MỤC
LỤC
SƠ YẾU LÝ LỊCH |
1 |
LỜI CẢM ƠN |
3 |
A. ĐẶT VẤN
ĐỀ |
4 |
I. Lý do chọn đề tài |
4 |
II. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu |
6 |
B. GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ |
6 |
I. Cơ sở
lí luận |
6 |
II. Cơ sở
thực tiễn |
6 |
1. Thuận lợi |
6 |
2. Khó khăn |
7 |
3. Số liệu trước khi thực hiện |
7 |
III. Các
biện pháp thực hiện |
8 |
1. Biện pháp 1. Trải nghiệm để gây hứng thú |
8 |
2. Biện pháp 2. Nâng cao năng lực tổ chức hoạt
động thực hành thí nghiệm |
9 |
3. Biện pháp 3. Đưa các thí nghiệm khoa học vào
tiết dạy |
12 |
4. Biện pháp 4. Cho trẻ làm thực nghiệm ở mọi
lúc mọi nơi |
18 |
5. Biện pháp 5. Biện pháp tuyên truyền phổ biến
kiến thức và phối hợp... |
20 |
C. KẾT QUẢ
VÀ KIẾN NGHỊ |
21 |
1. Kết quả
đối chứng sau khi thực hiện |
22 |
2. Kết
luận |
23 |
3. Bài học
kinh nghiệm |
23 |
4. Những
kiến nghị và đề nghị sau khi thực hiện đề tài |
24 |
D. TÀI
LIỆU THAM KHẢO |
|
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tên đề tài:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động
khám phá khoa học qua các thí nghiệm cho trẻ 5 - 6 tuổi”
I. Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi sinh ra, trẻ đã bước vào thế giới đầy mới lạ:
các sự vật, hiện tượng tự nhiên – xã hội, con người… từ đó những biểu tượng đầu
tiên sẽ được hình thành ở trẻ. Quá trình này cũng chịu ảnh hưởng bởi không ít những yếu tố.
Trước tiên phải kể đến bản thân trẻ, với tư cách là chủ thể của quá trình nhận
thức vì thế bản thân trẻ quyết định sự phát triển của chính mình. Môi trường cùng
với những dụng cụ trực quan chi phối rất nhiều đến hoạt động nhận thức của trẻ,
định hướng hành vi cá nhân. Để giúp trẻ hoạt động tích cực, chủ động, giáo viên
nên sử dụng môi trường, đồ dùng là vật thật, mô hình với tư cách là yếu tố để
điều chỉnh hành vi cá nhân bằng cách quan tâm đến việc tổ chức môi trường hoạt
động cho trẻ, điều khiển hành vi, hoạt động của trẻ thông qua môi trường. Bên
cạnh đó người lớn và bạn cùng chơi cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển nhận thức của trẻ, tri thức sẽ xuất hiện ở trẻ với sự giúp đỡ của người
lớn. Do vậy, một giáo viên tốt phải đưa ra những kiến thức phù hợp với mức độ
phát triển của trẻ và không áp đặt áp lực lên quá trình phát triển mà phải trợ
giúp cho quá trình này tiến về phía trước. Để tạo điều kiện cho sự phát triển
trí tuệ của trẻ em trong quá trình hướng dẫn trẻ khám phá khoa học, giáo viên
cần:
- Coi tính tích cực của cá nhân trẻ là động lực chính của sự phát triển
trẻ em: tôn trọng trẻ, coi mỗi trẻ là một chủ thể nhận thức độc lập; quan sát,
đánh giá đúng sự phát triển của trẻ để giúp đỡ, hỗ trợ phát triển kịp thời các
ý tưởng ở chúng.
- Cần tạo môi
trường, đồ dùng dụng cụ là mô hình, vật thật cho trẻ hoạt động tích cực: coi
môi trường, đồ dùng, mô hình, vật thật vừa là điều kiện và đồng thời là yếu tố
trung gian để giáo viên chỉ đạo hành vi của trẻ thông qua việc lựa chọn, bổ
sung, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi và tạo không gian cho trẻ hoạt động.
- Người lớn
giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ. Vai trò của người
lớn không chỉ tạo điều kiện cho trẻ hoạt động, điều khiển hành vi gián tiếp
thông qua môi trường, mà còn trực tiếp điều khiển trẻ trong quá trình hoạt động
với tư cách là người khuyến khích, động viên, giúp đỡ, hỗ trợ thực thi các ý
tưởng của trẻ.
Chính vì vậy
phát triển nhận thức, đặc biệt là hình thành thái độ nhận thức và kỹ năng nhận
thức của trẻ là một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non nhằm hình thành nền
tảng cho việc học tập của trẻ trong tương lai.
Những năm gần
đây, giáo dục khoa học (tổ chức hoạt động khám phá khoa học) cho trẻ trong
trường mầm non nhằm phát triển nhận thức của trẻ đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chương trình giáo dục
mầm non của nhiều nước tiên tiến trên thế giới như: Mĩ, Trung Quốc, Hàn Quốc…
nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ sống trong một thế giới có những thay đổi khoa
học, công nghệ nhanh chóng, luôn đòi hỏi con người phát triển tư duy sáng tạo,
linh hoạt để thích ứng với cuộc sống thực tại. Theo xu thế đó, hoạt động khám
phá khoa học cũng đã trở thành bộ phận quan trọng của chương trình giáo dục
mầm non mới đã được Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ký ban hành theo Quyết định số 17/2009/TT–BGDĐT ngày 25/7/2009.
Trong thực tế,
tôi mới trải qua một năm thực hiện chương trình mầm non mới, tôi cũng đã cố
gắng đổi mới hình thức các tiết khám phá khoa học nhưng kết quả vẫn còn hạn
chế.
