I. NỘI DUNG.
Đổi mới phương pháp
dạy học (ĐMPPDH) hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là một yêu cầu bắt
buộc với mọi giáo viên (GV). ĐMPPDH giúp cho mỗi giáo viên luôn tự tìm tòi,học
tập để nhằm nâng cao trình độ về chuyên môn của mình và từ đó có trách nhiệm
với công việc của mình, luôn đầu tư vào soạn giảng tìm ra những phương pháp
giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giúp học sinh lĩnh hội kiến thức
một cách dễ hiểu nhất, không mang tính áp đặt tránh thói quen đọc - chép, thuyết giảng, lệ thuộc
sách giáo khoa Điều này tạo ra thói quen thụ động của trò. Thầy nói sao, trò
ghi vậy, và chỉ biết học thuộc lòng, không cần suy nghĩ. ĐMPPDH những vấn đề
tưởng nhỏ ấy, nhưng để GV vượt qua được không phải dễ. Không chỉ cần sự tự
giác, ý chí quyết tâm của mỗi GV, mà nó còn đòi hỏi sự vào cuộc của ban giám
hiệu nhà trường trong việc sáng tạo, đưa ra những biện pháp quản lý hiệu quả
giúp GV vượt qua rào cản này cả về nhận thức lẫn hành vi trong từng giờ lên
lớp.
Từ xa xưa, người phương Đông đã có
câu: “Tôi nghe thì tôi quên, tôi nhìn thì tôi nhớ, tôi làm thì tôi hiểu”. Những
kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại cũng đã cho thấy, HS chỉ có thể nhớ được
5% nội dung kiến thức thông qua đọc tài liệu. Nếu ngồi thụ động nghe thầy giảng
thì nhớ được 15% nội dung kiến thức. Nếu quan sát có thể nhớ 20%. Kết hợp nghe
và nhìn thì nhớ được 25%. Thông qua thảo luận với nhau, HS có thể nhớ được 55%.
Nhưng nếu HS được trực tiếp tham gia vào các hoạt động để qua đó tiếp thu kiến
thức thì có khả năng nhớ tới 75%. Còn nếu giảng lại cho người khác thì có thể
nhớ tới được 90%. Điều này cho thấy tác dụng tích cực của việc dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Để việc ĐMPPDH không chỉ là phong trào, để nó
không chỉ được nhìn thấy trên bề nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường,
từng lớp học, trở thành thói quen của mỗi thầy cô giáo thì một trong những điều
kiện cần thiết là sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ thiết thực từ phía ban giám
hiệu nhà trường và các cấp quản lý. Vì rất nhiều lý do như đã thoát ly giảng
dạy, bận bịu với quá nhiều việc, nên ban giám hiệu các nhà trường thường ít có
thời gian dự giờ, có nơi chưa thực sự đi sâu, đi sát, tháo gỡ kịp thời những
băn khoăn, vướng mắc của GV trong việc triển khai yêu cầu này. Thực tế cho
thấy, nếu hiệu trưởng trường nào quan tâm đến việc ĐMPPDH, thì chắc chắn GV
trường ấy sẽ được tạo điều kiện để tiếp cận với các phương pháp dạy học mới,
với trang thiết bị hiện đại, có cơ hội được tham dự những buổi hướng dẫn, trao
đổi kinh nghiệm của những người có kinh nghiệm.
ĐMPPDH mà thông qua
bài giảng của giáo viên để học sinh lĩnh hội kiến thức một cách dễ hiểu nhất. Ở
mỗi môn học có phương pháp giảng dạy khác nhau.Sau đây tôi nêu ra một số phương
pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt biện pháp tu từ so sánh trong phân môn luyện
từ và câu.Từ những kiến thức tưởng chừng như khó với các em qua quá trình dạy và tìm hiểu kiến
thức và tâm lý của các em . Bản thân tôi đã tìm ra các phương pháp dạy học mà
các em tiếp thu bài học một cách nhẹ nhàng,dễ hiểu .
