Sáng kiến kinh nghiệm lịch sử thpt, skkn lịch sử lớp 12 hay nhất, skkn lịch sử lớp 12 mới nhất,...
Sử dụng bài tập trong dạy học các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết lịch sử
12 trường thpt
Luật
giáo dục nêu rõ, để hoàn thành mục tiêu giáo dục đào tạo cần thực hiện
theo nguyên lý: “Học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội”. Nó quy định phương pháp giáo dục ở trường phổ
thông: “phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo” của học sinh; “phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học”, “bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn”; “tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học
tập của học sinh”[8, tr30].
Phương
pháp giáo dục đòi hỏi việc dạy học ở trường phổ thông phải gắn lý
luận với thực tiễn; bảo đảm việc cung cấp lý thuyết hợp trình độ,
chú trọng thực hành, rèn luyện; giảm bớt việc truyền thụ tri thức “một chiều” của giáo viên, tăng
cường hoạt động nhận thức độc lập của học sinh.
Dựa trên cơ sở tâm lí học và lí luận
dạy học hiện đại chúng ta biết rằng: trong quá trình dạy học để phát triển
nhân cách của học sinh cần phải tăng cường tổ chức hoạt động nhận thức cho học
sinh. Thực hiện nhiệm vụ đó có nhiều biện pháp, trong đó việc sử
dụng bài tập chiếm một vị trí quan trọng và ngày càng khẳng định
được ưu thế của mình. Quá trình dạy học ở trường phổ thông hiện nay
bài tập được coi là khâu cơ bản và được quy định trong phân phối
chương trình.
Bài
tập nói chung và bài tập trong dạy học lịch sử nói riêng có vai trò hết sức
quan trọng trong việc hình thành tri thức, góp phần vào nhiệm vụ giáo dục tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, gây hứng thú học tập và phát triển tư duy cho học
sinh. Bài tập lịch sử đang và sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi,
định hình được vị trí quan trọng của mình trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục, phát huy năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của học
sinh.
Trong
dạy học lịch sử, các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết có vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng kiến thức của học sinh, hình thành cho các em những
hiểu biết khoa học về lịch sử và tính quy luật của sự phát triển xã hội, bồi
dưỡng và rèn luyện các kỹ năng cần thiết của bộ môn.
Đặc
điểm của kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại cả về thời gian, không gian,
nhân vật, diễn biến, kết quả, ý nghĩa…Vì vậy học sinh chỉ được học kiến thức
một lần duy nhất trong một cấp học, những tiết học sau, bài học sau những kiến
thức đó không được lặp lại. Chính điều này gây khó khăn cho học sinh trong việc
củng cố, ghi nhớ kiến thức. Vậy nên trong quá trình dạy học cần giành thời gian
củng cố, ôn tập kiến thức cho học sinh, tìm các biện pháp để giúp học sinh nhớ
nhanh, nhớ lâu, nhớ bền vững những kiến thức đã được học.
Tuy
nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng Lịch sử chỉ là môn
lý thuyết không có bài tập và thực hành, điều này gây ra ảnh hưởng
không nhỏ đối với việc đổi mới phương pháp dạy học trong thời gian
gần đây. Trong thực tiễn quá trình sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử nói
chung và nhất là đối với các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết nói riêng ở trường
trung học phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức, thậm
chí còn bị bỏ qua.
Trên
cơ sở về mặt lý luận và thực tiễn quá trình dạy học cũng như căn cứ vào mục
tiêu giáo dục, giáo dưỡng và phát triển, chúng tôi chọn vấn đề: “Sử dụng bài tập trong dạy học các bài ôn
tập, sơ kết, tổng kết môn Lịch Sử lớp 12 trường THPT (Chương trình chuẩn)” để
làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ
TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1.
Quan niệm về bài tập lịch sử
Trong
dạy học ở trường phổ thông nói chung, bài tập được coi là khâu cơ
bản của quá trình dạy học, nó chiếm một vị trí quan trong trong phân
phối chương trình, trong một giờ lên lớp chẳng hạn như các môn Văn,
Toán, Hóa, Lý…quy định có cả giờ luyện tập, bài tập…
Theo
nghĩa chung nhất, thuật ngữ “bài
tập” (tiếng Anh là “Exercise”,
tiếng Pháp là “Exercice”, tiếng
Nga là “Uprêjniê”) dùng để chỉ
một hoạt động nhằm rèn luyện thể chất và tinh thần: bao gồm các
loại bài như bài tập xướng âm, bài tập thể dục… Khi dùng trong lĩnh
vực giáo dục (dạy học), theo “Từ điển Tiếng Việt” thuật ngữ “bài tập” có nghĩa là: “bài ra cho học sinh làm để vận dụng
những điều đã học. Ví dụ, bài tập Đại số; ra bài tập; làm bài
tập ở lớp…” Những định nghĩa trên mới giải thích về mặt ngữ
nghĩa chứ chưa làm rõ bản chất khái niệm “bài tập”.
