻ học tốt các môn học khác.
. *
Học sinh lớp 1, lớp nền tảng của cả cấp học tiểu học, do đó việc cho các em làm
quen, yêu thích vẽ tranh đề tài cũng như vẽ theo mẫu, vẽ trang trí... là một
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các giáo viên dạy Mĩ thuật như tôi.
3.
Vẽ hình, tạo bố cục trong bài vẽ tranh đề tài.
a. Vẽ hình :
- Tạo nét vẽ trên giấy vẽ để thể hiện một đề
tài nào đó: những hoạt động, hình dáng của các nhân vật, sự vật xung quanh -
theo chủ quan của người vẽ - cụ thể ở đây -của học sinh lớp một dưới sự hướng
dẫn của giáo viên dạy Mỹ thuật.
- Các chất liệu để tạo nét trên bức tranh:
chì, chì màu, sáp màu, dạ màu, bột màu, sơn dầu, thuốc nước, sơn mài... nói
chung là màu vẽ.
b. Tạo bố cục.
-
Tập hợp các nét, hình vẽ thể hiện rõ nội dung đề tài.
-
Cùng với mảng, màu sắc, khối và đặc trưng của chất liệu làm thành bức tranh
đẹp, mô tả sự nhìn nhận của người vẽ với thế giới xung quanh.
4.
Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu cách dạy vẽ hình, bố cục trong
khuôn khổ giấy được trẻ thể hiện qua các bài vẽ theo đề tài dưới sự hướng dẫn
của giáo viên dạy Mĩ thuật làm sao đạt được hiệu quả cao nhất: đó là sự say mê
vẽ của học trò.
a. Hiện nay, trẻ em vào học lớp một đã được
trang bị một chút kiến thức Mĩ thuật về tạo hình do được học ở mẫu giáo :
cây, nhà, ô tô con người, chim, gà, cá, mặt trời...
Chỉ còn một số ít trẻ không qua mẫu giáo thì
vẫn bỡ ngỡ trong việc xây dựng hình bằng nét vẽ
Ví dụ: vẽ người - tranh vẽ trang: 38
- Để có mặt bằng kiến thức về nét vẽ - tương
đối đồng đều ở học sinh lớp một - Tôi hướng dẫn cụ thể cách vẽ cho đối tượng đó
bằng cách cho học sinh xem những bức tranh có nét vẽ rõ ràng, mạch lạc đối lập
với những bức tranh có nét vẽ loằng ngoằng, khó nhìn là hình gì.
Ví dụ: Tranh vẽ trang: 24
- Đồng thời hướng dẫn những trẻ vẽ nét tạo
hình tốt hơn dạy cho bạn.
Do đó các em vẽ được nên tự tin hơn trong các
bài vẽ tiếp theo.
b. Khi cách nhận thức về vẽ hình của học
sinh lớp 1: đã tương đối đồng đều thì phải giúp các em đi sâu tim hiểu
về cách vẽ tranh đề tài, cụ thể là sắp xếp bố cục hợp lí để nêu bật được chủ đề
bức tranh.
c. Cách vẽ hình của trẻ trong bài vẽ tranh đề
tài: Tương đối mạnh dạn ở số đông; giáo viên phải biết
cách phát huy - luôn khen ngợi những trẻ có nét vẽ ngộ nghĩnh đồng thời tỏ ra
chưa vừa lòng khi có học sinh chê bạn vẽ xấu, không giống thật.
Ví dụ: một học sinh: N.Q.B lớp 1A vẽ
chân dung bạn mình, bạn ngồi bên cạnh thấy không giống nên chê bai làm em đó sợ
hỏng bài vội xoá hình đi - Lúc này tôi phải tìm ra một đặc điểm nào đó đặc
trưng nhất của nhân vật trong tranh và kịp thời khen ngợi - như vậy đã giúp em:
N.Q.B đó cảm thấy tự tin hơn, và học sinh chê bạn sẽ suy nghĩ xem việc mình làm
là tốt hay không tốt.
d. Vẽ hình bằng bút chì: đây là cách vẽ hình
truyền thống của cả trẻ em lẫn người lớn khi tạo nét cho tranh vẽ theo đề tài.
Học
sinh vẽ hình bằng chì cho kết quả là đa số các bài vẽ có hình vẽ nhỏ
Do chất liệu bút chì dễ tẩy xoá nên nhiều học
sinh quâ lạm dụng tẩy - làm cho bài vẽ bị bẩn, hình vẽ thiếu tự nhiên.
Kết quả được một bức tranh có bố cục trống
vắng, rất khó thể hiện màu.