- Bản thân
giáo viên còn lúng túng, bỡ ngỡ trong việc vận dụng cách hình thức đổi mới vào
hoạt động khám phá khoa học.
- Những hiểu
biết của trẻ sau khi tham gia vào tiết khám phá khoa học còn chưa bộc lộ rõ
ràng, kiến thức của trẻ chưa vững chắc, khả năng tư duy phát hiện vấn đề vẫn
chưa đi theo chiều hướng tích cực như mong muốn. Trẻ trong lớp còn nhút nhát,
lúng túng, thiếu tự tin khi thực hiện nhiệm vụ được cô giao.
Năm học 2011-
2012 tôi được nhà trường tiếp tục giao cho phụ trách lớp 5 tuổi. Là một giáo
viên chủ nhiệm tôi rất băn khoăn lo lắng trong việc làm thế nào để trẻ có những
kiến vững vàng, mạnh dạn tự tin cùng với những tư duy khoa học làm hành trang
để bước vào lớp 1, một bước ngoặt đáng kể trong cuộc đời của trẻ. Và cũng đồng
nghĩa với việc làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ năm học mà nhà trường giao
phó.
Những suy
nghĩ, những câu hỏi đó đã làm tôi băn khoăn trăn trở rất nhiều. Cuối cùng tôi
cũng tìm ra một số hoạt động để cô và trẻ cùng tham gia: các thí nghiệm khoa
học, các hoạt động trải nghiệm. Cô và trẻ cùng tham gia thí nghiệm, cùng chơi,
cùng trải nghiệm.
II. Đối tượng,
phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Khám phá khoa học qua một số thí nghiệm
và hoạt động trải nghiệm
Phạm vi:
Lớp A2 (5 - 6 tuổi) Trường mầm non
Thời gian thực
hiện:
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý
luận
Bản thân là
một giáo viên thuộc tổ 5 tuổi của nhà trường, tôi thường xuyên tìm hiểu về tình
hình sử dụng các thí nghiệm khoa học vào các hoạt động khám phá khoa học của
các bạn đồng nghiệp qua các buổi họp tổ chuyên môn. Tôi nhận thấy đa số giáo
viên chỉ sử dụng biện pháp cho trẻ trải nghiệm với mô hình, vật thật… trong một
khoảng thời gian rất ngắn, khoảng 5 - 7 phút, thời gian còn lại chủ yếu trẻ
được hoạt động với đồ dùng, đồ chơi…. vì vậy việc tổ chức cho trẻ làm các thí
nghiệm khoa học, để trẻ được trải nghiệm nhiều hơn với vật thật, được nhìn thấy
những điều kỳ diệu, tạo ra những sản phẩm mang tính chất khoa học là rất cân
thiết.
II. Cơ sở
thực tiễn
1. Thuận lợi:
- Được sự quan
tâm của Phòng GD - ĐT cùng với nhà trường thường xuyên mở các chuyên đề nhằm
bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
- Cơ sở vật
chất về diện tích lớp học rộng rãi, sạch sẽ, thoáng mát, và đặc biệt lớp học
còn được trang bị 1 máy vi tính màn hình
rộng
- Bản thân tôi
luôn yêu nghề, mến trẻ, ham học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Đa số trẻ ngoan, có ý thức đến lớp đều đặn, 100% trẻ đã qua lớp 4 - 5
tuổi.
2. Khó khăn:
- Trường nằm
bên ven đường nên nhiều tiếng ồn ảnh hưởng đến sự tập trung chú ý của trẻ.
- Một số cháu
trai trong lớp còn quá hiếu động.
- Diện tích
sân trường còn quá trật hẹp không thuận lợi cho các thí nghiệm thực hiện ở
ngoài trời.
- Các loại đồ
dùng, phương tiện, phục vụ các thí nghiệm còn hạn chế. Những mô hình, những vật
mẫu, những vật thật, đồ thật rất ít ỏi.
- Các bậc phụ
huynh chưa thật sự quan tâm đến hoạt động khám phá khoa của trẻ mầm non.
- Bản thân
giáo viên còn lúng túng trong việc đưa hình thức đổi mới giáo dục vào hoạt động
khám phá khoa học.
3. Số liệu
điều tra trước khi thực hiện:
Tổng số trẻ là
39 cháu
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát các cháu với những tiêu chí cụ thể như sau:
STT |
Nội
dung |
Mức
độ đạt được |
|
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
||
1 |
Trẻ hứng thú tích cực vào hoạt động |
25 |
64,1% |
2 |
Khả năng tư duy |
24 |
61,5% |
3 |
Kĩ năng làm thí
nghiệm |
15 |
38,4% |
4 |
Khả năng biết diễn đạt kết quả thí nghiệm |
26 |
66,7% |
III. Các biện pháp thực hiện
1. Biện pháp
1: Trải nghiệm để gây hứng thú
Trải nghiệm là
giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Việc trải nghiệm với đối tượng diễn
ra nhờ sử dụng các giác quan, các bộ phận trên cơ thể. Do vậy tính tích cực
nhận thức của trẻ chỉ được thể hiện trong điều kiện nếu chúng được tiếp xúc
trực tiếp với các đối tượng và biết cách khảo sát đối tượng.
Để giúp trẻ
tích cực trải nghiệm với đối tượng, giáo viên cần tạo ra môi trường cho trẻ
hoạt động với các đối tượng phong phú, đa dạng, được bố trí ở nơi thuận tiện để
trẻ tích cực thao tác với các đối tượng và giao tiếp với bạn trong môi trường
hoạt động đó. Ngoài ra, giáo viên cần gợi mở giúp trẻ biết cách sử dụng các
giác quan và mọi khả năng của cơ thể để khám phá đối tượng. Nhờ tích cực khảo
sát đối tượng mà trẻ có những tri thức đầu tiên về đặc điểm đối tượng. Đây là
cơ sở để gây hứng thú vào giờ học cho trẻ đồng thời cũng là cơ sở để tích cực
hoá các hoạt động tư duy.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Ví dụ: Tiết
dạy phân nhóm đồ dùng gia đình theo chất liệu
1. Mục đích:
- Biết phân
nhóm đồ dùng theo chất liệu
- Biết những
đồ dùng có chất liệu nhựa thì nổi, kim loại thì chìm
- Biết đồ dùng
bằng sành, sứ, thuỷ tinh thì cũng chìm.