Theo
Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang, khi xem xét khái niệm “bài tập” ta không thể tách rời nó với người làm bài
tập. Bài tập chỉ có thể là “bài
tập” khi nó trở thành đối tượng hoạt động của một chủ thể,
nghĩa là có một người nào đó, có nhu cầu chọn nó làm đối tượng
hoạt động, mong muốn giải bài tập – tức là có một “người giải”. Như vậy, bài tập là
một hệ thông tin xác định bao gồm hai tập hợp gắn bó chặt chẽ và
tác động qua lại với nhau. Đó là những điều kiện (những dữ liệu cho
trước để từ đó học sinh có căn cứ tìm ra lời giải, cách giải) và
những yêu cầu (tức là cái phải tìm, trạng thái mong muốn đạt tới
của đối tượng).
Trong
các tài liệu Giáo dục học, Giáo dục lịch sử, khái niệm “bài tập” có nội dung rộng lớn hơn
nhiều bao gồm cả bài tập nhận thức. Theo I.Ia. Lecne: bài tập thường
được dùng theo nghĩa là một nhiệm vụ cần phải được thực hiện hoặc
một mục đích cần phải đạt tới.
Trên
cơ sở định nghĩa “bài tập” trong
dạy học, Tiến sĩ Trần Quốc Tuấn quan niệm: “Bài tập lịch sử là khái niệm chỉ một hệ thông tin xác định
về tổ chức quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông khi kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trên các lĩnh vực nhận
thức (khoa học và tư tưởng), xúc cảm – tình cảm và kỹ năng, kĩ xảo”[14,
tr12].
Từ
nhận thức trên, chúng ta có định nghĩa “bài tập” trong dạy học như sau: Bài tập là một hệ thông
tin xác định bao gồm những điều kiện và những yêu cầu được đưa ra
trong quá trình dạy học, đòi hỏi người học có một lời giải đáp,
mà lời giải đáp này về toàn bộ hoặc từng phần không ở trạng thái
có sẵn của người giải tại thời điểm mà bài tập được đưa ra.
Như
vậy có thể thấy rằng bài tập là một hệ thông tin, quy định nhiệm
vụ mà học sinh phải thực hiện hay là mục đích mà giáo viên và học
sinh cần phải hoàn thành trong dạy học lịch sử. Bài tập lịch sử
được tiến hành trong tất cả các khâu của quá trình dạy học: nghiên
cứu tài liệu mới; củng cố, khái quát hóa, hệ thống hóa; vận dụng,
kiểm tra – đánh giá.
1.1.1. Các loại bài
tập trong dạy học lịch sử
Có
nhiều cách và căn cứ để phân loại bài tập, tuy nhiên thông thường chúng ta chia
ra làm ba nhóm bài tập: tự luận; trắc nghiệm; thực hành.
*
Nhóm bài tập tự luận
Đây
là loại bài tập có yêu cầu cao đối với học sinh khi làm bài. Loại bài tập này
đòi hỏi học sinh phải trình bày, lập luận một cách chặt chẽ những vấn đề được
nêu thành một bài viết hoàn chỉnh. Các dạng bài tập tự luận thường gặp như: bài
tập phân tích tính chất của sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; bài tập
chứng minh, lí giải những nhận định về lịch sử; bài tập phân tích mối quan hệ
giữa các sự kiện lịch sử; bài tập tìm hiểu nguyên nhân, ý nghĩa sự kiện, bài
học kinh nghiệm…
Câu 1: Trình bày quá trình thành lập ASEAN và quan hệ giữa ASEAN
với Việt Nam từ khi thành lập cho đến nay. Việt Nam cần làm gì để phát triển
hơn nữa mối quan hệ hợp tác đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong quá
trình hội nhập quốc tế?
Câu 2: Hãy chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa ba yếu tố: phong trào công nhân, phong
trào yêu nước và chủ nghĩa Mác – Lênin.
Câu 3: Sự khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Liên Xô bắt nguồn từ những nguyên nhân nào? Theo em sự sụp đổ mô hình nhà nước
XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã để lại cho chúng ta những bài học gì?
Câu
4: Chiến thắng Phước Long (6 – 1 – 1975) là một “hiện tượng mới” trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước của quân và dân miền Nam. Hiện tượng này là gì?
Tại sao sau chiến thắng Phước Long, Đảng ta đã quyết tâm đề ra kế hoạch giải
phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976?
*
Nhóm bài tập trắc nghiệm khách quan
Được
xây dựng bằng hệ thống câu hỏi, bài tập đòi hỏi các câu trả lời ngắn. Thông
thường bài tập trắc nghiệm khách quan được chia làm bốn loại: bài tập yêu cầu
xác định đúng – sai; bài tập yêu cầu lựa chọn đáp án đúng; bài tập xác định mối
quan hệ giữa các yếu tố được nêu (đối chiếu, cặp đôi); bài tập điền
khuyết.
*
Bài tập thực hành
Loại
bài tập này với mục đích làm cho học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học
vào cuộc sống học tập, lao động và các công tác xã hội. Đồng thời giúp cho các
em tạo biểu tượng một cách chân xác về sự kiện lịch sử, rèn luyện kĩ năng, kĩ
xảo trong quá trình học tập. Một số loại bài tập thực hành như: Vẽ sơ đồ, lược
đồ, biểu đồ, đồ thị, lập bảng niên biểu, bảng so sánh, sưu tầm tài liệu, tranh
ảnh, bài viết..
