Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lí do chọn đề tài.
Một xã hội muốn phát triển vững mạnh
đòi hỏi phải xác định và đầu tư được nhân tố cơ bản. Với bề dày lịch sử của bốn
ngàn năm dựng nước và giữ nước Việt
Năm học 2010 – 2011 là năm tiếp tục
hưởng ứng cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
cùng với cuộc vận động” Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong giáo dục”. Đồng thời là năm học thứ ba triển khai cuộc vận động” Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “ứng dụng công nghệ thông tin trong
giáo dục”. Đặc biệt trong bối cảnh cả nước tưng bừng phấn khởi trong không khí
của Đại hội Đảng toàn quốc, toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập để đào tạo ra những con
người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước; đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải không ngừng đổi mới nội dung, phương
pháp, để trong mỗi tiết dạy bình thường ở trường phổ thông học sinh được hoạt
động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn
trên con đường chủ động chiếm lĩnh nội dung học tập. Nghị quyết số 02/NQ-HNTW khóa VIII của Đảng đã nêu
bật yêu cầu:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học”. Luật giáo dục nước CHXHCN Việt
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định: “ phương
pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác
chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các
phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy”. Bắt nguồn từ định hướng đó
giáo viên cần học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học
sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm
cho giờ học đạt hiệu quả cao nhất.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu
thực tiễn tại trường THCS Hồng Thủy- một địa bàn còn nhiều khó khăn, tôi nhận
thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản của môn Toán nói chung,
phân môn Hình học nói riêng. Điều đó thể hiện qua chất lượng bộ môn vẫn còn
thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu còn nhiều. Quá trình kiểm tra
đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là : phân môn Hình học khó tiếp thu,lượng
kiến thức trong giờ học nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn.... Điều đó nảy
sinh trong tôi những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm
thế nào để học sinh hứng thú , say mê trong khi học? có biện pháp nào để tạo
niềm say mê cho các em?.....Với mong muốn tìm ra những đáp án đó đã thúc đẩy
tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học
sinh học môn Hình học 8”. đề tài này tôi biết là đã có nhiều người nghiên
cứu và có nhiều hướng giải quyết, song bám sát thực tế nhà trường và tâm lí,
hoàn cảnh đối tượng của mình tôi mạnh dạn nghiên cứu theo quan điểm của bản
thân.
2. Mục đích của đề tài.
Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói riêng
đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó. Muốn đạt
hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của thầy phải vững, phải sâu, phải
có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm
thật khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “
tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả
không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến
nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi
tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học
sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến
thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên
phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong
học tập. Và khi ấy người giáo viên thực sự dành cho các em một sự động viên,
khích lệ kịp thời để tạo ra một bước đột phá trong học tập. Khi xác định được
mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này
mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo hứng
thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan
trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi
xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển
khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác
giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS.
PHẦN THỨ II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng.
1.1.
Những vấn đề cơ sở lí luận.
Hoạt động sư phạm là một hoạt động đặc biệt
vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi người giáo viên một
năng lực sư phạm vững vàng, một phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực
giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú
học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của người giáo
viên. Muốn đạt điều đó, bên cạnh việc trau bồi kiến thức chuyên môn thông qua các
hình thức khác nhau thì việc nghiên cứu để tạo cho mình một tiếng nói sư phạm riêng lại rất cần thiết. Điều
đó giúp giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu,
phù hợp khả năng tiếp thu của từng đối tượng.
Bám sát
định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy học Toán ở trường
THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng
lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng
cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho
các em. Đặc biệt những năm học gần đây toàn ngành đang thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho
các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó
chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói chung, phân
môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy.
1.2.
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Từ thực tiễn giảng dạy môn Toán 8 của chương
trình đổi mới SGK phổ thông tại trường THCS Hồng Thủy tôi nhận thấy rằng:
Trong trường THCS môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng
cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Nhất là phân môn Hình học có
nhiều khái niệm trừu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ
lại phải “ mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm, đường
thẳng hay suy luận.... Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lí
thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ, lôgic.
Nếu
phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, chẳng hạn như:
khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải
bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước giải rất cụ thể ;
thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên
học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức lí thuýêt
với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất khó khăn trong
việc chữa bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao
cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu.
Học
sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng,
chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập ở
nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình.....
Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho
mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng.
Hơn
nữa trường THCS Hồng Thủy nằm doc trên tuyến Quốc lộ 1A của huyện Lệ Thủy, nền
kinh tế còn nhiều khó khăn, điều kiện học tập chưa đầy đủ. Học sinh phần lớn không
có thời gian học ở nhà, gia đình chưa quan tâm đúng mức, vấn đề xã hội hóa giáo
dục chưa ngang tầm với giai đoạn hiện nay. Bởi vậy chất lượng học tập chưa cao,
số học sinh bị hổng kiến thức còn nhiều, nhất là nhiều em có tâm lí sợ môn Hình
học.
Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn
Hình học của lớp 8C đầu năm học 2010 – 2011 cho thấy kết quả:
Tổng số HS |
Số HS có hứng
thú |
Số HS không có
hứng thú |
||
SL |
% |
SL |
% |
|
38 |
5 |
13 |
33 |
87 |
Kết quả khảo sát
chất lượng đầu năm phân môn Hình học thất đáng lo ngại:
TSHS |
Khá giỏi |
Trung bình |
Yếu kém |
|||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
38 |
3 |
7.8 |
14 |
36,8 |
21 |
55.2 |
2. Những giải pháp.
Từ
thực trạng học tập của học sinh trường THCS Hồng Thủy trong phân môn Hình học, đặc
biệt là kết quả khảo sát chất lượng đầu năm còn thấp nên tôi đã tiến hành áp dụng
các phương pháp nhằm gây hứng thú cho các
em trong giờ học Hình học như sau:
Biện pháp 1. Tạo hứng thú cho học sinh khi
tìm hiểu kiến thức mới.
Như đã khẳng định học sinh THCS là lứa tuổi rất
hiếu động, thích tò mò, ưa khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của
mình, không thích bị áp đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức
giáo viê phải lựa chọn phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò
mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lí để chinh phục
kiến thức.
Như vậy phải làm thế nào để tạo hứng thú cho các
em trong giờ học? Rõ ràng để làm được điều này giáo viên phải đầu tư thật kỹ
cho tiết dạy của mình. Riêng tôi khi đạy giờ Hình học thường chọn cho mình phương
pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: đưa ra tình huống trong thực
tế hoặc kể một câu chuyện có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó học sinh
tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng
thẳng và chán nản, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn
Khi dạy bài “Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa sổ xếp lại dễ dàng kéo ra được?
Với bài “ Diện tích
hình thang” để học sinh nhớ công thức tôi cho các em ghi nhớ theo câu nói vần:
“Muốn tính diện
tích hình thang , đáy lớn đáy bé ta mang cộng vào, rồi
đem nhân với chiều
cao, chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra”.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ...là yếu tố không thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm những vật thật trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài Đường thẳng song song cách đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui mèn ở mái nhà. Bài “ Diện tích đa giác” tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện tích nhà mình mấy m2......
Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ,
học sinh tham gia xây dựng bài rất tích cực, đồng thời các em nhớ lâu và vận dụng
làm bài tập nhanh hơn.
Trong mỗi tiết dạy
tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá giỏi, trung bình, yếu
kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng, từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng
tham gia xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng cần phải gợi mở, dễ hiểu để
kích thích sự suy nghĩ của các em.
Ví dụ: Khi xây dựng định lí Ta-lét trong bài “Định lí Ta-lét trong tam giác”
Gợi ý : vì các đường kẻ ngang là các đường thẳng song song cách đều nên các đoạn liên tiếp trên AB bằng nhau,mcác đoạn liên tiếp trên AC cũng bằng nhau. Giả sử lấy m làm đơn vị một đoạn chắn trên AB, n làm đơn vị một đoạn chắn trên AC. Hỏi học sinh đối tượng kém đoạn AB’ mấy đơn vị?
Gọi học sinh
trung bình so sánh hai trường hợp còn lại.
Yêu cầu học sinh
khá phát biểu thành định lí từ bài toán.
Yêu cầu học sinh
giỏi nêu GT, KL
Làm như vậy
trong mỗi tiết học huy động tất cả các đối tượng học sinh vào xây dựng bài học.
Biện pháp 2. Tạo hứng thú, sự hấp dẫn cho học
sinh trong những tiết ôn tập.
Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo
viên phải hệ thống hóa kiến thức trọng tâm, tạo hứng thú cho học sinh bằng cách
cho những trò chơi: hệ thống kiến thức bằng sơ đồ họăc bảng rồi yêu cầu học
sinh điền vào những ô trống. Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan
giữa các phần đã học. Từ đó các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu.
Chẳng
hạn: phần “ tứ giác” giáo viên chuẩn bị sơ đồ về mối liên hệ của các tứ giác
trên bảng phụ kết hợp với các hiệu ứng trình chiếu trên giáo án điện tử thay đổi
theo từng hình cho các em trả lời định nghĩa, tính chất và dấu hiệu nhận biết.