2. Chuẩn bị:
- Các
đồ dùng cần thiết cho 1 bữa cơm thông thường trong gia đình: bát con , bát to, đĩa,
thìa, đũa, muôi…(không sử dụng đò dùng có chất liệu dễ vỡ).
- Các
đồ dùng trong gia đình: thìa nhựa, thìa inox, cốc nhựa, cốc nhựa, cốc inox, đĩa
nhựa, đĩa inox
- Các chậu chứa nước
3. TiÕn hµnh:
Bước 1: Ổn định tổ chức, trải nghiệm đối tượng
- Hát bài: “Đồ dùng bé yêu” sáng tác Minh Châu
- Cho trẻ chơi trò chơi: “Thử tài của bé”
Cách chơi: Cô chia lớp làm hai nhóm, nhiệm vụ của mỗi nhóm sẽ phải
chuẩn bị và sắp xếp những đồ dùng cần thiết cho bữa cơm gia đình.
Luật chơi: thời gian cho các con là một bản nhạc, kết
thúc bản nhạc đội nào sắp xếp được đầy đủ, nhanh, đẹp sẽ dành phần thắng.
Bước 2:
- Cho trẻ gọi tên các đồ dùng
cô đã chuẩn bị.
- Cho
trẻ dự đoán điều gì sẽ xảy ra khi cô thả một đồ dùng bằng nhựa vào chậu nước.
- Vì sao đồ dùng bằng nhựa thì
nổi, đồ đựng bằng kim loại lại chìm.
Bước 3:
- Cô làm thí nghiệm các vật chìm nổi cho trẻ quan sát.
- Cho trẻ suy nghĩ, nhận xét về những vật làm từ cùng 1
chất liệu khi thả vào nước
- Mời trẻ lên
chia đồ vật làm 2 nhóm, nhóm những vật nổi và nhóm những vật chìm, sau đó xác định chất liệu của từng nhóm
- Nhận xét về
chất liệu các vật chìm nổi
- Cô kết luận:
đồ dùng có chất liệu bằng nhựa thì nổi, đồ dùng có chất liệu bằng kim loại thì
chìm.
Bước 4:
- Cô chia lớp làm 3 nhóm cho trẻ thực hành thí nghiệm.
- Cho trẻ chia
nhóm đồ vật theo chất liệu.
- Trẻ xác định
chất liệu của từng nhóm.
- Nhóm trưởng
đua ra kết luận: đồ dùng có chất liệu bằng nhựa thì nổi, còn đồ dùng có chất
liệu là kim loại thì chìm.
Mở rộng: ngoài những đồ dùng có chất liệu là kim loại thì
một số đồ dùng có chất liệu bằng sành, sứ, thuỷ tinh… cũng là những vật chìm
trong nước.
Biện pháp 2.
Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực hành thí nghiệm
Tổ chức cho
trẻ khám phá khoa học qua các thí nghiệm là một điều mới mẻ đối với cả cô và
trẻ. Trong quá trình này cô giáo đóng một vai trò rất quan trọng đối với việc
lĩnh hội tri thức của trẻ vậy nên đòi hỏi người giáo viên cần có kiến thức
phong phú về mọi lĩnh vực về khoa học tự nhiên, hiểu được quy luật phát triển
của sự vật hiện tượng, biết giải thích sự vật, hiện tượng theo đúng quan điểm
duy vật về mối quan hệ giữa sự vật hiện tượng diễn ra trong tự nhiên.
Chính vì vậy
tôi bắt tay vào việc trang bị kiến thức về các thí nghiệm khoa học cho bản thân
bằng cách: Thu thập và nghiên cứu tài liệu về khám phá khoa học qua các thí
nghiệm cho trẻ mầm non bằng sách vở tài liệu, mạng internet.
Nghiên cứu các
tài liệu về thí nghiệm khoa học là nhiệm vụ quan trọng cần thiết cho các tiết
dạy khám phá khoa học của trẻ. Nhờ có sự tập dượt này người giáo viên mới có
thể thành công và thu được kết quả cao trong các tiết dạy.
Tuy nhiên việc
nghiên cứu các tài liệu về các thí nghiệm khoa học vẫn chỉ dừng lại ở mặt lý
thuyết mà khám phá khoa học lại là hoạt động ứng dụng thực tiễn vì vậy việc ứng
dụng các thí nghiệm khoa học là rất cần thiết bởi:
+ Khi giáo
viên tự thực hiện thí nghiệm sẽ giúp giáo viên có các kỹ năng làm các thí
nghiệm tránh tình trạng giáo viên bị lúng túng và xử lý không tốt các tình
huống xảy ra.
+ Khi tự thực
hiện các thí nghiệm giáo viên có thể điều chỉnh những bất cập, những điều không
mong muốn có thể xảy ra.
Sau quá trình
tự mình nghiên cứu lý thuyết và thực hành các thí nghiệm tôi thấy tự tin hơn
rất nhiều để tổ chức cho trẻ thực hiện các thí nghiệm khoa học.
Ví dụ: Ở bài dạy “Sự kỳ diệu của nước” tôi tiến hành
như sau:
I. Yêu cầu:
- Trẻ biết được một số tính chất của
nước ( không màu, không mùi, không vị, có thể hòa tan, không hòa tan
được một số chất) và có thể phân biệt được 1 số lớp chất lỏng khi
cho vào trong nước
-
Trẻ có kĩ năng làm một số thí nghiệm đơn giản về nước.