1.1.2. Vai trò
của bài tập trong dạy học lịch sử
Trong
dạy học lịch sử cũng như các môn học khác ở trường phổ thông phải
đồng thời thực hiện cả ba nhiệm vụ có quan hệ hữu cơ với nhau: giáo
dưỡng (cung cấp kiến thức khoa học, chính xác); giáo dục (về đạo
đức, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, thái độ) và phát triển (kỹ
năng, kỹ xảo thực hành bộ môn). Trong quá trình này bài tập lịch sử
có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành tri thức cho học
sinh. Việc hình thành, củng cố kiến thức mới cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường THPT được thực hiện thông qua nhiều phương tiện
khác nhau, trong đó có bài tập lịch sử.
Theo
lý luận dạy học hiện đại, quá trình hình thành kiến thức cho học
sinh chỉ có thể đạt hiệu quả khi việc dạy học được thực hiện trên
cơ sở tổ chức hoạt động nhận thức độc lập cho học sinh, chứ không
phải là sự truyền đạt kiến thức có sẵn của giáo viên. Trong cuốn
“Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào”, I.F.
Kharlamôp đã viết: “quá trình nắm
vững kiến thức mới không biến thành việc học thuộc một cách bình
thường các quy tắc, các kết luận khái quát hóa. Nó được xậy dựng
trên cơ sở của việc cải tiến công tác tự lập của học sinh, của việc
phân tích tính lôgic sâu sắc tài liệu sự kiện làm nền tảng cho việc
hình thành các khái nệm khoa học”[9, tr10].
Để
nắm vững tri thức một cách sâu sắc trong học tập, học sinh phải thực
hiện một chu trình hoạt động trí tuệ, bao gồm những hoạt động tri
giác tài liệu, thông hiểu nó, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo bằng những
bài luyện tập và cuối cùng là khái quát hóa, hệ thống hóa kiến
thức. M. A. Đannilốp khẳng định: “Kiến
thức sẽ được nắm vững thực sự, nếu học sinh có thể vận dụng một
cách thành thạo chúng vào việc hoàn thành những bài tập lý thuyết
và thực hành”[7, tr28]. Giáo sư N.A. Menchinxkaia cũng nhấn mạnh
rằng: “chỉ có một hệ thống hợp lý
các bài luyện tập, đòi hỏi học sinh phải có những phương pháp đa dạng
để tiếp thu tài liệu học tập và một sự căng thẳng trí tuệ cao mới
cho phép đạt được những kiến thức sâu sắc và bền vững”. Qua quá
trình làm bài tập giúp cho học sinh hệ thống lại được những kiến
thức đã học, từ đó vận dụng vào thực tế để giải quyết những yêu
cầu mà giáo viên đặt ra. Sau khi hoàn thành những công việc ấy thì tư
duy học sinh sẽ tự phát triển thông qua các thao tác được tiến hành
trong quá trình tìm lời giải cho bài tập.
Như
vậy, bài tập góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh trên
cơ sở nắm vững kiến thức cơ bản.
Bài
tập lịch sử góp phần vào nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm,
nhân cách của học sinh. So với các môn học khác trong trường phổ
thông, lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục học sinh, song vấn
đề ở đây là “hiệu quả giáo dục,
chứ không phải là sự phô trương hình thức, giáo điều, áp đặt”[12,
tr 96]. Với tư cách là một phương tiện để cung cấp, trang bị tri thức
lịch sử cho học sinh, bài tập lịch sử có vai trò quan trọng trong
việc giáo dục tình cảm, phẩm chất đạo đức cho học sinh mà các
phương tiện dạy học khác khó có thể thay thế được. Điều này được
thể hiện rõ thông qua quá trình vận dụng một cách sáng tạo kiến
thức lịch sử để giải quyết một vấn đề đặt ra, học sinh sẽ tiếp
cận với chân lí, phản ánh được hiện thực và qua đó xây dựng được
niềm tin vững chắc vào sự phát triển hợp quy luật của lịch sử.
Ngoài ra, thông qua việc giải các loại bài tập lịch sử, học sinh được
rèn luyện những đức tính tốt đẹp về tinh thần tự lực, tính cẩn
thận, kiên trì, vượt khó, tính chân thực…
Bài
tập lịch sử góp phần rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn cho học
sinh. Rèn luyện kỹ năng bộ môn (bao gồm kỹ năng học tập và kỹ năng
thực hành) là một nhiệm vụ quan trọng trong việc dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Đây là một trong những biện pháp cần thiết để tăng
cường hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo cho học sinh, góp phần
nâng cao trí tuệ, thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng: “Học đi đôi với hành…”.