-
Kiến thức về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong
chương trình lớp 3 ở phân môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương
trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài ở các tuần: Tuần
1,3,5,7, 10,12,15 và tuần ôn tâp 18.
B.
Những biện pháp cụ thể:
I/
Dạy đúng quy trình :
Để học sinh học tốt dạng bài tu từ so
sánh . Bất cứ một bài tập nào, GV cần làm theo các yêu cầu sau:
-
Đọc kỹ đề bài
-
Xác định đúng yêu cầu của bài
- Phân tích yêu cầu của bài
- Học sinh làm bài
- So sánh đối chiếu kết quả của học
sinh với đáp án ( HS phải lí giải được đáp án của mình )
- GV phải giải thích cho học sinh
rõ vì sao có đáp án đó .
*
Ví dụ : Bài
tập 2 (Trang 8): Tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ sau:
Ơ
cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
-
Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề
-
Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật.
-
HS gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật vào SGK
-
Học sinh trình bày ( Giáo viên có thể hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do
lại sao em chọn từ đó )
-
Giáo viên đưa ra đáp án
Sự
vật so sánh |
Từ
so sánh |
Sự
vật so sánh |
Cái dấu hỏi |
như |
vành tai nhỏ |
+ Giáo viên có thể vẽ lên bảng hoặc
giải thích cho học sinh hiểu Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ
dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có
thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn).
* Chú ý : Phương pháp này có hiệu quả nhất là
sử dụng khi tìm hiểu bài .
II/
Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các môn học:
1)
Tích hợp trong môn Tiếng Việt :
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn
Tiếng Việt , giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với
nhau.
Ví
dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay
em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang 7). Trong bài này có rất nhiều hình ảnh
tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của
môn: "Luyện từ và câu". Giáo viên có thể cho học sinh tìm các câu thơ
có sử dụng biện pháp tu từ so sánh .
Ví
dụ 2 : Khi dạy bài
Tập đọc “ Cửa Tùng ”, để giải thích từ ngữ (chiếc thau đồng ,bờ biển Cửa Tùng) GV có thể cho học sinh tìm câu
văn có sử dụng biện pháp so sánh . Học sinh sẽ rất dễ dàng tìm ra câu :
-
Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt
biển .
-
Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống
như một chiếc lược đồi mồi cài vào
mái tóc bạch kim của sóng biển.
Với những câu văn hay như thế, học
sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và
sẽ áp dụng tốt trong việc viết văn của nình .
2)
Tích hợp Biện pháp tu từ so sánh qua các môn học khác :
a) Dạy Tự nhiên xã hội :
Khi dạy bài “
Các thế hệ trong gia đình’’ Giáo viên có thể cho học sinh tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về
tình cảm của những ngưòi thân trong gia đình . Học sinh đại trà tìm tự do . Học
sinh giỏi , giáo viên có thể yêu cầu cao hơn( có sử dụng biện pháp so sánh )
-
Anh em như thể tay chân
- Con hơn cha là nhà có phúc
-
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
b) Dạy
Toán : Tích hợp biện pháp so sánh
khi dạy Toán qua các dạng về nhiều hơn , ít hơn , Điền dấu < , >, =., So sánh số lớn gấp mấy lần số bé ,Số bé
bằng một phần mấy số lớn …
III/
Dạy theo mô hình :
Bài tập về so sánh lớp 3 được chia
làm 2 dạng:
-
Dạng
1: Bài tập theo mẫu(Bài tập nhận biết ). Trọng tâm
-
Dạng
2: Bài tập sáng tạo ( Bài tập vận dụng )
1)Dạng
1 : Giúp học sinh nhận biết các từ chỉ sự vật so sánh . Dạng bài tập này rất đơn giản. Chủ yếu
là nhận biết các sự vật so sánh thông các
bài tập . Dạng này chiếm đa số trong chương trình . Nó được xây dựng dựa trên 4
mô hình sau:.
a) Mô hình 1: So sánh: Sự vật - Sự vật.
b) Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.
c) Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
d) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh.
