Skkn trẻ 5- 6 tuổi, skkn mầm non 5-6 tuổi, skkn 5-6 tuổi mới nhất, skkn 5-6 tuổi hay nhất,...
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG
KIẾN
1. Lời giới thiệu
Cha mẹ nào sinh con ra cũng mong con mình
được khỏe mạnh, thông minh và cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để con phát triển. Song
do sự phát triển của xã hội nên trẻ đã được gửi tới trường Mầm non để học tập
nhằm giúp cha mẹ, các bậc phụ huynh làm việc, tham gia vào lao động xã hội.
Điều này cho thấy thời gian trẻ hoạt động cùng cô và các bạn ở trường rất lâu,
bằng 2/3 số thời gian trẻ thức trong ngày. Vậy làm thế nào để giúp trẻ sống ở
trường cùng các bạn bè mà trẻ có nề nếp, ngoan ngoãn, hiểu biết mà vẫn hồn
nhiên, mạnh dạn, linh hoạt như ở gia đình, đó là nhiệm vụ rất khó khăn của một
giáo viên phụ trách nhóm lớp.
Thông thường giáo viên tuy đã biết
về sự cần thiết phải xây dựng, phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ phù hợp
với việc phát triển tâm sinh lý lứa tuổi nhưng trong thực tế hầu hết giáo viên
hay chú trọng tới việc rèn nề nếp lớp, nề nếp trẻ để luôn trật tự, yên tĩnh,
ngoan ngoãn. Song mặt trái của việc đó là trẻ mất đi sự tự tin, mạnh dạn, sáng
tạo của bản thân và chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn ở trường phổ thông sau
này.
Năm học 2020-2021 được sự phân công của ban giám hiệu nhà trường tôi được chủ
nhiệm lớp 5-6 tuổi với tổng số học sinh là 22 cháu trong số đó tất cả số
học sinh đều là học sinh mới mà năm nay tôi đón nhận. Khi bắt đầu đón trẻ tôi
cũng gặp rất nhiều khó khăn như phụ huynh chưa hiểu cô giáo nên còn lo lắng e
ngại khi gửi con cho cô, một số trẻ những buổi đầu tới lớp còn khóc và không
muốn đi học, các bạn ấy cứ đòi về và đòi học cô giáo cũ… Khi tham gia các hoạt
động trên lớp các con rất nhút nhát và thậm chí còn không chú ý khi tham gia
vào các hoạt động. Để khắc phục vấn đề này tôi đã đưa ra một số biện pháp
cụ thể để thực hiện để giúp trẻ phát triển được tính hồn nhiên, chủ động, mạnh
dạn, tự tin đúng như lứa tuổi của trẻ.
Làm thế nào để giúp trẻ sống trong một
tập thể đông đúc có nề nếp, ngoan ngoãn, hiểu biết mà vẫn hồn nhiên, mạnh dạn,
linh hoạt đó là nhiệm vụ rất khó khăn của một số giáo viên phụ trách nhóm lớp. Bản
thân tôi là một giáo viên vào trường cũng đã lâu nên có nhiều băn khoăn
suy nghĩ. Để khắc phục vấn đề này tôi đề ra một số biện pháp cụ thể, yêu cầu
giáo viên thực hiện để giúp các cháu phát triển được tính hồn nhiên, chủ động,
mạnh dạn, tự tin đúng theo lứa tuổi của mình. Vì thế tôi đã quyết định
chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tự tin hơn khi ở
trên lớp”
2. Tên sáng kiến
Xuất phát từ thực tiễn dạy trẻ tôi nhận
thấy việc giúp trẻ tự tin là rất cần thiết. Tự tin là một đức tính tốt đẹp
của con người, là sự tin tưởng vào chính bản thân mình, tin vào khả năng và
những hành động của chính mình. Tin tưởng sẽ giúp cho bạn có thể giành được kết
quả một cách nhanh và chắc chắn nhất. Cũng như sự kiên nhẫn, lòng bao
dung thì tự tin cũng cần phải có một quá trình rèn luyện. Sự tự tin nói thì dễ
nhưng không phải ai cũng có thể có được, đó sẽ là sự khác biệt giữa mọi người.
Giống như là một đứa trẻ lúc nhỏ thì được cha mẹ yêu thương và bảo bọc, khi lớn
hơn một chút thì thường khích lệ chúng phải tự tin, để làm gì đây, đương nhiên
là muốn cho chúng có được sự thành công trong tương lai.Vậy chúng ta mới thấy
được rằng đức tính tự tin hoàn toàn cần thiết đối với mỗi con người và cần
thiết phải rèn luyện hằng ngày.
Đưa ra một số biện pháp giúp trẻ tự tin
hơn cũng là một phần quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ, đó là khâu đầu
tiên hình thành kĩ năng giao tiếp, ứng xử hòa nhập trong cuộc sống của lứa tuổi
mầm non. Từ những thực tế trên lên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài"
Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tự tin hơn khi ở trên lớp”
3. Tên tác giả sáng kiến
4. Chủ đầu tư sáng kiến:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Vào
tất cả các lĩnh vực phát triển toàn diện cho trẻ 5-6 tuổi.
6. Ngày sáng kiến áp dụng lần đầu hoặc áp
dụng thử: Tháng 9/ 2021
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Về nội dung của sáng kiến
Muốn trẻ giao tiếp mạnh dạn, tự tin cho
trẻ mẫu giáo thì trước hết bản thân cô cần phải có kỹ năng giao tiếp tốt
như: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp, kỹ năng cân bằng
nhu cầu của bản thân và đối tượng giao tiếp, kỹ năng nghe, kỹ năng làm chủ cảm
xúc và hành vi, kỹ năng tự kiềm chế bản thân và kiểm tra đối tượng giao
tiếp, kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu, xử lý linh hoạt, mềm dẻo,
kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp. Đặc biệt cô giáo phải hiểu rõ kiểu giao
tiếp của người lớn với trẻ: Vì giao tiếp là hai chiều, vì trẻ đáp ứng khác nhau
với cách mà người lớn giao tiếp với trẻ, vì người lớn nên làm gương cho trẻ, vì
thay đổi hành vi, cách giao tiếp của người lớn dễ hơn là thay đổi trẻ.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng
và đưa ra một số biện pháp để giúp trẻ mẫu giáo giao tiếp tự tin, mạnh dạn hơn.
Từ đó, giúp trẻ tham gia tích cực các hoạt động, chủ động giao tiếp với cô
giáo, với bạn, trẻ biết làm chủ cảm xúc và hành vi và kiềm chế bản
thân... Đặc biệt hình thành kỹ năng giáo dục văn hoá trong giao tiếp cho trẻ
ngay từ lứa tuổi mầm non. Sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp giúp trẻ tự
tin hơn khi ở trên lớp đó là:
7.2.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường
học tập giao tiếp gần gũi, thân thiện.