Rèn
luyện kỹ năng thực hành bộ môn chính là rèn luyện những phương pháp
học tập thích hợp nhất, phù hợp với quy luật nhận thức, làm cho
học sinh tích cực hoạt động tại lớp, biết phương hướng và phương
pháp hoạt động tự lập để chủ động tiếp thu bài, lĩnh hội kiến
thức một cách sâu sắc và vận dụng vào cuộc sống. Có nhiều hình
thức, biện pháp khác nhau để thực hiện việc rèn luyện kỹ năng bộ
môn cho học sinh qua dạy học lịch sử, trong đó sử dụng bài tập là
một trong những biện pháp chủ yếu và mang lại hiệu quả cao nhất.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của
bài ôn tập, sơ kết, tổng kết môn Lịch Sử
Các bài ôn tập, sơ kết, tổng
kết trong chương trình lịch sử ở trường THPT có vai trò đặc biệt quan
trọng. Đây là loại bài nhằm củng cố, hệ thống những kiến thức cơ
bản của một giai đoạn lịch sử nhất định, tổng hợp, khái quát kiến
thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh. Bài ôn tập, sơ kết, tổng
kết được thực hiện khi hoàn thành việc nghiên cứu một giai đoạn, một
thời kì, một khóa trình hay các vấn đề lịch sử của chương trình.
Bài ôn tập, sơ kết, tổng kết giúp cho học sinh có một cái nhìn toàn
cảnh về nội dung mình đã học để hệ thống hóa, khái quát hóa những
tri thức ấy. Chính vì lí do đó loại bài này có chức năng củng cố
những kiến thức đã học, đồng thời rèn luyện kĩ năng thực hành bộ
môn cho học sinh. Điều này rất quan trọng được đặt ra trong mục tiêu
giáo dục của bộ môn. Chẳng hạn trong bài: Tổng kết lịch sử thế
giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000, trong chương trình lớp 12,
những kiến thức cơ bản được hệ thống lại qua đó đã giúp cho học
sinh hình dung được toàn cảnh thế giới với những nét nổi bật. Sau
Chiến tranh Thế giới thứ hai thì một trật tự mới đã được xác lập,
trong đó nổi lên vai trò của Liên Xô và Mỹ (Trật tự hai cực Ianta).
Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các
nước Đông Âu, chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước,
trở thành một hệ thống thế giới...Từ đó giúp cho học sinh nhận
thức được tình hình thế giới với những biến động lớn lao, với nhiều
xu thế đang dần hình thành, nhưng đồng thời cũng thấy rõ xu thế phát
triển tất yếu của xã hội trong tương lai.
Bài
ôn tập, sơ kết, tổng kết giúp cho học sinh có thể phân tích được bản
chất những mối quan hệ, giải thích sâu hơn những khái niệm phức tạp
mà mình đã được học trước đó để nâng cao trình độ lý thuyết khi lí
giải các vấn đề lịch sử. Chẳng hạn trong bài: Tổng kết lịch sử
Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000, chương trình lớp 12, giúp cho học
sinh thấy rõ hơn tiến trình phát triển đi lên của cách mạng Việt Nam.
Từ đó học sinh có thể hiểu sâu hơn, giải thích rõ hơn những vấn đề
như: xu hướng vô sản, dân chủ tư sản,... trong quá trình đấu tranh
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Bài
ôn tập, sơ kết, tổng kết có vai trò hết sức quan trọng trong việc
phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.
Tổ chức tốt loại bài học này là điều kiện quan trọng để nâng
cao chất lượng kiến thức hình thành cho học sinh những hiểu biết khoa
học về lịch sử và tính quy luật của sự phát triển xã hội, bồi
dưỡng các kĩ năng được quy định trong chương trình lịch sử ở trường
phổ thông.
2. Những giải pháp thực hiện đề tài
2.1. Một số nguyên tắc
chung khi sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết
2.1.1. Sử dụng bài tập phải góp phần thực hiện mục tiêu dạy học (giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển)
Sử
dụng bài tập cũng như sử dụng bất cứ biện pháp nào trong dạy học lịch sử đều
nhằm mục đích nâng cao chất lượng giờ học qua đó để thực hiện tốt mục tiêu giáo
dục. Hiệu quả bài học là cái đích của mọi phương pháp, mọi hình thức dạy học,
trong đó việc sử dụng bài tập để dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết cũng nhằm
mục đích trên. Đây là nguyên tắc chung chi phối nội dung, phương pháp dạy học,
trên cơ sở mục tiêu dạy học mà đưa ra biện pháp, hình thức dạy học cho phù hợp
với từng bài, từng chương hay từng khóa trình lịch sử.
Chúng
ta biết rằng, hiệu quả của bài học lịch sử được thể đánh giá qua ba tiêu chí,
về giáo dưỡng phải cung cấp kiến thức cơ bản, khoa học cho học sinh.
Ví
dụ: khi sử dụng bài tập trong dạy học bài 11: Tổng kết lịch sử thế giới hiện
đại từ năm 1945 đến năm 2000 (SGK Lịch sử 12, chương trình chuẩn), để thực hiện
mục tiêu giáo dưỡng, chúng ta cần hệ thống lại cho học sinh những kiến thức đã
học về lịch sử thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000, qua hai
thời kì: thời kì Chiến tranh lạnh từ năm 1945 đến năm 1991, thế giới chia làm
hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong trật tự “hai cực” do Mỹ và
Liên Xô đứng đầu mỗi cực và sau thời kì Chiến tranh lạnh từ năm 1991, trật tự
thế giới “hai cực” tan rã, một trật tự thế giới mới “đa cực” đang hình thành;
về sự phát triển và vai trò của các nước lớn trong quan hệ quốc tế; về kết quả
của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ La tinh; tác
động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu hóa đã tạo thời
cơ và thách thức đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển.