-
Giáo dục trẻ học tập theo tấm gương đạo đức Bác Hồ: cần tiết kiệm
nước trong sinh hoạt vì nước rất cần thiết cho cuộc sống.
II. Chuẩn bị:
·
Dụng cụ thí nghiệm cho trẻ: ly nhựa,
muỗng, muối, sỏi, si rô, dầu ăn.
·
Đồ dùng thí nghiệm của cô: 2 chai nhỏ
trong, 2 lọ trong lớn chứa đầy nước, 1 lọ màu thực phẩm, nước nóng.
·
Đoạn phim biểu diễn Nhạc nước và trò chơi
trên máy tính.
III. Mở rộng kiến thức: cho trẻ xem
thí nghiệm khoa học phân biệt nước nóng – nước lạnh.
IV. Tiến hành:
1. Hoạt động 1: Nước – điều kì diệu của cuộc sống.
- Cô mời cả lớp tham gia chương trình “ Em yêu khoa học”
- Trò chuyện với lớp về nước:
+ Hôm nay các bạn
mặc những bộ trang phục rất đẹp, các bạn có bí quyết gì để có
trang phục sạch đẹp này ? ( do mẹ giặt hằng ngày)
+ Vậy khi giặt
quần áo thì cần có gì ? ( xà bông
và nước)
+ Cần có nước để
giặt, rồi cần có nắng và gió để làm khô áo quần!
* Cô giới thiệu: Nước, nắng, gió là
những điều kì diệu trong cuộc sống. Hôm nay chúng ta cùng khám phá
những điều kì diệu của nước nhé!
2. Hoạt động 2: Bé khám phá và trải nghiệm
- Chia lớp thành 2 nhóm làm thí
nghiệm:
+
Nhóm 1: thí nghiệm về tính chất của nước: không mùi, không vị, không
màu, có thể hòa tan và không hòa tan một số chất.
+ Nhóm 2: thí nghiệm tách lớp chất
lỏng trong nước.
- Nhóm trưởng mỗi nhóm lên báo cáo
kết quả thí nghiệm:
+
Nhóm 1: khi rót nước vào ly, nhận thấy nước không có màu ( vì khi
cầm ly lên có thể nhìn thấy các ngón tay qua nước), ngửi ly nước
thấy nước không có mùi, nếm thử nước thấy nước không có vị. Khi cho
muối vào, nước hòa tan lên, nhận thấy nước không màu, không mùi nhưng
có vị.Khi cho sỏi vào, nước không hòa tan được sỏi.
Kết
luận: Nước có tính chất không màu, không mùi, không vị, có thể hòa
tan một số chất và không hòa tan một số chất.
+
Nhóm 2: Đổ lần lượt các lớp chất lỏng : si rô, dầu ăn, nước vào
trong ly, quan sát ly chất lỏng vừa đổ, thấy các chất lỏng sắp xếp
theo thứ tự trong ly như sau: si rô dưới đáy ly, nước ở giữa và dầu ăn
phía trên.
Kết luận: Do lớp si rô nặng hơn nước nên
chìm xuống dưới cùng, lớp nước nhẹ hơn si rô nhưng nặng hơn dầu ăn do
đó nằm ở giữa, lớp trên cùng là dầu ăn vì dầu ăn nhẹ hơn nước và
si rô.
- Cho trẻ xem cô làm thí nghiệm : Ảo
thuật với nước nóng, nước lạnh.
+
Cho trẻ quan sát và gọi tên các dụng cụ thí nghiệm. Đầu tiên, cô đổ
nước lạnh và nước nóng vào đầy 2 lọ nhỏ, sau đó nhỏ vài giọt màu
thực phẩm vào 2 chai, cẩn thận thả chai nước vào trong 2 lọ lớn, mời
trẻ sẽ theo dõi thí nghiệm lại sau vài phút.
3. Hoạt
động 3: Thử tài bé yêu
-
Cho trẻ chơi trò chơi tìm những chất tan, không tan trong nước, và xếp
thứ tự vị trí các lớp chất lỏng : si rô, nước, dầu ăn trong ly.
- Cho trẻ xem đoạn phim các bé vui
chơi ở khu chơi nước.
- Cho trẻ xem đoạn phim biểu diễn
Nhạc nước.
- Xem một số hình ảnh nước còn có
thể cứu hỏa.
- Xem kết quả thí nghiệm “Ảo thuật
với nước nóng – nước lạnh”
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Cho
trẻ quan sát thấy: nước màu trong chai chứa nước lạnh không dâng lên và
không tràn màu sang lọ lớn, còn nước màu trong chai chứa nước nóng
dâng lên và tràn màu sang lọ lớn.
* Giải thích: nước nóng nhẹ hơn
nước lạnh, vì vậy khi thả vào nước lạnh, nó dâng lên và tràn màu
sang lọ lớn.
- Giáo dục trẻ: Nước có rất nhiều
điều kì diệu xung quanh chúng ta, vì vậy khi dùng nước chúng ta luôn
nhớ học tập theo tấm gương của Bác Hồ, cần sử dụng nước tiết kiệm,
vừa đủ: khi rửa tay mở vòi nước vừa đủ, rửa xong tắt ngay, uống hết
nước trong cốc.
3. Biện pháp 3: Các thí nghiệm vào lớp dạy :
Được trực tiếp
làm thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là một điều thú vị đối với trẻ.
Thật vậy, cứ để cho các cháu được hoạt động, được trải nghiệm, được thử - sai.