Trong khi tổ chức các hoạt động trên lớp
như học tập, vui chơi, giao tiếp với trẻ, giáo viên phải tin trẻ, yêu cầu trẻ
tự nói, tự làm, phải biết ưu điểm, nhược điểm của trẻ để từ đó tìm ra biện pháp
giáo dục thích hợp. Trong hoạt động hằng ngày, trẻ gặp khó khăn giáo viên
không được giúp đỡ trẻ ngay mà nên trò chuyện cùng với các trẻ khác giúp
trẻ tìm con đường giải quyết.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Cô giáo luôn chủ động tạo mối quan hệ
thân thiện và gần gũi để nói chuyện với trẻ chắc chắn sẽ giúp cho trẻ có cảm
giác thoải mái, có nhu cầu giao tiếp bằng lời. Có nghĩa là trong tất cả mọi
hoạt động của trẻ, giáo viên mầm non nên chú ý quan sát và tạo tình huống kích
thích trẻ trả lời cũng như nói lên nhu cầu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân mình
với cô. Giáo viên phải biết lắng nghe và chờ đợi trẻ: đây là việc làm cần
thiết và có hiệu quả khi giáo viên tiếp xúc, giao tiếp với trẻ trong quá trình
tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ. Bất kỳ người nào khi nói cũng mong muốn
người khác lắng nghe mình. Hơn nữa, giáo viên kết hợp vừa chờ đợi vừa lắng nghe
giúp trẻ giao tiếp được nhiều hơn. Khi lắng nghe giáo viên nên thể hiện nét mặt
vui, thân thiện và có cử chỉ khuyến khích trẻ nói.
Thay vì tâm thế nhõng nhẽo, mếu máo khi
rời bố mẹ, những đứa trẻ sẽ nhanh chóng và đầy hứng khởi đập tay lên cửa lớp
chào cô theo nhiều cách khác biệt, rồi vui vẻ chạy vào lớp. Nhìn con thơ chủ
động vươn người lên đập tay, nhí nhoáy lắc mông hoặc sà vào lòng cô giáo khi
vừa đến cửa, các phụ huynh cũng vui vẻ yên tâm để đi làm. Đây là 1 mô
hình hướng tới “lớp học hạnh phúc” giúp cho trẻ luôn cảm thấy yên tâm vui vẻ
mỗi khi tới lớp.
Ví dụ: Trước
khi vào lớp, các bé sẽ tự mình lựa chọn một cách chào với giáo viên trong “menu
lựa chọn” hành động cảm xúc dán ngay trên cửa lớp. Tùy từng lựa chọn của trẻ,
cô giáo sẽ đập tay, bắt tay hoặc nhún nhảy hay ôm đón chào các bé. Hoạt động
này không quá khó khăn để thực hiện và cũng không tốn kém nhiều chi phí, mà cốt
quan trọng là cái tâm và sự nhiệt huyết của người giáo viên. Với mỗi hình ảnh
cô giáo sẽ giải thích cho các bé về ý nghĩa và hướng dẫn thực hiện việc chào cô
ra sao, vì thế các con rất hứng thú”.
Tạo cho trẻ cảm nhận được “Đi học là hạnh
phúc và mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, làm cho trẻ thêm yêu trường,yêu
lớp, gắn bó với ngôi nhà chung, đó chính là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo và
giáo viên mầm non nói riêng.
Khuân viên ngoài trời của trường
mầm non Hội Hợp
Việc trang trí lớp học sao cho tự nhiên,
biến không gian lớp học trở nên gần gũi, thân thiện có ý nghĩa giáo dục cho trẻ
là việc làm không phải dễ. Bởi vậy tôi đã “Trang trí kết hợp giữa làm đẹp cảnh
quan lớp học với yêu cầu phục vụ học tập của trẻ lớp mình”.
Như vậy việc tạo cảnh quan thân thiện đối với trẻ giúp trẻ học tập một cách gần
gũi thân thiện có tác dụng giúp trẻ đạt được các mục tiêu giáo dục.
Lứa tuổi mầm non “trẻ học mà chơi, chơi
mà học” thông qua chơi để trẻ lĩnh hội kiến thức. Vì vậy, việc tạo cơ hội cho
trẻ được học tập, vui chơi trong môi trường thân thiện, trẻ sẽ phát triển toàn
diện về các mặt thể chất, nhận thức thẩm mỹ, lao động …
Hình ảnh trang trí ngoài cửa lớp
Trang trí xây dựng cảnh quan, môi
trường hoạt động trong và ngoài lớp rất quan trọng bởi qua các môi trường giáo
dục này sẽ có sự hấp dẫn, kích thích trẻ tham gia tìm tòi khám phá, bộc lộ khả
năng cá nhân.
Việc trang trí lớp học sao cho tự nhiên,
biến không gian lớp học trở nên gần gũi, thân thiện có ý nghĩa giáo dục cho trẻ
là việc làm không phải dễ. Bởi vậy tôi đã trang trí kết hợp giữa làm đẹp cảnh
quan lớp học với yêu cầu phục vụ học của trẻ.
Ví dụ: Cửa
sổ, cửa ra vào, lối vào phòng chờ… cũng là nơi cô có thể trang trí đưa thiên
nhiên vào trong lớp học với các lọ cây xanh cô tận dụng từ nguyên vật liệu phế
thải.
Hình ảnh trang trí lối ra vào phòng chờ
7.2.4. Biện pháp 2: Tổ chức chu đáo,
chuẩn bị đồ dùng đồ chơi hấp dẫn, sinh động trong các tiết học và vui chơi.
* Tổ chức thật tốt và thật hoàn
chỉnh giờ vui chơi :
– Trò chơi nhất là trò phân vai theo chủ
đề ( chơi bán hàng, đóng vai bác sĩ, chơi cô giáo… ) góp phần vào sự phát triển
hài hòa cho trẻ và qua trò chơi sẽ củng cố những tri thức mà trẻ có. Và quan hệ
qua lại giữa con người với con người sẽ rất tốt nếu người lớn thể hiện sự hứng
thú của mình với trò chơi của trẻ, tham gia chơi cùng trẻ, chỉ bảo hướng dẫn
hành động của trẻ trong khi chơi.