2.1.2. Sử dụng bài tập phải có sự lựa chọn để thực hiện tốt nhiệm vụ,
mục đích của bài học
Trong dạy học lịch sử có nhiều loại bài học, về cơ bản chúng ta
chia thành bốn loại bài học (bài cung cấp kiến thức mới; bài ôn tập, sơ kết,
tổng kết; bài kiểm tra đánh giá; bài hỗn hợp). Tương ứng với mỗi loại bài học
lại có những mục đích khác nhau và biện pháp thực hiện khác nhau, đây là căn cứ
để chúng ta sử dụng bài tập cho hợp lí. Như vậy phải căn cứ vào từng loại bài
học cụ thể mà đưa ra biện pháp sử dụng bài tập cho phù hợp với nhiệm vụ, mục
đích cũng như đặc điểm của bài.
Ví
dụ: khi sử dụng bài tập để dạy các bài ôn tập sơ kết, tổng kết, trước hết phải
xác định rõ mục đích của loại bài này: Bài ôn tập, sơ kết, tổng kết được
sử dụng khi hoàn thành việc nghiên cứu một giai đoạn, một thời kì,
một khóa trình hay các vấn đề lịch sử của chương trình, nhằm củng
cố, tổng hợp, khái quát kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho
học sinh. Trên cơ sở những sự kiện lịch sử cụ thể đã học, bài ôn
tập, sơ kết, tổng kết cung cấp cho học sinh một bức tranh toàn diện
về các hiện tượng hoặc quá trình lịch sử đã học và hệ thống hóa,
khái quát hóa các kiến thức đã tiếp thu. Mặt khác, việc ôn tập, sơ
kết, tổng kết kiến thức cần phải chú ý phát triển tính tích cực
độc lập trong nhận thức, đặc biệt là tư duy và rèn kuyện kỹ năng
thực hành bộ môn của học sinh. Nhiệm của loại bài học này không
trình bày kiến thức mới mà hướng dẫn học sinh nhớ lại những điều
đã học, uốn nắn những hiểu biết sai. Bổ sung, khái quát hóa, rút ra
những kết luận để nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn.
2.1.3. Sử dụng bài tập phải có sự kết hợp linh hoạt với các phương pháp
dạy học khác
Trong
dạy học các môn khoa học cũng như trong dạy học lịch sử, không có phương pháp
nào là “độc tôn”, có thể thay thế cho tất cả các phương pháp khác, chính vì vậy
việc sử dụng bài tập cũng tuân thủ nguyên tắc trên. Để đạt hiệu quả trong một
giờ lên lớp đòi hỏi người giáo viên phải có sự linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn
các phương pháp dạy học. Không phải bất cứ nội dung nào, mục nào của bài học
đều sử dụng bài tập mà phải có sự kết hợp với các phương pháp dạy học khác như
: trình bày miệng, sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng tài liệu thành văn, tạo
biểu tượng,…có như vậy mới làm cho giờ học sinh động, học sinh dễ tiếp thu kiến
thức.
Ví
dụ: khi dạy mục 3: Thời kì 1945 – 1954, bài 27: Tổng kết lịch sử Việt Nam từ
năm 1919 đến năm 2000 (SGK lớp 12, chương trình chuẩn), ngoài việc sử dụng các
loại bài tập chúng ta cần kết hợp với việc sử dụng tài liệu thành văn, trình
bày miệng để làm rõ nội dung của mục. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập, đất nước ta gặp vô vàn khó khăn thử thách, nhân dân ta vừa xây
dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài
chính, vừa đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản bảo vệ chính quyền và cuối năm
1946 chống thực dân Pháp mở rộng xâm lược cả nước.
2.1.4. Sử dụng bài tập phải đảm bảo tính vừa sức đối
với học sinh
Đây
là một nguyên tắc quan trọng nó đảm bảo
tính khả thi cho quá trình thực hiện việc sử dụng bài tập trong dạy học. Trong
một lớp học bao giờ cũng có sự chênh lệch về trình độ, mức độ nhận thức giữa
các học sinh, yếu tố này cần phải được tính đến khi sử dụng bài tập. Tính vừa
sức được thể hiện bằng việc khi đưa bài tập vào sử dụng sẽ phù hợp với từng đối
tượng học sinh, thông thường phải lấy mặt bằng chung của lớp làm căn cứ. Mặt
khác phải xem xét trình độ và năng lực khác nhau để sử dụng có hiệu quả các
loại bài tập, phải giúp học sinh làm việc với sự nỗ lực về trí tuệ ở tất cả các
nhóm (khá – giỏi; trung bình; yếu – kém). Muốn làm được điều này cần sử dụng
một cách đa dạng các loại bài tập với nhiều mức độ khác nhau.