Muốn học sinh của mình có một kĩ năng
nhận biết biện pháp tu từ so sánh vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có
nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới . Dựa vào các mô hình như ta vừa phân tích .
1.1
Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật:
Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì
trong câu thường xuất hiện các từ so sánh (như, là , giống , tựa, chẳng bằng
...)
Mô
hình này có các dạng sau:
A
như B.
A
là B.
A
chẳng bằng B
a)
Tìm hiểu dạng A như B
Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và
xuyên suốt đến cuối chương.
* Ví dụ: Bài 2( SGK trang
8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
"Hai
bàn tay em
Như
hoa đầu cành"
(Huy
Cận)
"Mặt biển sáng trong như tấm
thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú
"Cánh
diều như dấu á
Ai vừa
tung lên trời"
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này, học sinh phải
phát hiện các từ chỉ sự vật được so
sánh từ đó học sinh sẽ tìm được sự vật
so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên .
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Có 2 phương án
Phương án 1: Gạch
chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút chì vào SGK
Phương án 2: Giáo
viên phát phiếu học tập nhóm đôi. Các
nhóm điền vào phiếu
Câu Sự vật 1 |
Từ
so sánh |
Sự
vật 2 |
a) Hai bàn tay |
như |
hoa đầu cành |
b) Mặt biển |
như |
tấm thảm khổng lồ |
c) Cánh diều |
như |
dấu “ á” |
Học sinh trình bày :
+ "Hai bàn tay em" so sánh với
"hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với
"tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với
"dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với
"vành tai nhỏ".
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao
"Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì sao
nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên
phải hướng học sinh tìm xem các sự vật
so sánh này đều có điểm nào giống nhau,
chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu
á.
(Giáo
viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á")
b)Tìm
hiểu dạng A là B: Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn
giữa câu so sánh với câu giới thiệu .
Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ”
Ví
dụ :(Bài 1c, d trang 24,25):
Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :
c/ Mùa đông
Trời là cái tủ ướp
lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò
nung
d) Những đêm trăng sáng , dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng .
Trong trường hợp này, cần phải cho học
sinh xác định từ chỉ sự vật trong câu thơ : ( trời mùa đông – tủ ướp lạnh ), (
trời mùa hè – bếp lò nung)
Giáo viên giải thích cho học sinh
điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được so sánh .
-
Trời
mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh
-
Trời
mùa hè nóng như bếp lửa lò nung
Trong câu : Mẹ tôi là giáo
viên ( từ là có tác dụng giới thiệu. Trong trường hợp này , học sinh
phải hiểu nghĩa của từ và của câu )
1.2
Mô hình 2: So
sánh: Sự vật - Con người.
Dạng cuả mô hình so sánh này là:
a) Dạng A như B: + A có thể là con người.
+
B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Ví dụ:
Bài tập 1/trang58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
"Trẻ
em như búp trên cành
Biết
ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan"
(Hồ Chí Minh)
"Bà
như quả ngọt chín rồi
Càng
thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng".
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ
dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được"Vì
sao?". Chính vì thế điều đó giáo viên giúp học sinh tìm được đặc điểm
chung của sự vật và con người, chẳng hạn:
"Trẻ
em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi
non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng.
"Bà"
sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển
đến độ già giặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân
trọng.
b)Dạng A là B:
Ví
dụ : Bài tập 1/ trang 42,43( phương pháp
dạy như mô hình 1)
Svật 1 (người) Svật 2(Svật
)
"Ông là
buổi trời chiều
Cháu là
ngày rạng sáng"
Svật 2( Svật ) Svật 1( người
)
c)
Dạng A chẳng bằng B:
Ví
dụ: Bài tập 1c/trang 43 : Tìm
các hình ảnh so sánh trong câu :
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đem
nay con ngủ giấc tròn
Mẹ
là ngọn gió của con suốt đời
Trần Quốc Minh
Dạng bài tập này chỉ cần học thực hiện được hai yêu
cầu :
- Xác định sự vật so sánh ( ngôi sao -
mẹ ) , ( mẹ - ngọn gió )
- Xác định từ so sánh ( Chẳng bằng , là )
Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã
xác định được hình ảnh so sánh .