Cuối cùng qua quá trình đó trẻ có một kết quả (một sản phẩm của lao động) khiến
trẻ vô cùng vui sướng. Mặt khác những kiến thức mà giáo viên muốn truyền thụ
cho trẻ, được trẻ ghi nhớ một cách tự nhiên, sâu sắc mà không hề áp đặt, gò bó.
Thí nghiệm 1:
CÁC LỚP CHẤT LỎNG
1. Mục đích:
- Giúp trẻ
nhận biết, phân biệt các chất lỏng khác nhau.
- Nhận biết
lớp siro nặng nhất nên chìm xuống dưới, lớp dầu ăn nhẹ nhất nên nổi lên trên
cùng. Còn lớp nước ở giữa.
2. Chuẩn bị:
- 1 chai dầu
ăn, 1 chai nước, 1 chai siro dâu
- 3 cốc thuỷ
tinh, khay.
- Các miếng
xốp màu: đỏ, trắng, vàng.
3. Tiến hành:
Bước 1:
- Cho trẻ quan
sát và gọi tên 3 chai chất lỏng: dầu ăn, nước trắng, siro dâu
- Mỗi chất
lỏng cô dùng 1 miếng xốp mầu tương ứng với màu chất lỏng vàng, trắng, đỏ.
Bước 2:
- Cho trẻ chọn
chất lỏng thứ nhất đổ vào ly trước và chọn miếng xốp có màu tương ứng gắn lên
bảng.
- Cho trẻ chọn
chất lỏng thứ 2 và đổ vào ly. Yêu cầu trẻ dự đoán nó sẽ đứng chỗ nào trong cái
ly? Chọn miếng xốp màu tương ứng gắn tiếp lên bảng. Cô cho trẻ quan sát lớp
chất lỏng thứ 2, nó đứng ở vị trí nào trong cái ly? Có đúng như dự đoán của trẻ
không?
- Tiếp tục cho
trẻ làm tương tự với chất lỏng thứ 3.
- Cho trẻ quan
sát vị trí các lớp chất lỏng ở trong ly để rút ra kết luận: lớp siro nặng hơn
nước nên chìm xuống dưới cùng. Lớp nước nhẹ hơn siro nhưng nặng hơn dầu ăn nên
đứng ở giữa. Lớp trên cùng là lớp dầu ăn vì dầu ăn nhẹ hơn lớp nước và lớp
siro.
Bước 3:
- Chia trẻ làm
3 nhóm, mời đại diện của mỗi nhóm lên bắt thăm lựa chọn thứ tự các chất lỏng để
đổ vào: (đỏ - trắng - vàng; trắng - đỏ - vàng; vàng - đỏ - trắng). Sau đó mỗi
nhóm sẽ đổ thứ tự các lớp chất lỏng theo như đã lựa chọn và mang ly chất lỏng
vừa thực hiện cùng quan sát xem các lớp chất lỏng có đứng đúng vị trí như đã
lựa chọn ban đầu không?
- Cho trẻ tự
rút ra kết luận: dù đổ chất lỏng nào trước thì nó vẫn đứng theo đúng thứ tự:
siro, nước trắng, dầu ăn vì siro nặng nhất, nước nhẹ hơn và dầu ăn nhẹ nhất.
- Trẻ lên gắn lại những miếng xốp màu theo đúng vị trí các chất lỏng
trong ly
* Mở rộng:
Cho trẻ thả
một số vật như: cao su, nhựa, sỏi, gỗ, sắt…và quan sát xem nó nổi hoặc chìm ở
lớp chất lỏng nào và tự rút ra kết luận
Thí nghiệm 2: DẦU ĂN VÀ XÀ PHÒNG
1. Mục đích:
- Trẻ biết một
số chất tan và không tan trong nước
- Biết tác
dụng của nước rửa bát
2. Chuẩn bị:
- 1 chai đựng
nước sạch có lắp đậy.
- Dầu ăn, nước
rửa bát
3. Tiến hành:
Bước 1:
- Đổ nước vào
chai khoảng ½ chai
- Cho 1 lượng
dầu ăn vào lắc đều
- Quan sát
hiện tượng xảy ra.
- Cầu trẻ đưa
ra nhận xét (dầu ăn không tan trong nước)
- Khi rửa bát
đĩa dính nhiều dầu mỡ, chỉ rửa với nước không thôi thì có bát đĩa có sạch
không? Vì sao? (dầu ăn không tan trong nước)
- Muốn sạch
dầu mỡ ở bát đĩa thì cần đến cái gì? Vì sao? Cô và các con cùng tìm câu trả
lời.
Bước 2:
- Cho thêm 1
chút nước rửa bát vào chai có chứa nước và dầu ăn.
- Cho trẻ đoán
điều gì sẽ xảy ra.
- Quan sát
hiện tượng xảy ra.
- Trẻ đưa ra
nhận xét, màu sắc đã biến đổi như thế nào? Vì sao?
- Kết luận:
dầu ăn tan trong hỗn hợp nước và nước
rửa bát và sinh ra 1 hỗn hợp có màu trắng đục như sữa.
Bước 3
- Chia trẻ làm
3 nhóm thực hiện.
- Hỏi trẻ cách
làm, nhận xét hiện tượng xảy ra.
- Trẻ thảo
luận hội ý đưa ra kết luận.
Thí nghiệm 3: NƯỚC LĂN TRÒN TRÊN GIẤY
1. Mục đích:
- Biết 1 số
chất thấm nước và chất không thấm nước.
2. Chuẩn bị:
- 1 Vỏ lọ thuốc
nhỏ mắt đã hết, 1 chút nước.
- 3 tờ giấy A4
- Màu nước, sáp màu
3. Tiến hành:
Bước 1: Trò chuyện
- Khi nhỏ nước
lên trang giấy thì điều gì xảy ra? (nước làm ướt giây)
- Làm thế nào
để giọt nước có thể lăn tròn trên giấy?