Ví
dụ: khi tiến hành ôn tập lịch sử Việt
Ví
dụ:
Hãy
điền đúng (Đ), hoặc sai (S) vào ô trống đầu câu:
1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933
là tác động lớn nhất của tình hình thế giới đến cách mạng Việt
2. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 được coi là
cuộc đấu tranh chính trị, vũ trang đầu tiên của nhân dân ta.
3. Nhiệm vụ trực tiếp của cách mạng Đông
Dương trong những năm 1936 – 1939 là
chống phong kiến, phát xít và bè lũ bán nước.
Đối
với học sinh nhóm trung bình cần kết hợp với bài tập tự luận để học sinh ngoài
việc nắm kiến thức còn có thể lí giải bản chất của vấn đề.
Ví
dụ:
1.
Tại sao nói phong trào cách mạng 1936 – 1939 là cuộc diễn tập thứ hai chuẩn bị
cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám?
2.
Trình bày nội dung chính của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(5 – 1941) và nêu ý nghĩa lịch sử của hội nghị.
Đối với học sinh ở nhóm khá – giỏi ngoài những
yêu cầu trên, cần thiết phải giúp các em đánh giá, phân tích được nội dung vấn
đề và khả năng vận dụng kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời rèn luyện
khả năng thực hành bộ môn cho các em.
1. Phân tích nghệ thuật nắm bắt thời
cơ và chớp thời cơ của Đảng ta trong cách mạng tháng 8 – 1945.
2. Có ý kiến cho rằng: cách mạng tháng
Tám thành công là một sự ăn may, diễn ra trong điều kiện “trống vắng quyền
lực”. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại sao.
3. Hãy lập bảng so sánh chủ trương của
Đảng qua các thời kì cách mạng từ 1930 đến 1945 và giải thích tại sao có sự
khác biệt đó.
Bên cạnh việc tuân thủ những nguyên
tắc chung, do đặc thù của bài ôn tập, sơ kết, tổng kết cho nên khi sử dụng bài
tập để dạy học loại bài này còn có những phương pháp riêng.
2.2. Một số biện pháp cụ thể để
sử dụng bài tập trong dạy học các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết
Qua nghiên cứu lí luận và nhất là từ
thực tiễn quá trình dạy học, chúng tôi đã chia
việc sử dụng bài tập thành hai trường hợp cơ bản:
2.2.1. Thứ
nhất: Sử dụng bài tập dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên
Đây là hình thức sử dụng cơ bản và
nhiều nhất trong quá trình dạy học với sự hướng dẫn, điều khiển, tổ chức của
giáo viên để học sinh tiến hành làm bài tập. Đối với trường hợp thứ nhất chúng
ta có các hình thức sử dụng như sau:
2.2.1.1.
Giao bài tập cho từng cá nhân làm việc, sau đó công bố đáp án, cho học sinh
đổi bài và tự chấm, nhận xét kết quả của nhau
Để thực hiện hình thức này chúng ta có
thể sử dụng phiếu học tập và phát cho từng học sinh, giáo viên chỉ hướng dẫn
các em cách làm bài và quan sát lớp, sau đó công bố đáp án cho các em đổi bài,
tự chấm điểm và nhận xét kết quả của bạn. Đây là hình thức đòi hỏi tính độc lập
của mỗi cá nhân khi làm việc, học sinh được giáo viên hướng dẫn cách làm bài và
tự mình giải quyết những yêu cầu mà bài tập đưa ra.
Đồng thời tạo ra tâm lí thi đua giữa các em vì chấm bài tại lớp thể hiện sự dân
chủ, tạo động cơ học tập cho học sinh, qua việc nhận xét kết quả của bạn sẽ góp
phần sửa chữa những thiếu sót của bản thân.
Ví dụ: Để tiến hành dạy học bài 11:
Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000, chúng ta sử dụng
phiếu học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP (số 1) Họ và tên:…………………………….. Lớp:…………………………………… Hãy hoàn thành các bài tập sau: 1.
Trình bày xu thế phát triển chủ yếu của thế giới
từ sau 1991. Hãy lí giải vì sao có sự thay đổi trong chiến lược phát triển
đất nước của hàu hết các quốc gia trên thế giới. 2.
Phân tích tác động của xu thế toàn cầu hóa đối với
các quốc gia dân tộc trên thế giới. Ở Việt 3.
Chiến tranh lạnh là gì? Phân tích hậu quả của
chiến tranh lạnh. Vì sao Liên Xô và Mĩ buộc phải chấm dứt chiến tranh
lạnh? 4.
Trình bày tóm tắt quá trình hình thành và tan rã
của trật tự thế giới hai cực Ianta. Phân tích những nhân tố góp phần làm
tan rã trật tự thế giới ấy. 5.
Lập bảng thống kê những thành tựu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1950 đến đầu những năm 70 và phân tích những
nhân tố góp phần tạo nên những thành tựu ấy. 6.