Tuy nhiên sự hứng
thú cho phân môn Hình học không chỉ tạo ra trong tiết học mà còn phải kích thích
cho học sinh trong thời gian học ở nhà. Chính vì vậy, đối với giáo viên trực tiếp
giảng dạy có thể phối hợp với giáo viên trong cùng phân môn ở các khối lớp tổ
chức những chuyên đề tìm ra cách giải nhanh, ngắn gọn cho những bài toán hoặc sáng
tạo ra những thiết bị, mô hình ứng dụng của hình
học...Những tình
huống phát huy được khả năng tư duy sáng tạo, giúp các em tin tưởng và yêu thích
môn học.
Biện pháp 3. Tạo hứng thú cho học sinh khi áp
dụng kiến thức vào thực tiễn.
Môn Hình học là phân môn gắn liền với thực tế
cuộc sống, vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần phải cho học sinh liên
hệ kiến thức đã học vào thực tế, sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc
hàng ngày. Điều này làm cho học sinh khỏi phải trừu tượng khi học lí thuyết và
các em có thể nhớ kiến thức lâu hơn.
Ví
dụ: Khi học chương tứ giác giáo viên
hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để được chính xác các hình “ hình thang cân”
thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai đáy song song, rồi cắt hai cạnh bên bằng
nhau; cắt hình thoi thì phải gấp hai lần tờ giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình
thoi có hai đường chéo là trục đối xững và bốn cạnh bằng nhau. Học xong chương
2 “ Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ,
mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên trường sau đó tổng hợp lại để biết được diện
tích của khuôn viên trường.
Biện pháp 4 :Tạo hứng thú cho học sinh khi
giải bài tập.
Học kết hợp với hành
là một phương pháp học tập quan trọng mà giáo viên nào cũng phải hình thành và
rèn luyện cho học sinh. Song học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chất chặt chẽ, lôgíc và
trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích
kỹ bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến bài toán.
Ví dụ: Khi hướng dẫn cho học sinh giải bài tập 54 trang 96 SGK tôi phân
tích theo sơ đồ
:
B,C đối xứng nhau qua O
B,O,C thẳng hàng
và
Ô1 + Ô2 + Ô3 + Ô4
= 180o và
Ô2 + Ô3 = 900,
OAB cân, OAC cân.
Cần phát huy sức mạnh của tập thể trong học
tập. Bởi vì khi giảng bài tập giáo viên cho học sinh hoạt dộng theo nhóm từ 4 đến
6 em, tùy theo yêu cầu của bài toán , các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc
chỉ định , được giao cùng nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu
nhóm trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên
phải làm việc tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi đua
với các nhóm khác. Nhóm cử ra một bạn đại diện trình bày trước lớp.
Ví dụ:
Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác”
giáo viên đưa ra bài tập 89, trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm
theo 4 trình độ khác nhau như yếu kém, trung bình, khá, giỏi. phân công nhiệm vụ
cho từng nhóm:
+ yếu
kém làm câu a),
+ trung bình làm câu b)
+khá làm câu c),
+ giỏi làm câu d).
Sau
đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả.
Đối
với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan trọng, vì
vậy giáo viên có thể chia bài tập ra thành nhiều dạng: Bài tập cơ bản áp dụng
ngay công thức, định nghĩa, định lí vừa học giúp học sinh có niềm tin và khắc sâu
kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy
tính thực tiễn của toán học; dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải
tìm tòi, suy nghĩ, hứng thú khám phá...nhằm củng cố lại kiến thức của phần hay
chương đó.
Khi
làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tập về nhà
cho các em, từ đó các em có thể làm các bài tập tương tự thuận lợi hơn.
Biện pháp 5: Tạo hứng thú cho học sinh khi
vẽ hình.
Khả
năng vẽ hình không phải học sinh nào cũng có, trong khi học phân môn Hình học một
yếu tố quan trọng là phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước,
yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Cần những dụng cụ nào?... Điều này học
sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay
từ khi các em làm quen kiến thức mới.
Khi vẽ cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa
vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang kí hiệu hình
học.
Để thực hiện những điều đó giáo viên phải
lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể:
- Rèn cho học sinh có thói quen kí hiệu trên
hình vẽ các trường hợp : điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các
trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố
phụ trên hình....
- Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng
cụ:
+
Êke: vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song....
+
Compa: vẽ đường tròn, cung tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau..
+
Thước thẳng: vẽ đường thẳng...
Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học
hình đó là sử dụng phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng
phấn màu hợp lí ở các điểm đặc biệt, đường đặc
biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ vẽ hình.
Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint
trình chiếu các bước vẽ hình cho học sinh quan sát.
Ví
dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu nêu
cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng Compa để vẽ bốn cung tròn
có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn đỉnh của hình
thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần dựng hình ở
chế độ tự động ( Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 dối tượng.
- Lấy hai điểm A, C bất kì
- Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung
tròn tâm C có cùng bán kính.
- Hai cung tròn trên cắt nhau tại điểm B
và D.
- Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được
hình thoi ABCD.
Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo
viên giới thiệu lần lượt từng bước dựng hình thoi, từ đó có thế vẽ lại dựa vào
vở của mình không mấy khó khăn.
Tóm
lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài,
đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học sinh trả lời
yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề
bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ hình đặc biệt,
điểm đặc biệt.
Chẳng
hạn:
-
Cho tam giác ABC thì không nên vẽ cân, vuông hay đều.
-
Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm
của AB.
PHẦN III. KẾT
QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
1.
Kết quả đạt được.
Trong
quá trình giảng dạy học kỳ I vừa qua khi áp dụng kinh nghiệm của mình để soạn
giảng và vận dụng vào thực tế tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng mừng:
- Học sinh đã có thái độ học tập tích cực,
thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn
với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà
đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ
bản sau khi học xong mỗi bài.
- Phần lớn các bài kiểm tra đã được nâng lên,
các em vẽ hình đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh chứng minh lôgíc và
chặt chẽ được tăng lên.
- Từ những bài học đa số các em đều vận dụng
vào thực tiễn các kiến thức như: đo đạc, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật
thể....
Cuối học kỳ I điều tra hứng thú học môn Hình học ủa lớp 8C cho kết quả là:
Tổng số HS |
Số HS có hứng
thú |
Số HS không có
hứng thú |
||
SL |
% |
SL |
% |
|
38 |
28 |
73,7 |
10 |
26,3 |
TSHS |
Khá giỏi |
Trung bình |
Yếu kém |
|||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
38 |
18 |
50 |
11 |
28,9 |
9 |
23,7 |
Từ kết quả áp dụng trong thực tế giảng dạy
Toán học của bản thân, tôi nhận thấy đề tài “
Một số biện pháp gaâ hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8” có thể áp
dụng với tất cả các đối tượng học sinh khối 8 trong các nhà trường phổ thông, với
tất cả những người làm công tác giảng dạy Toán.
3.
Kiến nghị đề xuất.
Để làm
tốt và hiệu quả hơn công tác giáo dục, giảng dạy Toán học nói chung, Hình học nói
riêng trong nhà trường THCS, tôi xin mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến nhỏ sau:
- Các cấp lãnh đạo tổ chức thường xuyên các
cuộc hội thảo, chuyên đề bàn về phương pháp dạy học Toán theo hai phân môn: đại
số và hình học để cán bộ giáo viên được trao đổi nhiều hơn nữa nhằm học hỏi, nâng
cao chuyên môn nghiệp vụ.
- Tạo điều kiện hơn về đồ dụng dạy học nhằm
phát huy hiệu quả dạy học.
4. Bài học kinh nghiệm.
Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc
áp dụng phương pháp trên vào quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra một số bài học
cơ bản sau:
Một
là: Mỗi giáo viên phải thường xuyên
tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng trau dồi về kiến thức, kỹ năng dạy
học nói chung, Hình học nói riêng. Nâng cao và rèn luyện kỹ năng sư phạm ở độ
nhuần nhuyễn.
Hai
là: Thường xuyện đổi mới về cách soạn, cách giảng; đưa các ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập.
Ba
là: Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng
học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng, tạo
niềm tin, hứng thú cho các em trong môn học.
Bốn
là: Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải hướng học sinh vào việc phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh thảo luận. Trong mỗi
tiết học phải tạo ra được sự giao lưu đa chiều giữa giáo viên - học sinh, học
sinh - học sinh, giữa các tổ - nhóm.
Năm
là: Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học như các phàn mềm vẽ hình, các loại máy đa
năng, các hiệu ứng hình ảnh để tiết học thêm sinh động.
KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu và triển khai vấn đề
này bản thân tôi nhận thấy: để tạo cho học sinh hứng thú học phân môn Hình học
8 giáo viên phải từng bước tạo hứng thú cho học sinh qua việc tìm hiểu kiến thức
mới, thông qua các buổi thực hành, qua việc phân loại bài tập, vẽ hình ... Đồng
thời phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học sinh để từ đó
có những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có thời lượng phù hợp áp dụng
kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học sinh thấy được tính khoa học,
giá trị thực tiễn của bộ môn.
Trên đây là một số biện pháp tạo hứng thú cho
học sinh học phân môm Hình học 8 mà bản thân tôi đã nghiên cứu, thực hiện và đã
có nhiều thay đổi trong quá trình học tập của học sinh. Xin mạnh dạn đưa ra
trao đổi với đồng nghiệp để cùng áp dụng nhằm đưa kết quả dạy học môn Toán nói
chung, phân môn Hình học nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện. Rất
mong được sự góp ý từ đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để thực sự đề tài này là một
sáng kiến phổ biến sâu rộng.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/