Ví dụ: tranh vẽ trang : 25 lớp 1
Trong nhiều tiết vẽ, những em quên vở tôi đã
cho vẽ bằng phấn lên bảng con thì phát hiện thấy nét vẽ của các em khoẻ, tự
nhiên và bố cục hợp lí.
Và tôi đã động viên kịp thời những em học sinh
đó bằng cách cho cả lớp xem bài, đồng thời cho điểm tốt những bài vẽ đẹp.
Theo tôi, đó chính là do chất liệu: phấn có
nét to cho nên trẻ vẽ hình to, rõ hơn (do các em sợ vẽ hình nhỏ thì các nét
phấn sẽ dính vào nhau nhìn không rõ hình ).
Sau đó, tôi thử nghiệm: cho học sinh dùng luôn
bút có nét to như dạ màu, sáp màu - để vẽ bài tranh đề tài trong sách giáo khoa
hoặc vào giấy khổ A4 thì thấy đạt hiệu quả tương đương như các em vẽ trên bảng
con.
Như vậy, hình vẽ của trẻ trên bài vẽ tranh đề
tài tỉ lệ thuận với nét vẽ do chất liệu để vẽ tạo nên.
Tôi đã cho cả lớp xem bài vẽ của học sinh có
nét vẽ mạnh dạn, hình vẽ to phù hợp giấy vẽ và khen ngợi trước lớp học sinh đó.
Học sinh lớp một rất hay quên, do đó việc tạo
thói quen cho trẻ lớp một trong cách vẽ hình (ở bài vẽ tranh đề tài) bằng bút
có nét to, rõ được lặp đi lặp lại nhiều lần ở các tiết học Mĩ thuật. Tôi luôn
động viên các em học sinh nên dùng bút có nét to, đậm (mầu nâu, đen, xanh, tím...)
để vẽ. Tôi đã thí nghiệm việc dùng bút có nét to, rõ để giúp học sinh vẽ hình
trong bài vẽ theo đề tài ở 2/3 lớp một trong thời gian 2 tháng. hai lớp được vẽ
bằng bút có nét to, rõ cho chất lượng bài vẽ tốt hơn nhiều so với một lớp vẽ
bằng bút chì. Trong số một lớp này, 10% số học sinh tạo hình bằng bút chì đạt
được bố cục tốt, nhưng tốc độ vẽ lại chậm. Với số học sinh này, tôi động viên
các em vẽ bằng bút to. Song do cá tính, thói quen cẩn thận mà các em vẫn chỉ dùng
bút chì để vẽ - không bắt ép các em phải làm theo các bạn khác mà tôi luôn chỉ
bảo để các em có tốc độ vẽ hình nhạnh hơn trước.
e- Những kiến thức Mĩ Thuật liên quan
đến việc vẽ hình, tạo bố cục:
khi học sinh lớp một đã vẽ được bố cục tốt qua
việc tạo nét bằng bút màu đậm và những kiến thức khác về sắp xếp hình trong bài
vẽ theo đề tài thì việc tô màu trở nên dễ dàng: Hình có mảng to, dễ nhìn (tranh
vẽ trang 18 ), khong như vẽ bằng bút chì làm hình vẽ nhỏ khác nhìn (tranh vẽ
trang 31)
Bức tranh có màu sắc đẹp dần dần hiện ra trước
mắt trẻ, lôi cuốn trẻ, trẻ tự hào đã tạo ra được bức tranh của riêng mình - trẻ
đã khám phá thế giới của Mĩ Thuật, đây chính là sân chơi bổ ích của trẻ.
Khi trẻ đã vẽ được bức tranh theo cách vẽ hình
để tạo bố cục, rất thuận lợi cho giáo viên dạy vẽ - vì học sinh tự tin hơn khi
thấy giáo viên mỹ thuật bước vào lớp, trẻ reo hò, háo hức “ đòi” được vẽ. đây
chính là món quà quí giá đói với một giáo viên dạy mỹ thuật như tôi.
- Phương pháp cho trẻ dùng bút chì nét to, rõ
để vẽ hình, ngoài những ưu điểm, thành quả trên còn có một số hạn chế: một số
trẻ không vẽ theo mà vẫn dùng bút chì vẽ để tẩy cho dễ, tôi phải mất nhiều thời
gian trong một số tiết học để hướng dẫn cụ thể hơn cho các em này.