Lập niên biểu những sự kiện chính của lịch sử thế
giới từ 1945 đến 2000 và nhận xét về xu thế phát triển hiện nay của thế
giới. PHIẾU HỌC TẬP (số 2) Họ và tên:…………………………….. Lớp:…………………………………… Hãy hoàn thành các bài tập sau bằng cách khoanh tròn trước đáp án
đúng. 1. Hội nghị Ianta diễn ra trong hoàn cảnh
lịch sử: A. Các nước Đồng minh họp bàn về việc tấn công tiêu
diệt CNFX B. Chiến tranh thế giới thứ hai
sắp kết thúc, nhiều vấn đề quan trọng cần phải giải quyết. C. Chiến tranh thế giới thứ hai
kết thúc, các nước thắng trận họp bàn về việc phân chia quyền lợi. D. Thế giới phân chia thành hai
phe - Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. 2. Những quyết định của Hội nghị Ianta
đưa đến hệ quả: A. Một trật tự thế giới mới được
hình thành gọi là trật tự hai cực Ianta. B. Trên lãnh thổ Đức hình thành
hai nhà nước Đức với hai chế độ chính trị
và con đường phát triển khác nhau. C. Liên hợp quốc được thành lập. D. Chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu
diệt tận gốc. 3.
Nguyên tắc cơ bản nhất chỉ đạo hoạt động của Liên hợp quốc là: A. Bình đẳng chủ quyền giữa các
quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc. B. Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và
độc lập chính trị của tất cả các nước. C. Không can thiệp vào công việc
nội bộ của bất kì nước nào. D. Chung sống hòa bình và sự
nhất trí giữa năm nước lớn (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc).
PHIẾU HỌC TẬP (số 2) Họ và tên:…………………………….. Lớp:…………………………………… Hãy hoàn thành các bài tập sau bằng cách
khoanh tròn trước đáp án đúng. 4. Đặc trưng nổi bật nhất trong bối cảnh
quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai? A. Chủ nghĩa xã hội đã vượt ra
khỏi phạm vi một nước. B. Thế giới phân chia thành hai phe – xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa do Liên Xô và Mĩ đứng đầu. C. Quan hệ quốc tế bị chi phối bởi
các mối quan hệ giữa các cường quốc lớn. D. Liên Xô và Mĩ cùng mở rộng phạm
vi ảnh hưởng trên thế giới. 5. Hội
nghị Ianta đã thỏa thuận việc đóng quân ở nước đức sau Chiến tranh thế giới
thứ hai là: A. Liên Xô đóng quân ở Đông Đức,
Mĩ đóng quân ở Tây Đức. B. Liên Xô đóng quân ở Đông Đức và Đông
Béclin, Mĩ đóng quân ở Tây Đức và Tây Béclin. C. Liên Xô đóng quân ở Đông Đức và Đông
Béclin, Mĩ, Anh, Pháp đóng quân ở Tây Đức và Tây Béclin. D. Mỗi nước Liên Xô và Mĩ đóng
quân ở một nửa lãnh thổ nước Đức. 6. Đặc
trưng nổi bật nhất của tình hình thế giới trong thời gian nửa sau thế kỉ XX
là: A.
Sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở các nước Đông Âu, CNXH vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành
hệ thống thế giới. B.
Mĩ ngày càng giàu mạnh, vươn lên vị trí số một thế
giới. C.
Cao trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các
nước Á, Phi, Mĩ Latinh, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ
ngiã thực dân trên toàn thế giới. D.
Thế giới bị phân chia thành hai cực – hai phe: tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa do Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe.
2.2.1.2. Giao bài tập và hướng dẫn cả lớp làm việc
Đây là hình thức huy động sức mạnh tập thể, phát huy tối đa năng
lực của tất cả học sinh. Giáo viên sau khi đưa bài tập, hướng dẫn các em cách
làm và yêu cầu tất cả học sinh lần lượt tham gia trình bày, bổ sung cho nhau.
Cuối cùng nhiệm vụ của giáo viên là tổng kết và nhận xét kết quả đạt đươc, bổ
sung, uốn nắn những thiếu sót của học sinh. Đối với hình thức này chúng ta nên
thực hiện bằng việc thiết kế hệ thống bài tập trên các Slide và dùng phần mềm
Powerpoint để trình chiếu cho cả lớp theo dõi và làm việc. Hình thức này tiết
kiệm được thời gian và giúp học sinh làm việc hiệu quả hơn tuy nhiên việc làm
này đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian để biên soạn và thực hiện.
Ví dụ: khi dạy học bài 27: Tổng kết lịch sử
Việt
Đối với các dạng bài tập trắc nghiệm
và thực hành chúng ta có thể tiến hành tương tự như cách làm trên sau đó trình
chiếu để học sinh quan sát và làm việc
2.2.1.3. Giao
bài tập cho các nhóm, giáo viên nêu nhiệm vụ để các nhóm tự thực hiện
Sau
khi cho các nhóm làm bài tập, giáo viên tổ chức trình bày kết quả và nhận xét
kết quả của nhau. Bài tập được sử dụng dưới hình thức hoạt động nhóm góp phần
tạo ra sự tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức, đồng thời cũng
rèn luyện cho các em khả năng làm việc, phối hợp cùng với tập thể. Đây là hình
thức thường được sử dụng khi không có thiết bị công nghệ thông tin, nó đem lại
hiệu quả và có tính khả thi cho giáo viên khi thực hiện.
Ví dụ: khi tiến hành ôn tập, sơ kết
phần lịch sử Việt
Sử dụng phiếu “Hoạt
động nhóm” để thực hiện khi không có sự hỗ trợ của các thiết bị khác.