– Đa phần giáo viên của chúng ta hay làm
thay trẻ trong giờ vui chơi. Các loại đồ chơi thường làm sẵn cho trẻ – bé chỉ
sắp xếp theo ý cô. Chúng ta nên thay đổi theo phương thức trẻ, vì hoạt động vui
chơi là của trẻ và cũng là hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường mầm non. Vì vậy
trẻ rất tha thiết được suy nghĩ chơi theo sự hứng thú của mình. Cô chỉ nên là
người quan sát góp ý kiến, tạo tình huống dưới hình thức cùng hòa nhập chơi với
trẻ.
Ví dụ: Hôm
nay con thích chơi ở góc nào?Con sẽ rủ bạn nào chơi cùng, ở góc bán hàng con
định bán hàng gì…Còn cô khi trẻ đang hành động vai chơi cô sẽ đi tới giả là
người mua hàng: Bác bán cho tôi 1 cân khoai hay hôm nay tôi thấy người hơi mệt
các bác đưa tôi đến bác sĩ khám được không… để trẻ cảm thấy thoải mái và cùng
cô hòa nhập thể hiện tốt vai chơi của mình.
Trẻ có nhiều đồ chơi để chơi ở góc xây
dựng kích thích sự sáng tạo cho trẻ
Hình ảnh trẻ chơi ở góc sáng tạo
Hình ảnh trẻ chơi ở góc kĩ năng- tạo hình
* Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi hấp dẫn, sinh
động trong các tiết học và vui chơi.
Với việc linh hoạt lồng ghép các hoạt
động đã kích thích trẻ tự tìm hiểu, phát hiện ra các chức năng sử dụng của đồ
dùng, đồ chơi, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, tạo cho trẻ em sự hấp dẫn, mới lạ,
giúp cho trẻ dễ tiếp thu bài học và có thể tham gia thể hiện ý tưởng của mình.
Hoặc với các sản phẩm của bé sau khi hết
tiết học cô sẽ chọn những sản phẩm đẹp, sáng tạo để trưng bày trong phòng tranh
của bé đó là một sự khích lệ với trẻ động viên để trẻ phấn đấu cố gắng trong
các hoạt động.
Phòng tranh của bé
Và điều quan trọng hơn cả, thông qua việc
cùng nhau trang trí lớp học hầu hết trẻ đều rất yêu thích đến trường vì nó đem
lại cho trẻ nhiều điều bổ ích, như được bày tỏ những điều mình mong muốn, được
trưng bày những sản phẩm mình làm ra và được làm chủ lớp học của mình.
Ví dụ: Trong
giờ tạo hình: Tạo hình các con vật bằng bàn tay. Với sự chuẩn bị những bức
tranh mẫu thật là đẹp sáng tạo của cô hay những chiếc giá treo tranh đầy màu
sắc cũng phần nào tạo thêm sự hào hứng và kích thích sự sáng tạo của trẻ qua
tiết học.
Tranh mẫu của cô trong tiết Tạo hình con
vật bằng bàn tay
Bảng treo sản phẩm của trẻ
Hoặc khi cô chuẩn bị cho 1 tiết tạo hình
thật nhiều nguyên vật liệu khác nhau không chỉ đơn giản là bút sáp màu, bút chì
mà cô chuẩn bị thêm màu nước, nhũ óng ánh, kim tuyến… sẽ làm cho tiết tạo hình
thêm sinh động lôi cuốn trẻ tham gia.
Hình ảnh chuẩn bị đồ dùng sáng tạo
cho trẻ học tạo hình
Sau những thời gian tham gia các hoạt
động học tôi cũng mở tivi cho trẻ xem hoạt hình để trẻ được thư giãn và cảm thấy
thoải mái thích thú khi ở lớp.
Ví dụ:
Khi xem hoạt hình cùng trẻ thấy các con đang bình luận về nhân vật Em bé trong
phim Gấu và em bé. Cháu Nam nói: Tớ thích bác Gấu nhất còn cháu Khánh thì bảo
mình lại thích bác Gấu hơn, cô giáo có thể chủ động trò chuyện bình luận
cùng trẻ về vấn đề đó một cách tự nhiên để trẻ thấy cô luôn thân thiện không
khoảng cách với trẻ như: Vì sao Nam lại thích em bé hoặc cô cũng thích bác Gấu
vì bác rất tốt bụng luôn nhường nhịn và chăm sóc cho em bé…. Như vậy trẻ sẽ nói
chuyện rất tự nhiên, bộc lộ cảm xúc ngay trong những câu nói của mình.
Qua thực
tế thực hiện biện pháp chủ động và kiên nhẫn khi giao tiếp với trẻ, tôi thấy
trẻ cũng giống cô cũng có nhiều trẻ chủ động hỏi thăm cô giáo hay đặt câu hỏi
thắc mắc lại cho cô giáo trả lời như: Con thưa cô vì sao mây lại bay trên bầu
trời, con đố cô: Hôm nay ai sẽ đón con về… Việc tạo ra một không khí thoải mái,
đầm ấm và việc đưa các trò chơi, tạo các tình huống, cũng như dùng rối trong
việc giao tiếp với trẻ là cách giúp trẻ giao tiếp tích cực nhất.
7.2.3. Biện pháp 3 :
Giúp bé có cảm giác thích thú mỗi khi đặt câu hỏi với cô, học được nhiều điều
hay sau mỗi câu trả lời của cô.
+ Cô giáo là người bạn là người mẹ để trẻ
tin yêu gần gũi khi nói chuyện:
– Hàng tháng trong những buổi họp chuyên môn của tổ tôi thường đưa ra những
việc chưa thành công để các cô cùng thảo luận, hướng dẫn và gợi ý các cô muốn
trẻ mạnh dạn tự tin, thông minh các cô nên gần gũi trò chuyện cùng trẻ, đừng
rầy la khi cháu làm sai. Mà ngược lại phải tôn trọng trẻ không xem thường những
thắc mắc những câu hỏi của trẻ.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
– Và không chỉ gợi ý cho các cô bằng lời,
tôi đã hành động để các cô nắm vững cách : thường xuyên vào nhóm lớp hoặc những
giờ sinh hoạt ngoài trời, giờ vui chơi, nói chuyện với trẻ bình thường và gần
gũi…
Ví dụ: Như
bạn Xu ti mới cắt tóc phải không, trông Xu ti cắt tóc này rất xinh và cá
tính nhé! hay Gấu hôm nay có áo siêu nhân rất đẹp ai mua áo cho Gấu thế? Sáng
nay vì sao Chi không muốn đi học mà lại dỗi thế con ? Kể cho cô Thu nghe nào…
– Sử dụng những câu chuyện đơn giản bằng
cách gợi cho trẻ trả lời bằng những ngôn ngữ bình thường, dần dần trẻ sẽ hết bị
gò bó, không còn nhút nhát nữa và còn thích kể chuyện và chia sẻ với cô giáo
nhiều hơn.