Bước 2:
- Cô giới
thiệu 3 tờ giấy :
+ Tờ giấy thứ
nhất cô để trắng
+ Tờ thứ 2 cô
đã tô màu nước kín tờ giấy
+ Tờ thứ 3 cô
tô màu sáp kín tờ giấy.
- Theo các con
điều gì xảy ra khi cô nhỏ 1 vài giọt nước lên 3 tờ giấy?
Bước 3:
- Cô nhỏ vài
giọt nước lên từng tờ giấy.
- Vài phút sau
cô cho trẻ quan sát điều xảy ra với từng tờ giấy.
- Cho trẻ đoán
xem giọt nước nào có thể lăn tròn được?
- Vì sao giọt
nước có thể lăn tròn trên tờ giấy tô màu sáp?
Kết luận: Giấy thấm nước, màu nước có thể tan trong nước,
còn sáp màu không thấm nước và cũng không tan trong nước nên giọt nước nhỏ vào
tờ giấy tô màu sáp không thấm qua sáp xuống giấy vì thế giấy không ướt và nước
có thể lăn tròn trên giấy.
Bước 3:
- Chia trẻ làm
3 tổ và cho trẻ làm thí nghiệm theo tổ
- Sau khi làm
thí nghiệm cô cho trẻ nhắc lại cách làm
- Trẻ tự đưa
ra kết luận
KHÁM PHÁ VỀ KHÔNG KHÍ
Thí nghiệm 1: KHÔNG KHÍ Ở ĐÂU
Tôi sử dụng
một số trò chơi nhỏ:
Trò chơi 1: Chúng ta thở được là nhờ gì?
+ Cho trẻ bịt mũi, hỏi trẻ thở có dễ dàng không?
(không ạ)
+ Vậy để thở
dễ dàng hơn thì phải làm như thế nào? (bỏ tay ra ạ)
+ Cho trẻ đứng
vào chỗ qui định, hỏi trẻ: có thở được không?
+ Cho trẻ đứng
vào các góc khác nhau cùng vài bạn nữa và hỏi trẻ: có thở được không?
+ Cho trẻ đứng
tự do trong lớp, hỏi trẻ có thở được không?
Lúc này cô đặt
câu hỏi:
+ Chúng ta thở
được là nhờ gì? (nhờ có không khí ?)
+ Vậy không
khí có ở đâu? (Trẻ trả lời theo ý hiểu của mình)
+ Cô đưa ra
kết luận: như vậy không khí ở xung quanh chúng ta.
Tôi tiếp tục
đưa ra tình huống:
+ Có ai bắt
được không khí không? Một số trẻ nói là có, một số trẻ nói không?
+ Vậy làm cách
nào để bắt được không khí?
Lúc này trẻ
đưa ra rất nhiều ý kiến: lấy chai, lấy hộp, lấy cốc… để bắt không khí. Tôi phát
cho mỗi cháu 1 túi nilon và yêu cầu: hãy bắt và cho không khí vào túi.
Mỗi cháu đã
thực hiện một cách khác nhau: nắm bắt không khí xung quanh bỏ vào túi, với
không khí cho vào túi… nhưng các cháu vẫn chưa thấy gì trong túi.
Lúc này tôi
đưa ra gợi ý: Làm thế nào để túi phồng to lên đi. Trẻ đã phát hiện ra là phải
thổi hơi vào túi và muốn giữ hơi trong túi thì phải buộc miệng túi lại. Và tôi
bắt đầu giải thích: “không khí đang ở trong túi trên tay các con đấy”.
Cho trẻ chơi
với túi không khí:
+ Lấy kéo cắt
1 góc túi để trẻ cảm nhận không khí thoát ra hoặc lấy 1 vật đâm thủng túi sẽ thấy
hơi xì ra. Đó là không khí:
+ Yêu cầu trẻ
đưa ra cảm nhận của mình về không khí
+ Cô chốt lại
không khí là thể hơi, không màu, không nhìn thấy bằng mắt thường mà chỉ có thể
cảm nhận bằng cơ quan xúc giác. Không khí luôn ở bên cạnh con người, con người
phải có không khí thì mới thở và mới sống được.
4. Biện pháp
4: Cho trẻ làm thí nghiệm ở mọi lúc mọi nơi
Để giúp trẻ
khám phá, thực hành trải nghiệm với khoa học vui ở mọi lúc mọi nơi tôi còn tổ
chức khám phá khoa học ở các hoạt động khác như: hoạt động ngoài trời, hoạt
động góc.
Ví dụ: Ở chủ
đề các hiện tượng tự nhiên tôi làm thí nghiệm “Cầu vồng xuất hiện” khi cho trẻ
hoạt động ngoài trời.
HÌNH ẢNH CÔ VÀ TRẺ LÀM THÍ
NGHIỆM Ở HĐ NGOÀI TRỜI
Thí nghiệm: Cầu vồng xuất
hiện
1. Mục đích:
- Biết ánh sáng đi xuyên
qua nước( chất trong suốt)
- Ánh sáng trắng là sự kết hợp của 7 màu
2. Chuẩn bị:
- Một cái chậu, kính soi,
kính lúp, 1 miếng bìa trắng.
3. Tiến hành:
Cho trẻ đọc
thơ “Trời nắng”. Trò chuyện với trẻ về 1 số hiện tượng tự nhiên: khi nào thì xuất
hiện cầu vồng? Yêu cầu trẻ mô tả đặc điểm hình dáng màu sắc của cầu vồng. Hôm
mặc dù trời không mưa nhưng lát nữa các con cũng được ngắm cầu vồng rực rỡ với
7 màu rất đẹp.
Bước 1:
- Chọn 1 ngày
trời nắng, đổ đầy nước vào trong 1 cái chậu.
- Đặt 1 cái gương
soi xuống dưới đáy chậu, sao cho ánh sáng mặt trời rọi vào trong gương.