- Một số học sinh khác (số lượng ít, khoảng 10
% tổng số học sinh trong lớp) vẽ theo phương pháp theo tôi hướng dẫn tren có
nhận thức chậm hoặc không có năng khiếu, nên vẽ chưa đẹp - vẽ bài có bố cục dàn
hàng ngang hoặc hình người trong tranh giống nhau về động vật; một số em thích
gì vẽ nấy dẫn đến bố cục tranh lộn xộn. Trong quá trình giảng dạy tôi cố gắng
giúp những em này vẽ được những hình, bố cục đơn giản nhất bằng bút chì to: động
viên kịp thời một tiến bộ dù nhỏ nhất của các em.
- Sau khi học sinh lớp 1 đã quen với cách dùng
to nét, rõ để vẽ hình thì việc dạy trẻ cách tạo cho bài vẽ có bố cục chặt chẽ
trở nên thuận lợi hơn.
- Toi vẽ thị phạm (xong rồi xóa đi ngay) trên
bảng to, coi bảng là một tờ giấy vẽ - vẽ hình rõ hợp lí trên bảng để học sinh
quan sát.
- Ví dụ: bài vẽ “Chim và hoa”, “Em trong vườn
hoa” “Quan sát thiên nhiên” – sách Mĩ Thuật lớp 1 trang: 36, 38 tiết 31, 33.
- Như đã biết, trẻ 6 tuổi hay bắt chước các
hành động, việc làm của người lớn hơn – tôi đã vận dụng đặc điểm này của trẻ để
hướng cho các em sắp xếp bố cục theo chuẩn mực của cai đẹp: vẽ hình phù hợp
khuôn khổ bản vẽ - cách làm như vậy góp phần không nhỏ để tạo cho học sinh lớp
1 có kĩ năng vẽ hình to, rõ ràng; giúp các em cách nhìn hình, bố cục hợp lí.
Học sinh lớp 1 vẽ hình đơn giản, một bức tranh chỉ cần vẽ ba bốn hình là đủ tạo
thành một bố cục tranh
IV. Kết quả nghiên cứu
Như vậy, tôi đã nhân rộng cách dạy
trên của mình ở cả khối 1 trong trường, sau 1 học kỳ của năm học đã đạt được
kết quả đáng phấn khởi – 75 % số học sinh thích vẽ bằng bút chì nét to, rõ. 75
% học sinh vẽ hình bằng chất liệu trên đã giúp trẻ thêm tự tin vào chính bản
thân mình, 25 % không tẩy xoá hình vẽ nữa. Điều đó đã giúp bài vẽ của các em
ngộ nghĩnh, đáng yêu. Cảm xúc của trẻ được bộc lộ trên bức tranh.
Trong tiết Mĩ thuật, để giúp học sinh làm quen
với cách tạo bố cục bằng nét vẽ to, rõ; tôi luôn khen ngợi trước lớp bài của
các em có bố cục đẹp, được vẽ bằng nét to, rõ (dạ mầu, sáp màu) và khuyến khích
các em vẽ chì cố gắng hơn để có được bài đẹp như các bạn kia. Kết quả cuối năm
học, số lượng học sinh vẽ bằng bút chì nét to, rõ chiếm 75 % trong toàn khối.
Chất lượng các bài vẽ tranh đề tài được nâng
cao, những bức tranh có tạo hình tự tin, ngộ nghĩnh xuất hiện ngày càng nhiều.
Và điều quan trọng là đã gây được không khí hào
hứng, say mê vẽ ở trẻ. Lớp 1B; 1A; 1C
Khi tôi vào
dạy Mĩ Thuật các em nộp tranh vẽ ở nhà rất tự giác và số lượng cũng như chất
lượng đều cơ bản khá - tốt.
Các em “ thi đua ” nhau vẽ tranh, tự hào khi
mình mang nộp nhiều tranh được cô giáo cho điểm cao. Phong trào vẽ tranh đề tài
của 3 lớp một trên tốt nhất trường.
·
Năm học: 20... – 20... :
- Các em vẽ tốt đạt: 41, 57 %.
- các em vẽ khá đạt: 52,80 %
- các em vẽ nghèo về nội dung đạt: %
- các em vẽ yếu về bố cục đạt: %.
·
Năm học: 20... – 20... :
- Các em vẽ tốt đạt: 45, 78 %.
- các em vẽ khá đạt: 53, 01 %
- các em vẽ nghèo về nội dung đạt: %
- các em vẽ yếu về bố cục đạt: %.
·
Học kỳ 1 năm học 20... – 20... :
- Các em vẽ tốt đạt: 50 %.
- các em vẽ khá đạt: 32 %
- các em vẽ nghèo về nội dung đạt: %
- các em vẽ yếu về bố cục đạt: %.
V. Những bài học kinh nghiệm :
* Môn Mĩ Thuật, môn học giúp trẻ thư giãn sau
các giờ học khác, trẻ được chơi, được tìm tòi suy nghĩ và bộc lộ bản thân qua
từng nét vẽ, mảng màu, đề tài khác nhau.