1.3: Mô hình 3:So sánh:
Hoạt động - Hoạt động.
Mô hình này có dạng như sau:
+ A x B.
+ A như B.
* Ví
dụbài tập 2 /trang 98: Trong
các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:
+
"Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó
vênh vênh
Nó cao lớn
lênh khênh
Chân đi như
đạp đất"
(Trần Đăng Khoa)
+
"Cau cao, cao mãi
Tàu vươn
giữa trời
Như tay ai
vẫy
Hứng làn mưa
rơi"
(Ngô Viết Dinh)
Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm
chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so
sánh với nhau. Chẳng hạn:
+
Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ
"như".
+
Hoạt động “ Vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “ vẫy” tay của con người
1.4:
Mô hình 4:So
sánh: Âm thanh - Âm thanh:
Mô
hình này có dạng sau:
A
như B: + A là âm thanh thứ 1.
+
B là âm thanh thứ 2.
Ví
dụ: (Bài tập 2 trang117): Tìm những âm thanh được so sánh với
nhau trong mỗi câu thơ văn dưới đây:
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học
sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau
qua từ "như". Chẳng hạn:
+ "Côn
Sơn suối chảy rì rầm
Ta
nghe như tiếng đàn cầm bên tai"
(Nguyễn Trãi)
Âm thanh của "Tiếng suối"
được so sánh với âm thanh của "Tiếng đàn cầm" qua từ "như".
2)
Dạng 2 : Bài tập sáng tạo
Mục
tiêu: Giúp học
sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh .
Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng
tạo cao hơn.tuy nhiên , dạng bài tập này
trong SGK rất ít . Nó tập trung ở cuối chương trình HKI gồm 2 bài tập .
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
2.1:
Nhìn tranh đặt câu
Tương tự Bài tập 3/SGKtrang126: Ta
có thể đưa ra bài tập sau :
Ví dụ : Quan sát từng cặp tranh rồi
viết các câu có hình ảnh so sánh
-
Xe
ô tô lao nhanh như tên bắn .
-
Bóng
đèn điện toả sáng như mặt trăng.
-
Cây
thông cao như ngọn tháp .
-
Nụ
cười của cô ấy xinh như hoa hồng .
-
Thỏ
thì hiền hơn báo.
2.2:
Dạng bài tập điền khuyết :
Ví dụ : Bài tập 4 / SGKtrang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào
chỗ trống :
a)
Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như...
b)
Trời
mưa, đường đất sét trơn như...
c)
Ơ
thành phố có nhiều toà nhà cao như
....
Ở mỗi câu , giáo viên nên để học sinh xác định sự vật
đã cho để cho học sinh có thể tìm nhiều từ cần điền .
Ví dụ : a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy,
như sông như biển
b) như
bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu ...
c)
núi
,những ngọn tháp ...
Các bài tập mang tính sáng tạo này rất
ít nên trong quá trình dạy , nhất là các tiết Tiếng Việt (Tăng cường) Giáo viên
nên đưa thêm những bài tập tương tự hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến
thức .
Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh
còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này
thường gặp các từ sơ sánh như : Tựa, giống , giống như , không thua, không
khác. ( So sánh bằng ) và các từ hơn ,kém,
thua , chẳng bằng ( so sánh hơn kém ).
IV/
Trò chơi học tập : Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương
tiện , học là mục đích . Thông qua hình thức chơi mà học ,học sinh sẽ được hoạt
động , tự củng cố kiến thức .Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả , cần
xác định mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi cần
phải đơn giản, dễ hiểu.