+ Những thông tin những nhận xét của
người thân trong gia đình:
– Một trong những biện pháp giáo dục tốt
là thông tin cho bé biết là những điều người thân trong gia đình nghĩ về mình,
nhận xét mình. Cô giáo là người tổ chức truyền đạt lại qua buổi sinh hoạt chủ
nhiệm được thực hiện như sau: trong suốt một năm học ba mẹ đến trường tiếp xúc
với cô và qua sổ liên lạc có phần nhận xét cho gia đình. Giáo viên chọn
một buổi sinh hoạt trong tuần hoặc lúc sinh hoạt ngoài trời kể lại những gì cô
biết về bé một cách thật tình cảm, thật tế nhị. Đặc biệt lưu ý những bé cá biệt
của lớp, cô nêu những ưu điểm dù rất nhỏ động viên, tránh trường hợp chỉ khen
những bé giỏi; chê bai những trẻ kém làm cho trẻ chán và thêm mặc cảm.
– Cô nên hạn chế phân tích những điều
chưa tốt trên một cá nhân nào đó trước lớp mà chỉ nên giáo dục cháu trên những
nhân vật qua các bài thơ câu chuyện.
Ví dụ : Bạn
Gấu con vì sao lười không chịu đánh răng trước khi đi ngủ và khi đến lớp
nhỉ? Vậy các con có bắt chước bạn Gấu con không? Vì sao?...
Sau đó cô giáo dục trẻ: Trước khi
bố mẹ đưa đến lớp các con nhớ phải đánh răng sạch sẽ nếu không sẽ bị sâu răng
như bạn Gấu con nhé!
Và để giúp bé mạnh dạn cô mời bé
đứng lên – xác nhận những gì cha mẹ kể cho cô nghe và động viên bé kể những
việc làm tốt ở nhà. Mục đích của cô sẽ đạt rất nhanh, vì trẻ sẽ rất tự tin
những điều cô nói về mình.
+ Xây dựng giờ tìm hiểu môi trường xung
quanh tốt để cung cấp kiến thức về thiên nhiên và xã hội cho trẻ:
– Xây dựng chuỗi hệ thống câu hỏi từ dễ
đến khó và sưu tầm cách gợi mở giới thiệu nội dung bài học.
Ví dụ :
Khi giới thiệu với trẻ về đặc thù của móng vuốt các con vật sống trong rừng thì
cô sẽ hỏi” các con thấy những con vật sống trong rừng như thế nào? Thức ăn của
chúng là những gì? Tư thế(cách ăn) của chúng khi săn mồi như thế nào?…
– Hoặc dưới hình thức kiểm tra kiến thức trẻ. Chúng tôi thường xuyên vào lớp
thăm trẻ, sà xuống nói chuyện với trẻ về mọi chuyện mà trẻ thích.
Ví dụ: Hôm
qua ở nhà chủ nhật con thấy vui không? Con kể cho cô xem chủ nhật ở nhà
có những gì mà con thấy vui… Những ngày nghỉ ở nhà con làm gì, có đi chơi
không? Đồng thời tôi gợi mở, động viên khuyến khích trẻ hỏi thăm tôi : khen
chiếc áo đang mặc, khoe với tôi món đồ trẻ đang có và ai là người mua cho con?…
Đồng thời tôi mời thêm nhiều bạn cùng trò chuyện cùng thảo luận với nhau.
– Và dựa theo sự hăng hái kể truyện của bé – tôi uốn nắn thêm giúp trẻ nhận xét
đúng hơn.
Hình ảnh cô và trẻ chụm tay nhau để khích
lệ trẻ trong giờ học
7.2.4. Biện pháp 4: Nêu gương,
khích lệ trẻ kịp thời.
Những lời nhận
xét và khen ngợi kịp thời của cô giáo có tác động rất lớn đối với hành vi và
suy nghĩ của trẻ. Nếu cô giáo tán thưởng và khen ngợi trẻ chính xác mỗi khi trẻ
làm việc gì đó tốt dù nhỏ hay lớn đều để lại ấn tượng khó phai trong lòng trẻ. Từ
đó giúp trẻ có thêm sự tự tin về bản thân mình. Ngược lại nếu trẻ làm sai trái
điều gì cô giáo không nhắc nhở khéo léo kịp thời sẽ khiến trẻ vô tình tưởng
rằng việc mình làm là đúng đắn không ảnh hưởng đến ai. Nhưng nhắc nhở, phê bình
trẻ một cách nhẹ nhàng khéo léo chắc chắn trẻ sẽ nhớ rất lâu về việc mình không
nên làm và cần cố gắng sửa chữa. Giao nhiệm vụ cho trẻ đó làm việc tốt để bù
lại việc sai của mình.
Ví dụ: Thấy
cô giáo làm rơi chiếc bút, cháu Quỳnh chạy lại giúp cô nhặt lên. Cô giáo nên
tặng lời khen ngay cho Quỳnh và nói lời cảm ơn với trẻ. “ Cô cảm ơn con! Quỳnh
rất ngoan, biết nhặt giúp cô khi cô làm rơi đồ dùng, các bạn sẽ học tập bạn
Quỳnh nhé ”
Ví dụ: Trong
giờ ăn cháu Gấu thích ăn cơm cá nên xin cô thêm cơm để ăn, cô cho thêm và
khuyến khích cháu ăn hết xuất, Gấu biết nói cảm ơn cô a! Ngay lúc đó cô sẽ dành
1 lời khen cho bạn Gấu vì đã biết nói lời cảm ơn khi cô cho thêm cơm. Cũng với
lời khen đó sẽ là những lời động viên và giúp những trẻ xung quanh học tập bạn
Gấu.
Ví dụ: Thấy
cháu Hường hôm nay đi học không khóc nhè, nhõng nhẽo như hôm trước cô sẽ khen
trẻ ngay trước mặt cha mẹ trẻ “ Bạn Hường hôm nay ngoan quá, đi học không khóc
nhè. Mẹ và cô giáo rất vui vì con ngoan hơn đấy ”
7.2.5. Biện pháp 5 : Cho trẻ được tự do
và hành động theo suy nghĩ của trẻ.
– Nếu có ai nói rằng “ cho trẻ hành động
theo ý thích và suy nghĩ trẻ là sai lầm” thì tôi nghĩ chính người nói như thế
mới sai lầm. Bởi với vai trò là một người lớn, một giáo viên thì nhiệm vụ chính
của chúng ta là giúp trẻ gặp khó khăn, hướng dẫn trẻ một cách kịp thời để luôn
đi đúng hướng. Tuyệt đối không để ý nghĩ là mình kêu trẻ làm gì thì trẻ làm đó,
mọi việc là có người lớn chuẩn bị sẵn chỉ cần làm theo y như vậy thì sẽ chẳng
có chuyện gì xảy ra. Vô hình chung vì những suy nghĩ này mà chúng ta đã để lại
sự chủ quan, ỷ lại vào người lớn của trẻ.