Bước 2
- Đưa miếng
bìa trắng ra trước cái gương và di chuyển nó cho đến khi cầu vồng xuất hiện
trên tấm bìa( hoặc điều chỉnh gương cho đúng). Khi gương và tấm bìa đã đúng vị
trí, ta có thể dùng đất sét gắn chặt gương lại.
- Hỏi trẻ: -
con nhìn thấy gì trên tấm bìa?
Giải
thích:
- Ánh sáng có
thể chiếu xuyên qua lớp nước trong suốt.
- Lớp nước
phía trên cái gương có tác dụng như 1 thấu kính và mặt nước tách ánh sáng ra
cho nên ta thấy được các màu.
Bước 3:
- Để 1 kính
lúp vào giữa gương và tấm bìa.
- Cho trẻ quan
sát hiện tượng: cầu vồng biến mất.
Giải
thích:
Kính lúp uốn
cong ánh sáng nên các màu cùng đi ngược lại và cầu vồng biến mất. Như vậy 7 mầu
cầu vồng nhập lại thành ánh sáng trắng ban ngày giúp chúng ta nhìn rõ các vật.
Hay với chủ đề
thế giới thực vật tôi cho trẻ làm thí nghiệm: “Cây cần ánh sáng” ở góc khám phá
khoa học trong giờ hoạt động góc.
Thí nghiệm: Cây có cần ánh sáng không?
1. Mục đích:
- Trẻ biết cây
cần có ánh sáng để quang hợp
- Biết lá cây
thường có màu xanh vì có chứa chất diệp lục
2. Chuẩn bị:
- 1 cây xanh (có lá to vừa phải)
- 1 quận băng dính đen
3. Tiến hành:
- Cho trẻ gọi
tên đồ dùng, dụng cụ cô đã chuẩn bị (cây, băng dính đen)
- Chọn một cây
có lá to vừa phải
- Ngày thứ nhất dán lên một đoạn băng dính đen, sau đó
đặt cây ra nơi có nhiều ánh sáng.
- Ngày thứ 3 dán lên lá khác một
đoạn băng dính đen, cứ sau 2 ngày dán 1 lá. Chú ý: Các lá dán gần và liên tiếp nhau để dễ so sánh và
nhận xét.
- Sau 1 tuần cô và trẻ bóc băng dính ra và cùng tìm hiểu
khám phá.
+ Yêu cầu trẻ nhận xét về màu sắc của lá cây sau khi bóc
lớp băng dính đen ra.
+ Vì sao lại
có sự khác biệt về màu sắc như vậy?
+ Các lá dán
băng dính đen có màu sắc giống nhau hoàn toàn không? Vì sao lại như vậy?
Giải thích: Một chút diệp lục trong lá
cây khiến màu sắc lá cây khác nhau. Lá cây nhận được nhiều ánh sáng thì quá
trình quang hợp sẽ diễn ra, lá cây sẽ có nhiều chất diệp lục. màu xanh đậm và
dày, còn lá nhận được ít ánh sáng thì quá trình quang hợp yếu lá cây có màu
xanh nhạt và mỏng.
+ Vậy các con
thấy cây có cần ánh sáng không?
+ Ánh sáng
giúp cây có chất gì?
Khi thí nghiệm
thành công tôi cho cả lớp đến góc khám phá khoa học để nghe các bạn trong góc
đó nhắc lại cách làm và giải thích kết quả. Sau thí nghiệm đó tôi thu hút được
nhiều hơn các cháu đến với góc khám phá khoa học để được khám phá những điều
mới lạ.
5. Biện pháp tuyên truyền phổ biến kiến thức và
phối hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng cho trẻ khám phá khoa học
- Sự phối hợp
chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
toàn diện của trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học trong hội nghị họp phụ huynh học
sinh tôi đã tuyên truyền tới phụ huynh tầm quan trọng của việc cho trẻ khám phá
khoa học đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Giới thiệu cho phụ huynh một số
tài liệu giúp trẻ phát triển khả năng khám phá khoa học, đồng thời giúp tư duy
của trẻ phát triển một cách toàn diện
- Trong
giờ đón trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh về việc giúp trẻ khám phá khoa học
và đặc biệt coi trọng sự hỗ trợ và giúp đỡ từ phía phụ huynh về các đồ dùng
dụng cụ phục vụ cho việc thực hiện các thí nghiệm: vỏ chai nhựa, vỏ hộp các
loại, bìa cát tông, nam châm.
- Qua việc
tuyên truyền, phụ huynh lớp tôi có nhận thức cao hơn với việc phối hợp cùng cô
giáo rèn luyện, chăm sóc, giáo dục cho các cháu đặc biệt là việc hỗ trợ, tạo
điều kiện cho trẻ làm các thí nghiệm đơn giản.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
HÌNH
ẢNH GV TRAO ĐỔI VỚI PHỤ HUYNH KHI ĐÓN TRẺ
C. KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết quả đối chứng sau khi thực hiện:
Mỗi khi trẻ
khám phá ra điều gì tôi luôn động viên khuyến khích trẻ kịp thời trẻ rất vui và
hứng thú. Khi thí nghiệm thành công tôi thấy trên khuôn mặt các cháu lộ rõ vẻ
thích thú phấn khởi và có nhóm hò reo vui sướng. Với những tiết học như thế này
tôi thấy các cháu thực sự chủ động khi làm thí nghiệm. Lại thêm một lần nữa tôi
tác động vào các cháu tính tự tin độc lập suy nghĩ tìm ra kết quả để hoàn thành
nhiệm vụ của mình.