Ví dụ : Trò chơi “ Thử tài so sánh”
Mục
đích:
-
Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cum từ có hình ảnh so sánh
đúng .
-
Luyện
phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng , liên tưởng về hoạt động hay đặc
điểm, tính chất ...của sự vật.
Chuẩn
bị :
- Làm
các bộ phiếu bằng giấy ( Kích thước : 3 x 4 cm)
- Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng
thái , đặc điểm, màu
sắc ... của sự vật ( Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học ) . Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ hoạt động, trạng thái ,
đặc điểm , tính chất
Ví
dụ :
+
Bộ phiếu A( 5 từ chỉ hoạt động,trạng thái) :
Đọc , viết cười ,nói , khóc
(
Dành cho Tiết 7: ôn tập từ chỉ trạng thái , tính chất )
+
Bộ phiếu B ( 5 từ chỉ màu sắc )Trắng , xanh, đỏ, vàng , đen
(
Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh )
+
Bộ phiếu C ( 5 từ chỉ đặc điểm , tính chất
): đẹp, cao, khoẻ, nhanh, chậm(
Dành cho tiết 14 , 17: ôn tập từ chỉ đặc điểm )
- Phiếu được gấp tư để “bốc thăm”
- Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi .
Tiến hành :
-
Trọng
tài để một bộ phiếu lên bàn cho học
sinh xụng phong lên thử tài so sánh ( 1 bộ phiếu 5 từ thì
dành cho 5 người “thử tài”).
-
Học
sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe rồi nêu thật
nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó.
-
Ví
dụ: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cum từ so sánh: trắng như tuyết, trắng như vôi, ( hoặc : trắng
như trứng gà bóc ).
-
Trọng
tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận
kết quả Đúng- Sai
+ Đúng được bao nhiêu kết quả được
bấy nhiêu điểm .
+ Trọng tài đếm từ 1-5 vẫn không
nêu được kết quả thì không có điểm .
-
Lần
lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài .Hết 5 phiếu thì về chỗ , thư kí công bố
kết quả .
-
Mỗi
bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có tài so
sánh cao nhất là người thắng cuộc.
·
Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh
động của giáo viên . Cũng có thể mỗi học sinh lần lược bốc cả 5 phiếu . Mỗi
phiếu chỉ cần nêu 1 cụm từ . Người thứ không được nêu lặp cụm từ của người
trước . Hoặc cũng có thể bốc cả 5 phiếu và tiến hành theo nhóm . Nhóm nào tìm
được nhiều cụm từ nhất thì nhóm đó thắng .
Tham khảo:
1/ Gợi ý các cụm từ
có hình ảnh so sánh nêu ở mục chuẩn bị
Bộ phiếu A: ( 5 từ chỉ hoạt động, trạng thái)
-
Đọc
: Đọc như đọc kinh, đọc như rên rỉ, đọc như cuốc kêu, đọc như nói thầm ...
-
Viết
: viết như gà bới , viết như giun bò , viết như rồng bay phượng múa, viết như
in,...
-
Cười
: cười như nắc nẻ, cười như pháo nổ , cười như mếu, ...
-
Nói
: nói như khướu, nới như vẹt, nói như Trạng Quỳnh, nói như thánh tướng ,...
-
Khóc
: khóc như mưa, hkhóc như ri, hkhóc như cha chết , ...
Bộ phiếu B ( 5 phiếu từ chỉ màu sắc ):
-
Trắng
: trắng như trứng gà bóc , trắng như tuyết , trắng như vôi, trắng như bột lọc , trắng như ngà voi ,...
-
Xanh:
xanh như tàu lá, xanh như pha mực, xanh như nước biển ...
-
Đỏ
: Đỏ như máu , đỏ như son, đỏ như gấc , đỏ như mận chín , đỏ như ớt , đỏ như
quả cà chua,...
-
Đen
: đen như than, đen như gỗ mun, đèn như cột nhà cháy , đen như bồ hóng , đen
như quạ , đen như cuốc ,...