Ví dụ : Hôm nay
con thích được làm gì? Nếu trẻ thích đọc sách xem tranh ảnh cô nên để trẻ được
thỏa mãn ý thích của mình và khi trẻ đang chơi cô chụp lấy 1 tấm ảnh gửi vào
nhóm lớp để phụ huynh cũng xem được những hình ảnh con đang hoạt động trên lớp,
với những hình ảnh đó phụ huynh càng thấy yên tâm phấn khởi khi thấy con em
mình có ý thức học tập như thế.
Ví dụ: Hôm
nay các bạn thích được chơi trò chơi gì nào? Và cô giáo sẽ tổ chức trò chơi
theo ý thích của trẻ, trẻ thích chơi trò: Bịt mắt bắt dê cô sẽ hỏi lại trẻ cách
chơi, luật chơi và tổ chức để trẻ được chơi. Giáo viên không nên mặc định hay
bắt trẻ chơi trò chơi do cô đề ra như thế trẻ sẽ cảm giác gò bó không thoải mái
không có quyền tự chủ khi chơi.
– Giáo viên nên giao trẻ một nhiệm vụ để
trẻ được vừa chơi với hai ngày nghỉ đồng thời trẻ được chứng tỏ với ba mẹ ở nhà
những gì trẻ đã được hướng dẫn từ cô giáo và bây giờ khi nói với ba mẹ trẻ lại
một lần nữa được học cách nói chuyện, cách trình bày của chính người thân của
trẻ. Và xem như đây ta đã giúp cho trẻ được rất nhiều qua hình thức trẻ được
giao tiếp, trao đổi với nhiều người lớn và học được cách trình bày ngôn ngữ của
bản thân một cách mạnh dạn, tự tin.
Ví dụ: Cô
giao cho trẻ đề tài “ bé hãy nói một nghề mà bé biết. Đồng thời nói lên : ước
mơ của chính bản thân mình sau này thích làm nghề gì. Tại sao?” Với đề tài này
cô giáo cho bé được về nhà hỏi những người thân quen về một nghề hoặc yêu cầu
bố, mẹ dẫn đi quan sát, thậm chí cả việc trò chuyện với người đang làm các nghề
để trẻ được trực tiếp quan sát rồi suy nghĩ và nêu được lý do khi chọn một nghề
sau này. Qua những việc mà trẻ đã làm sẽ có vốn kiến thức rất nhiều và cũng từ
đây chính là nền tảng để trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển những lời nói của
mình một cách hồn nhiên ngây thơ nhưng rất thiết thực từ những gì trẻ đã và
đang thực hiện.
7.2.6. Biện pháp 6: Luôn luôn
vui vẻ khi ở bên trẻ, là gương cho trẻ học tập.
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể
tươi cười, nhưng sự không vui và buốn chán có thể lây sang trẻ.Trẻ luôn
coi cô giáo là tấm gương phản chiếu chính những cảm xúc của chúng. Nếu cô giáo
đang lo lắng, buồn sầu chắc chắn sẽ không thể thể hiện được những điều tốt đẹp.
Cô giáo sẽ phản chiếu hình ảnh gì tới trẻ Một em bé chia sẻ: “ Cháu thích
được ở cùng mẹ khi mẹ vui ” và trẻ khác nói “Thích cô giáo cười, khi đó
nhìn cô rất xinh ”. Trẻ em sẽ hiểu rằng, khi bạn buồn là bạn đang buồn về
chúng. Thậm chí trẻ còn biết rằng chúng có nghĩa vụ làm cô giáo hay cha mẹ trẻ
vui lòng. Vì vậy khi ở bên trẻ cô giáo nên cố gắng tạo tâm lí vui vẻ để trẻ cảm
thấy an toàn và vui. Khi đó chắc chắn trẻ sẽ tham gia hoạt động tích cực và nói
ra nhu cầu của bản thân trẻ.
Lời nói và thái độ của người lớn trẻ bắt
chước theo rất nhanh. Đôi khi ngay cả với những ứng xử và ngôn ngữ vụng về của
bố mẹ lại có những tác động mạnh mẽ đến trẻ hơn là những hành vi và lời nói hoa
mỹ “ đúng chuẩn quốc tế ”.
Ở một góc độ khác, với trẻ nhỏ cha mẹ và
cô giáo nên tránh hạn chế tối đa những câu nói bóng gió, những câu có ý nghĩa
ẩn dụ ngược lại. Nếu không muốn trẻ đi ra ngoài sân thì hãy nói thẳng: “ Cô
không muốn con ra ngoài sân lúc này” hơn là: “ Ừ có giỏi thì cứ đi đi ”
trẻ sẽ rất hoang mang trước câu nói và thái độ của cô lúc đó, và sẽ dần dần
không muốn giao tiếp với cô nữa vì bé không hiểu là người lớn muốn gì!
Chính vì vậy là giáo viên nên
sử dụng ngôn ngữ và thái độ giao tiếp chuẩn mực, lịch sự và thân thiện. Tránh
để trẻ bắt chước những hành vi thái độ giao tiếp không văn minh.
Ví dụ: Trong
giờ hoạt động ngoài trời khi cô cho trẻ quan sát: Cây hoa hồng” thì cháu Nam
với cháu Tiến du đẩy nhau rồi đánh nhau . Tôi sẽ nói “Con không nên đánh bạn!
Hai bạn nên đứng cạnh nhau để quan sát và cùng trò chuyện về đặc điểm của cây
hoa hồng …” và không nên nói: “Con thật hư khi đánh bạn”. Vì lời
nói không hay trong lúc này sẽ làm tổn thương đến trẻ, tránh gọi tên, hay
làm cho trẻ cảm thấy trẻ là một con người phạm lỗi. Vì lòng tôn
trọng và sự quan tâm sẽ giúp làm tăng thêm lòng tự tin ở trẻ.
Ví dụ: Khi
cô nhờ trẻ giúp cô lau bàn ghế, hay xếp đồ dùng đồ chơi lên giá… Sau khi trẻ đã
làm xong cô cần chú ý nói lời “ cảm ơn ” với trẻ, hay khi cô sơ suất làm
đổ canh ra bàn khi đang chia cho trẻ ăn ngay lúc đó cô cần tỏ thái độ
lịch sự và nói lời “ xin lỗi ” tới trẻ. Hoặc khi nhìn thấy trẻ đến lớp cô
hãy chủ động nói chuyện và chào trẻ trước để trẻ học tập cô.