Không chỉ thế qua hoạt động này còn phát triển khả năng tư duy cao cho
trẻ. Trẻ biết đặt ra những câu hỏi “Tại sao” trước những hiện tượng lạ, từ đó
thu nhận được những hiểu biết, những vốn kinh nghiệm nhất định để áp dụng trong
đời sống hàng ngày. Hầu hết tất cả các trẻ đều háo hức chờ đón những giờ thí
nghiệm, tập trung cao độ để quan sát hiện tượng xảy ra, kiên nhẫn chờ đón kết
quả. Qua đó khơi gợi ở trẻ nhu cầu khám phá. Trẻ bắt đầu để ý những biến đổi
của sự vật hiện tượng xung quanh, biết tự khám phá bằng nhiều giác quan và có
sự trao đổi với cô, với bạn.
Đối với tôi, tôi đã áp dụng nhiều các thí nghiệm khoa học vào các hoạt
động khám phá khoa học và tất cả đều được các cháu hưởng ứng nhiệt tình và say
mê của các cháu tôi tự tin hơn khi tiến hành hoạt động khám phá khoa học. Hơn
thế nữa nhiều bậc phụ huynh cũng đến kể cho tôi nghe về những thành quả của các cháu đã làm thí
nghiệm và điều làm tôi thích nhất là các cháu đã mang những thí nghiệm làm cho
bố, mẹ xem.
Tóm lại, thông qua các thí nghiệm khoa học đó tôi đã tạo cho trẻ:
+ Hứng thú, tò mò thích khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh.
+ Hình thành một số kỹ năng, thao tác thử nghiệm trong góc khám phá khoa
học.
+ Trẻ càng ngày càng có kỹ năng quan sát tốt, biết suy luận, phán đoán
nhằm tìm ra kết quả chính xác.
+ Không chỉ khám phá trong góc khoa học hoặc
các hoạt động khám phá khoa học mà các cháu còn khám phá, áp dụng và phát hiện
được nhiều điều qua các môn học khác.
*
Kết quả có so sánh đối chứng: 39 trẻ
STT |
Nội dung |
Mức độ
đạt được |
|||||
Đầu năm |
Cuối năm |
Tăng |
|||||
Số Lượng |
Tỷ lệ |
Số Lượng |
Tỷ lệ |
Số Lượng |
Tỉ lệ |
||
1 |
Trẻ hứng thú tích cực
tham gia vào hoạt động. |
25 |
64,1% |
39 |
100% |
14 |
35,8% |
2 |
Khả năng tư duy |
24 |
61,5% |
36 |
92,3% |
12 |
30,7% |
3 |
Kỹ năng làm thí nghiệm |
15 |
38,4% |
34 |
87,1% |
19 |
48,7% |
4 |
Khả năng biết diễn đạt kết quả thí nghiệm |
26 |
66,7% |
35 |
89,7% |
09 |
23,7% |
Những kết quả mà tôi đã thu được sau khi thực hiện hoạt động khám phá
khoa học qua các kinh nghiệm vừa nêu trên chứng tỏ một điều rất quan trọng rằng,
những biện pháp trong sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã đóng góp một phần không
nhỏ trong việc tạo nên thành công của các tiết khám phá khoa học qua các thí
nghiệm bởi nó đã chỉ rõ cách thức để tiến hành một hoạt động khám phá khoa học
gây được sự hứng thú và tích cực tham gia hoạt động của trẻ.
3. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi thực hiện đề tài này và đã đạt được kết quả
tích cực trên trẻ tôi thấy tự tin hơn với các biện pháp mà mình đã đưa ra khi
dạy trẻ khám phá khoa học qua các thí nghiệm. Vì vậy
+ Tôi luôn tìm tòi những phương pháp trải nghiệm giúp trẻ có hứng thú
tích cực mong muốn được tiếp tục khám phá những điều kỳ thú đang chờ đợi ở phía
trước.
+ Tôi thường xuyên thu thập và nghiên cứu các tài liệu để tìm ra các thí
nghiệm khoa học phù hợp với trẻ mầm non.
+ Tôi nỗ lực học hỏi, tìm hiểu nhiều hơn về những thí nghiệm khoa học để
ứng dụng vào những hoạt động khám phá khoa học cho trẻ.
+ Tôi thường xuyên cho trẻ làm thí nghiệm ở mọi lúc mọi nơi.
+ Làm tốt công tác tuyên truyền phố biến kiến thức với phụ huynh để các
bậc phụ huynh đóng góp và phối hợp với nhà trường giúp cho hoạt động khám phá
khoa học của trẻ đạt kết quả cao hơn nữa.
4. Những kiến nghị và đề nghị sau khi thực hiện đề tài
Sau khi thực
hiện đề tài tôi có những kiến nghị như sau:
- Các cấp lãnh
đạo tạo điều kiện về cơ sở vật chất và môi trường học tập của trẻ trong trường
mầm non Thanh Cao (đặc biệt là khu thương nghiệp) được phong phú và sạch sẽ hơn
nữa.
- Hàng năm phòng giáo dục tạo điều kiện mở các buổi họp chuyên đề để các chị em giáo viên được gặp gỡ và trao đổi về kinh nghiệm. Cũng như phương pháp giảng dạy cho các chị em.
Trên đây là
một số ý kiến nhỏ của tôi, kính mong các ban lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp
góp ý và bổ sung cho nội bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi được đầy đủ và khoa
học hơn nữa.
Tôi xin chân
thành cảm ơn!
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT |
TÊN TÀI LIỆU |
NHÀ XUẤT BẢN |
GHI CHÚ |
1 |
Các hoạt động khám phá
khoa học của trẻ mầm non. |
Nhà xuất bản Giáo Dục
Việt |
|
2 |
Giáo dục học mầm non |
Đại
học sư phạm |
|
3 |
Lí luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh |
Đại học sư phạm Hà Nội |
|
4 |
Tâm lí học mầm non |
Đại học sư phạm Hà Nội |
|
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/