Với đề tài này, tôi đã giúp trẻ yêu thích môn
Mĩ Thuật, hạn chế cảm lo sợ vì không biết vẽ. Trẻ biết bảo vệ ý thức chủ quan
của bản thân khi vẽ tranh, không bị ảnh hưởng bởi lời chê bai của các bạn khác.
Phương pháp vẽ hình trên giúp bồi dưỡng rèn
luyện óc quan sát, cach so sánh sự vật hiện tượng ở học sinh, giúp các em tìm
tòi thể hiện để vươn tới cái đẹp.
Đó là một cách giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Học
sinh lớp 1 say sưa, hứng thú vẽ cho nên tiết học vẽ trở nên thoải mái, nhẹ
nhàng.
Học sinh tự tin hơn khi vẽ hình bài tranh
trong đề tài. Học sinh tạo những bố cục, hình vẽ ngộ nghĩnh mang hiệu quả bất
ngờ, đẹp mắt, óc quan sát, so sánh ở trẻ được bồi dưỡng rèn luyện thường xuyên.
Khi học sinh vẽ giáo viên không gò ép các em
vào khuôn mẫu mà cần phải phát huy tính tư duy tự lập của các em để sáng tạo
thêm.
Ở tiết vẽ đề tài và tiết vẽ theo ý thích cần
gợi mở không khí thoải mái hứng thú cho các em phải khảo sát mức độ vẽ của các
em ngay đầu năm học vào hoàn cảnh sống của mỗi gia đình học sinh để có cách dạy
cho phù hợp.
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Tôi thực hiện đề tài “Phương pháp giúp
học sinh lớp 1 vẽ hình tự tin, tạo bố cục cân đối trong bài vẽ tranh đề tài” không
ngoài việc thực hiện mục tiêu của giáo dục tiểu học (nhằm giúp học sinh có kiến
thức cơ bản về 9 môn học; giáo dục óc thẩm mĩ, rèn luyện kĩ năng kỉ xảo học tập
cho học sinh).
Qua nhiều tiết Mĩ Thuật; trẻ hoạt bát, tự tin,
cởi mở với giáo viên với bè bạn. Do đó việc giáo dục tốt hơn.
Phương
pháp dạy học lớp 1 vẽ hình bằng bút chì có nét to, rõ đã bộc lộ cách vẽ ngộ
nghĩnh hồn nhiên như chính cuộc sống của trẻ em qua các bài vẽ tranh đề tài.
Dựa
trên các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi tiểu học, cụ thể là lứa tuổi học lớp 1 -
vận dụng kiến thức Mĩ Thuật của bản thân, tôi cố gắng giúp trẻ em có sân chơi
bổ ít và lý thú thông qua đề tài này. Việc đó đã góp phần làm cho trẻ khám phá
được ngôn ngự riêng của Mĩ Thuật khác với môn học khác.
Phương
pháp dạy học trên mới áp dụng trong toàn khối một; tôi sẽ tìm cách thử nghiệm
ra các lớp khác vào những năm học tiếp theo.
Trên
đây là những kinh nghiệm của tôi trong quá trình dạy mĩ Thuật, tôi đã phổ biến
trong hội đồng để các bạn đồng nghiệp tham khảo, đóng góp vào tiết dạy của mình.
Vì thế muốn nâng cao chất lượng dạy - học môn Mĩ Thuật người giáo viên phải có
quyết tâm cao trong quá trình giảng dạy, thực hiện nhiều biện pháp cải tiến
trong khâu chuẩn bị tiết dạy sao cho có hiệu quả.Đây chỉ là ý kiến của bản thân
để góp một phần nào đó nhằm năng cao chất lượng dạy - học môn Mĩ Thuật lớp 1
nói riêng và tiêu học nói chung.
II. Kiến nghị
...
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm
này, ngoài sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, phải kể đến sự quan tâm giúp đỡ
của Ban Giám Hiệu và đồng nghiệp trong nhà trường. Tuy nhiên do kinh nghiệm còn
ít, nên đề tài này còn mang tính chất chủ quan, khó tranh khỏi những thiếu sót.
Rất mong sự đóng góp giúp đỡ chân thành của thầy (cô). Xin tiếp thu mọi ý kiến
nhận xét của cấp lãnh đạo, hội đồng khoa học, của các thầy cô để việc giáo dục
thẩm mỹ cho học sinh trong trường tiểu học THTH
của tôi ngày càng hoàn thiện.
………….,
ngày … tháng … năm 20…
Người
viết