Ví dụ: Không
nhất thiết để trẻ tự tham gia chơi hay cô hướng dẫn trẻ chơi mà cô có thể tham
gia nhập vai chơi khi trẻ chơi ở các góc hay cả khi trẻ chơi ngoài trời cô cũng
tham gia chơi cùng trẻ để lắng nghe, hòa nhập cùng trẻ để trẻ có cảm giác thân
thiện, gần gũi với cô hơn…
Hình ảnh cô và trẻ cùng nhau chơi xích đu
ngoài trời
7.2.7. Biện pháp 7: Tổ chức
vui văn nghệ cuối tuần và các hoạt động trải nghiệm cho trẻ.
– Tổ chức vui văn nghệ cuối tuần là một
biện pháp nhằm thực hiện tốt các bài hát đã được học đồng thời qua sinh hoạt
này phát huy cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Dám thể hiện cái trẻ
biết và độc lập trong suy nghĩ và dám khẳng định chính bản thân mình. Song
trong đó cũng giúp cô phát hiện năng khiếu của trẻ giúp trẻ cảm nhận tốt âm nhạc.
Ví dụ: Chúng
mình vừa học xong chủ đề gì? Ở chủ đề: Gia đình các con đã được học những bài
hát gì? Trong giờ sinh hoạt văn nghệ cuối tuần hôm nay các con sẽ biểu diễn
những bài hát gì nào? Bạn nào sẽ lên biểu diễn 1 bài cho cả lớp mình cùng nghe.
Cô khuyến khích trẻ lên biểu diễn cá nhân hoặc biểu diễn theo nhóm, Con định
múa bài này cùng những bạn nào…
– Khi thực hiện chương trình sinh hoạt
văn nghệ : nhạc được sử dụng nhiều cách hoặc cô đàn, nghe nhạc không lời để bé
hát theo nhạc. Qua những hình thức trên bé được tiếp xúc với âm nhạc thường
xuyên, cùng sinh hoạt với lớp thường xuyên sẽ tạo cho bé tự tin, vui tươi, mạnh
dạn hồn nhiên và gần gũi thân thiết cùng cô và các bạn. Bé sẽ dần dần mất đi sự
thụ động và nhút nhát.
Ví dụ: Trong
những buổi văn nghệ ngày khai giảng, ngày tết trung thu, tết Nguyên Đán cô cho
trẻ của lớp mình tập những bài múa để lên biểu diễn cho toàn trường xem, qua
buổi biểu diễn văn nghệ như thế giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn khi tham gia vào
các hoạt động tập thể của nhà trường.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Hình ảnh cô và trẻ cùng biểu
diễn văn nghệ
- Những hoạt động trải nghiệm là những
hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Bởi thông
qua đó, trẻ được tiếp xúc, gần gũi với thiên nhiên, hít thở bầu không khí trong
lành, đồng thời được khám phá, thoả mãn trí tò mò giúp trẻ có thêm những kĩ
năng giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh.
Ví dụ: Cho
trẻ đi tham quan trường tiểu học để trẻ biết quang cảnh môi trường của trường
tiểu học giúp trẻ có hào hứng, thích thú và không khỏi bỡ ngỡ khi được đặt chân
lên ngôi trường mới.
Hoặc tổ chức chụp ảnh lưu niệm trong buổi
tổng kết chia tay các bạn học sinh 5T để các con lưu giữ được những khoảnh khắc
đáng nhớ về cô giáo và các bạn khi học xong ở trường mầm non. Những hoạt động
này không những có ý nghĩa mà còn giúp cho trẻ luôn nhớ về ngôi trường mình đã
học và kích thích ở mỗi trẻ sự tin tin khi đứng trước máy ảnh để chụp hình.
Giai đoạn trẻ ở độ tuổi mẫu giáo
là giai đoạn phát triển quan trọng trong cuộc đời của bé. Ở giai
đoạn này, trẻ hình thành, phát triển giao tiếp xã hội, phát triển về mặt tư
duy, trí tuệ, thể chất và nhiều kĩ năng khác. Nếu không được tham gia các hoạt
động ngoài trời và các hoạt động trải nghiệm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý,
tình cảm, kỹ năng giao tiếp của trẻ, có thể khiến trẻ mất tự tin, thiếu sự linh
hoạt, khó hòa đồng…
Ví dụ: Ở chủ đề: Một số phương tiện
giao thông, cô cho trẻ hoạt động ngoài trời với nội dung: Quan sát xe đạp và
thực hành đi xe đạp. Qua bài học trẻ biết những đặc điểm của xe đạp và được
thực hành ngồi lên xe đạp để đi.
Hoặc cho trẻ được tham gia các hoạt
động trải nghiệm như trang trí ngày tết, tự chuẩn bị, bày bánh kẹo hoa quả cho
các buổi liên hoan của lớp, đi thăm phòng triển lãm tranh, đi chơi công viên,
đi siêu thị, tặng hoa các bạn gái nhân dịp 8/3… Với các hoạt động trải nghiệm
này trẻ được giao tiếp xưng hô nói chuyện trực tiếp và thể hiện tình cảm với
những người xung quanh. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen kĩ năng giao tiếp
ứng xử tốt.
Hình ảnh các bạn trai tặng hoa cho bạn
gái nhân dịp 8/3
Hình ảnh trẻ trang trí hoa ngày Tết
Hình ảnh trẻ được đi siêu thi, đi tham
quan phòng tranh triển lãm
7.2.8. Biện pháp 8: Dành tình yêu thương
và đối xử công bằng với trẻ.
Được yêu thương
chia sẻ là nhu cầu tất yếu giữa con người với con người. Cảm giác được yêu
thương khiến con người tự tin, yên tâm hơn mạnh mẽ khi làm việc, vui chơi, học
tập...Với trẻ nhu cầu này còn cần hơn bất cứ lứa tuổi nào, bởi lẽ trẻ còn mầm
non còn quá non nớt, sống phụ thuộc vào người lớn ( như cha mẹ và cô giáo khi ở
trường ). Cô giáo yêu thương trẻ như chính cha mẹ chúng - đó là điều cô giáo
mầm non nên làm và hơn thế nữa để giúp trẻ phát triển vững vàng, tự tin.