-
Vàng:
vàng như nghệ, vàng như mật ong, vàng như tơ, vàng như nắng , vàng như lụa ,...
Bộ phiếu C: ( 5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính
chất )
-
Đẹp
: đẹp như tiên, đẹp như hoa, đẹp như tranh,đẹp như mơ,...
-
Cao:
cao như núi , cáo như ngọn tháp , cao như sếu , cao như cây sào ,..
-
Khoẻ : khoẻ
như voi, khoẻ như trâu, khoẻ như bò mộng , khoẻ như hổ, khoẻ như lực sĩ
,...
-
Nhanh:
nhanh như sóc , nhanh như điện, nhanh như cắt, nhanh như gió , nhanh như chớp
,...
-
Chậm:
chậm như sên, chậm như rùa, ...
2/ Gợi ý thêm một số
bộ phiếu để “ thử tài so sánh”
Bộ phiếu D: ( 5 từ chỉ trạng thái)
-
Buồn
: buồn như đưa đám, buồn như mất của, buồn như cha chết ,...
-
Vui:
vui như tết, vui như hội, vui như bắt được vàng, vui như mở cờ trong bụng ,...
-
Sướng
: sướng như tiên , sướng như vua, sướng như ông Hoàng(vua)
-
Khổ
: khổ như trâu ngựa, khổ như ăn mày, khổ như nô lệ,...
-
Im:
im như thóc , im như hến , im như ngủ,...
Bộ phiếu E: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính
chất )
-
Lạnh
: lạnh như tiền, lạnh như đồng , lạnh như ướp đá , lạnh như băng,...
-
Nóng
: nóng như thiêu, nóng như lửa đốt, nóng như bếp lò nung,...
-
Chua:
chua như dấm , chua như mẻ, chua như khế ,...
-
Ngọt
: ngọt như đường cát, ngọt như mía lùi , ngọt như mật ong,...
-
Đắng : đắng như bồ hòn, đắng như mật gấu,
Bộ phiếu G: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính
chất )
-
Gầy
: gầy như cò hương, gầy như hạc, gầy như que tăm, gầy như cây củi, gầy như ống
sậy,...
-
Hiền
: hiền như phật, hiền như bụt, hiền như cô Tấm , hiền như đất ,...
-
Dữ
: dữ như báo, dữ như cọp, dữ như hổ, dữ như
chó sói ,...
-
Tròn : tròn như bi ve, tròn như cái đĩa, tròn
như quả bóng ,...
-
Cong: cong như lưỡi liềm, cong như cầu vồng,
cong như con tôm, cong như cánh cung,..
* Về phía giáo viên :
-
Sau mỗi bài học , giáo viên phải dành thời gian cho phần dặn dò bài sau
thật cụ thể . Có như vậy học sinh mới chuẩn bị tốt bài mới .
-
Luôn có sự kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh . Nhận xét cụ thể.
- Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy .
Định hướng cụ thể phương pháp và hình thức tổ chức cho từng hoạt động .Phân bố
thời gian hợp lí cho từng hoạt động .
- Luôn gắn lí thuyết với thực hành.
- Phải trực quan, không thể thiếu
đồ dùng dạy học ( Mô hình,kí hiệu , đồ dụng,
- Hệ thống ngôn ngữ phải trong sáng , gần gũi, dễ hiểu
- Nếu dự định tổ chức trò chơi học
tập thì phải chuẩn bị kĩ . Lường trước các tình huống sư phạm có thể xảy ra.(
Học sinh có thể dùng từ thiếu tính sư phạm ,...) không chơi ngẫu hứng , tuỳ tiện .
+ Từ chỗ thầy đọc trò chép để nhớ
kiến thức chuyển sang học trò tự tìm hiểu kiến thức qua thực hành dưới sự quan
sát ,hướng dẫn của giáo viên .Từ đó ta thấy được ĐMPPDH là việc làm thiết thực
trong ngành giáo dục.
Nguồn: ST
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/