Hình ảnh cô và trẻ khi chụp chung những
bức ảnh sau khi học bài xong
Ví dụ: Khi
trẻ ốm sốt cao khi ở lớp cô giáo cần ôm ấp, vỗ về không cáu gắt, không quở mắng
trẻ. Cô thể hiện bằng cái nhìn trẻ âu yếm, lời nói ngọt ngào như “ Con đau bụng
phải không ? Cô xoa bụng cho con nhé ! ”, “ Nam uống hết số thuốc này khỏi bệnh
ngay thôi. ”... trẻ sẽ thấy yên tâm và nói với cô nhu cầu của mình như: Muốn đi
vệ sinh, muốn uống nước, muốn về nhà, thấy trong người như thế nào...
Ví dụ: Với
những cháu khi ăn chậm biếng ăn cô cũng không nên mắng trẻ, mà cần nhẹ
nhàng động viên khích lệ để trẻ cố gắng ăn hết xuất hoặc cô cũng có thể bón để
trẻ ăn nhanh hơn, đưa ra những lời khen và tán thưởng” Nếu con ăn nhanh và hết
xuất như các bạn thì cô sẽ cho con đi chơi cầu trượt, hay cuối tuần con sẽ được
thưởng 2 phiếu bé ngoan nếu như ăn hết xuất….
Hình ảnh cô bón cho trẻ ăn
Bên cạnh đó đối xử công bằng
với mọi trẻ trong lớp không có biểu hiện ghét bỏ cháu nào, không thiên vị ưu ái
cháu nào là việc làm mà giáo viên cần lưu ý. Trẻ rất tinh ý và nhạy cảm nếu cô
thiên vị quan tâm quá đến một bạn nào trong lớp
Ví dụ: Cháu
Tuấn làm lớp trưởng có lúc cũng hư nhưng cô giáo không nhắc nhở, không phạt như
các bạn khác. Điều này sẽ làm nhiều trẻ khác thắc mắc và so sánh bạn với mình.
Trẻ sẽ không tin vào cô giáo nữa và thấy bức xúc cũng như thấy cô giáo không
yêu mình như yêu bạn Tuấn. Từ đó trẻ sẽ thấy ngại giao tiếp với cô, không chủ
động nói chuyện với cô nữa
7.2.9. Biện pháp 9: Công tác phối kết hợp
với phụ huynh.
Mối quan hệ tình cảm giữa cha mẹ và trẻ
chính là động lực cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của trẻ. Do đó, cha mẹ có
vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hình thành tính cách và khả năng thích
ứng xã hội trong tương lai của trẻ nhỏ.
Nếu không có sự gắn kết tốt, hoặc thiếu
sự gắn kết, trẻ có thể gặp trở ngại trong quá trình phát triển ngay từ khi còn
nhỏ và dễ mắc phải các vấn đề về tâm lý, ví dụ như lo lắng, trầm cảm, thiếu tự
tin, né tránh giao tiếp xã hội….
Phối hợp với phụ huynh để cùng tìm ra những
biện pháp để cùng nhau thực hiện giúp trẻ có những tính cách, khả năng tốt là
một trong các biện pháp rất quan trọng trong việc phát triển khả năng giao tiếp
tự tin, mạnh dạn cho trẻ mẫu giáo. Chính vì vậy mà tôi thường xuyên trao đổi
với các bậc phụ huynh qua giờ đón trả - trẻ về tình hình đặc điểm ngôn ngữ của
trẻ, khả năng giao tiếp của trẻ. Thông qua đó các bậc phụ huynh nắm được đặc
điểm, sự giao tiếp của con em mình để cùng kết hợp với cô giáo đưa ra các biện
pháp sao cho phù hợp và đạt hiệu quả.
Ví dụ:
Cháu Minh trong lớp nói rất rất nhanh đôi khi không rõ nói câu gì. Tôi đã gặp
trực tiếp phụ huynh để trao đổi cùng kết hợp với cô giáo để sửa cho cháu diễn
đạt chậm từng câu để nói cho mọi người nghe rõ ràng
Ví dụ:
Trẻ nói rất nhỏ khi trả lời cô giáo, không nói chuyện với bạn nào trong lớp
thường xuyên ngồi một mình. Tôi cũng đã trao đổi với các bậc phụ huynh để cùng
giúp cháu mạnh dạn giao tiếp hơn đó là: thường xuyên cho trẻ chơi cùng bạn hàng
xóm, đến đám đông nhiều hơn, tăng cường chơi hoạt động góc, trò chơi đóng vai
theo chủ đề...
Ví dụ: Sau
buổi họp phụ huynh đầu năn tôi đã xin số điện thoại của từng phụ huynh để lập 1
nhóm zalo riêng lấy tên là: Gia đình 5TA2 thân yêu. Ở nhóm này tôi đã tuyên
truyền, trao đổi với các bậc phụ huynh về tình hình nhận thức và sự phát triển
ngôn ngữ khả năng giao tiếp của từng trẻ, và chia sẻ những biện pháp, kĩ năng
để cha mẹ giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Với những trẻ nhút nhát tôi liên tục
nhắn tin riêng cho cha mẹ trẻ để cùng phối hợp đưa ra các biện pháp phù hợp
giúp con ngày 1 tiến bộ hơn. Trong những buổi tổ chức cho trẻ đi trải nghiệm
tôi mời bố mẹ trẻ đến tham gia cùng để thấy được sự mạnh dạn, sôi nổi của con
khi tham gia vào các hoạt động tập thể…
Đồng thời nhắc nhở, vận động phụ huynh cố
gắng dành nhiều thời gian để tâm sự, trò chuyện với trẻ, lắng nghe trẻ
nói, trẻ bày tỏ. Khi phụ huynh trò chuyện với trẻ phải tỏ thái độ tôn trọng và
chân thành với trẻ, đặt niềm tin vào khả năng của trẻ. Ngoài ra cần nói rõ ràng
mạch lạc, khích lệ trẻ bày tỏ nhu cầu nguyện vọng của mình bằng nhiều cách khác
nhau.
* Mối quan hệ giữa các biện pháp:
Sự phân chia các biện pháp giúp trẻ mẫu giáo giao tiếp tự tin, mạnh dạn
là để thuận lợi và tường minh trong quá trình nghiên cứu. Thực tế, trong quá
trình tổ chức rất khó có thể rạch ròi giữa từng biện pháp. Không thể tách rời
lúc nào sử dụng nhóm biện pháp can thiệp trực tiếp và khi nào thực hiện nhóm
biện pháp can thiệp hỗ trợ, bởi trong từng biện pháp đã chứa đựng những yếu tố
của nhau và khi thực hiện biện pháp này thì cũng đồng thời phải sự dụng biện
pháp kia. Ngoài mối quan hệ thống nhất trong nhau, các biện pháp này còn mang
tính chất của một quy trình nối tiếp và phụ thuộc lẫn nhau.
7.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Tôi đã áp dụng đề tài này tại lớp ….
trường mầm non …. và áp dụng vào dạy học cho trẻ 5-6 tuổi của 1 số trường trong
thành phố.
8. Những thông tin cần được bảo
mật: Không có.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng đề
tài:
- Lớp học: Rộng rãi, thoáng mát về mùa hè
và ấm áp về mùa đông, đủ ánh sáng để trẻ vui chơi và học tập.
- Sân trường: Rộng rãi, sạch sẽ, đảm bảo
an toàn cho trẻ.
- Đồ dùng, đồ chơi: Tương đối đầy
đủ theo thông tư 02, đồ dùng đa dạng và đảm bảo an toàn, không sắc nhọn.
- Phụ huynh: Vận động phụ huynh sưu tầm
nguyên vật liệu ủng hộ để giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi để dạy trẻ. Mời phụ
huynh cùng tham gia đi trải nghiệm cùng lớp...
- Sự hỗ trợ của đồng nghiệp: Phối hợp
trong công tác giáo dục trẻ để rèn luyện và tổ chức tốt hoạt động vui chơi cho
trẻ thông qua các hoạt động trong ngày.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ
chức cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:
- Quá trình nghiên cứu và áp dụng sáng
kiến trong quá trình dạy trẻ tôi đã thu được những lợi ích sau:
Các tiêu chí đánh giá |
Trước
khi áp dụng |
Sau
khi áp dụng |
So
sánh tỉ
lệ tăng |
Trẻ
tự tin mạnh dạn hoạt bát hơn. |
10/22=
44% |
22/22=
100% |
56% |
Trẻ
có kĩ năng giao tiếp ứng xử |
15/22
= 68% |
21/22=
95% |
27% |
Trẻ
có kĩ năng cân bằng nhu cầu của bản thân. |
9/22=
41% |
20/22=
91% |
50% |
Trẻ
có kỹ năng làm chủ cảm xúc và hành vi. |
11/22=
50% |
21/22=
95% |
45% |
Trẻ
có kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu. |
10/22=
44% |
21/22=
95% |
51% |
Trẻ
hứng thú tham gia vào các hoạt động |
9/22=
41% |
22/22=
100% |
59% |
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau một thời gian nghiên cứu
và thử nghiệm đề tài, tôi thấy việc lựa chọn hình thức giúp trẻ giao tiếp tự
tin, mạnh dạn là rất quan trọng. Nó quyết định đến sự tiếp thu lĩnh hội
kiến thức của trẻ luôn chủ động và tự nhiên. Bên cạnh đó là sự thành công của
giáo viên khi tổ chức các hoạt động trên lớp nhất là lĩnh vực phát triển ngôn
ngữ, đồng thời giáo viên cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm sau mỗi lần tổ chức
những hoạt động. Và trong những năm tiếp theo, khi tiếp tục thực hiện đề tài
này, kết quả trên trẻ cũng như mục đích của các hoạt động sẽ đạt tốt hơn. Tôi
thấy rằng vận dụng một số hình thức đó sẽ giúp cho trẻ năng động, tích cực, tự
tin, mạnh dạn hơn trong cuộc sống, vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của trẻ về
thế giới xung quanh, về tình cảm, về mối quan hệ trong xã hội phong phú hơn.
Đặc biệt là khả năng giao tiếp tự tin mạnh dạn cũng là chìa khoá mở ra những
thành công trong cuộc sống của trẻ
Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ấy, tôi
đã áp dụng và đã đạt được hiệu quả cao ở lớp mình nhằm hình thành ở trẻ những
yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, đó là sự phát triển về
thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Góp
phần đào tạo thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước thành những con người
phát triển toàn diện, vì trẻ em hôm nay là thế giới của ngày mai.
10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sau khi áp dụng sáng kiến tôi thu được
những lợi ích sau:
- Về bản thân:
Tôi thấy khi thực hiện xong đề tài này
mình có kinh nghiệm hơn khi lên lớp, giúp trẻ hứng thú hơn khi tham gia vào các
hoạt động vui chơi và rút ra được nhiều kinh nghiệm hơn để dạy trẻ bằng nhiều
cách.
Tôi đã biết cách khắc phục được
một số khó khăn của trường, lớp… mang lại khi thực hiện đề tài.
Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi, nguyên
vật liệu cho trẻ được vui chơi.
Linh hoạt, sáng tạo trong việc lựa chọn
và kết hợp các phương pháp khi tổ chức cho trẻ chơi.
- Về phía
trẻ:
+ Hồn nhiên linh hoạt, mạnh dạn, thông
minh và thích đến trường. Đó là điều mà phụ huynh thật an tâm khi giao con em
của mình cho nhà trường, cho cô giáo.
+ Tham
gia các hội thi do nhà trường tổ chức : biểu diễn văn nghệ chào mừng ngày nhà
giáo Việt Nam, mừng ngày 8/3, vui tế trung thu, ngày khai giảng, Tết nguyên
Đán… . Tổ chức cho các cháu tham quan, trò chuyện và biểu diễn văn
nghệ tại công viên, sân trường hay cả khi ngồi trên xe ô tô đi tham quan trải
nghiệm trẻ rất hào hứng sôi nổi và tự tin.
+ Đặc biệt là sau 1 tiết hoạt động hoặc
đang sinh hoạt trong lớp trẻ thậm chí còn chạy đến nói chuyện với cô về nét chữ
trẻ viết xong, vừa thực hiện xong một tác phẩm tạo hình hoặc khoe với cô về một
chiếc váy mới hay về những câu chuyện ở gia đình mình hoặc hỏi cô: Sao hôm nay
em thấy cô buồn thế…. Đó là những gì mà bản thân tôi thấy rất là vui và hạnh
phúc vì đã giúp các con tự tin mạnh dạn hơn trong việc giao tiếp hòa đồng cùng
cô và các bạn khi ở trên lớp.
- Về phụ huynh:
Khi tôi chưa thực hiện đề tài này thì phụ
huynh chưa hiểu hết về tầm quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ
đặc biệt là họ không biết vui chơi có ích như thế nào đối với trẻ. Từ khi tôi
thực hiện đề tài này tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh giúp họ hiểu nhiều
điều và giúp họ hiểu vui chơi đối với trẻ mẫu giáo, nhất là trẻ nhà trẻ đóng
một vài trò rất quan trọng với con em mình.
Hoạt động vui chơi giúp trẻ phát triển kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện cảm xúc, kỹ năng thẩm mỹ, kỹ năng nhận thức….
Đặc biệt các trò chơi giúp trẻ tự tin hơn, hứng thú tham gia vào các hoạt động
học. Từ đó phụ huynh luôn tin tưởng vào cô giáo khi gửi con mình vào trường để
yên tâm công tác.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/