PHIẾU
HOẠT ĐỘNG NHÓM 1 Hãy
hoàn thành bài tập sau: Trình bày tình hình nước ta sau cách
mạng tháng Tám. Nhiệm vụ của cách mạng Việt - Trình bày được tình hình nước ta sau
cách mạng tháng Tám về các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội. -
Nêu được nhiệm vụ trước mắt của cách mạng nước ta. - Nhận xét về tình hình đất nước và lí
giải nhận định trên bằng các sự kiện lịch sử cụ thể. - Sau khi hoàn thành, nhóm cử đại
diện trình bày, các thành viên còn lại chú ý lắng nghe để bổ sung và hoàn
thiện bài tập. - Trả lời những câu hỏi do các nhóm đặt
ra. - Ghi vào vở những nội dung chính và lời
nhận xét của các nhóm khác.
Đối với những nhóm còn lại chúng ta sẽ
làm tương tự, sau đó cho đại diện trình bày, các nhóm nhận xét và cuối cùng
giáo viên nhận xét, bổ sung nếu cần thiết.
Bên cạnh đó chúng ta cũng có thể sử
dụng máy tính để trình chiếu cho các nhóm quan sát và thực hiện với nhiều dạng
bài tập khác nhau.
2.2.1.4. Giáo viên tổ chức, dẫn dắt, gợi ý để học
sinh hiểu nội dung bài tập
Hình
thức này được thực hiện khi giao bài tập cho tập thể làm, giáo viên sẽ dẫn dắt,
gợi ý các em một số nhiệm vụ cần làm, cách giải quyết vấn đề được nêu ra. Đây
là hình thức đòi hỏi kĩ năng tổ chức, kinh nghiệm của giáo viên, làm sao hướng
các em vào nhiệm vụ cần làm nhưng không phải là làm thay công việc của học
sinh.
Ví dụ: giáo viên giao bài tập sau cho lớp:
1. Có ý kiến cho rằng: cách mạng tháng Tám
thành công là một sự “ăn may”, diễn ra trong điều kiện “trống vắng quyền lực”.
Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao? Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể hãy
làm rõ vấn đề trên.
Để học sinh có thể giải quyết vấn đề này,
giáo viên cần gợi ý một số nhiệm vụ chính mà các em thực hiện trong quá trình giải bài tập:
+ Các em có đồng ý với ý kiến trên không?
+ Nếu không đồng ý thì giải thích vì sao.
+ Lấy dẫn chứng (là những sự kiện lịch
sử đã học) để làm rõ quan điểm của mình về vấn đề được nêu.
+ Bằng sự lập luận có khoa học để phủ
định ý kiến trên.
Như vậy với sự gợi ý của giáo viên sẽ
giúp các em có cơ sở để giải quyết vấn đề đã đưa ra đúng theo những yêu cầu của
bài tập.
2.2.1.5. Giao bài tập cho một học sinh đọc và tập thể
lớp cùng làm
Hình
thức này chỉ được tiến hành khi không thể thực hiện được các biện pháp đã nêu
vì những lí do khác nhau mà không sử dụng các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ quá
trình dạy học. Tuy nhiên biện pháp này có hạn chế vì mất thời gian làm bài của
học sinh và độ chính xác không cao khi chép lại bài tập. Để khắc phục những hạn
chế đó, người giáo viên khi thiết kế bài tập phải ngắn gọn dễ hiểu giúp học
sinh có thời gian làm bài và nghe chính xác yêu cầu của bài tập.
2.2.1.6. Sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học
sinh giải bài tập
Là
hình thức được sử dụng đối với
loại bài tập nhận thức, có độ khó tương đối. Giúp học sinh giải loại bài tập
này đòi hỏi giáo viên phải sử dụng một hệ thống các câu hỏi gợi mở để gợi ý,
dẫn dắt các em giải quyết vấn đề được nêu. Khi thực hiện biện pháp này, giáo
viên cần lưu ý, chỉ gợi ý bằng cách cho các em trả lời những câu hỏi đặt ra qua
đó thấy được nhiệm vụ mà mình cần làm và tiến hành giải bài tập, giáo viên
không được làm thay nhiệm vụ của học sinh.
Ví dụ: giáo viên
giao bài tập sau cho học sinh:
Chiến thắng Phước
Long (6 – 1 – 1975) là một “hiện tượng mới” trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước của quân và dân miền
Để giúp học sinh
giải bài tập này, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở sau:
+ Kết quả đạt
được trong chiến dịch đánh Đường 14 - Phước Long?
+ Phản ứng của Mĩ
sau chiến thắng này của nhân dân ta?
+ Phản ứng này có
khác gì với phản ứng của chúng trước đây?
+ Phản ứng của
chính quyền Sài Gòn?
+ Phản ứng đó
mang lại kết quả như thế nào?
+ Qua phản ứng
của Mĩ và chính quyền Sài Gòn nói lên điều gì?
+ Căn cứ vào cơ
sở nào để chúng ta đưa ra quyết định giải phóng hoàn toàn miền
Với hệ thống câu
hỏi gợi mở như vậy sẽ giúp học sinh sáng tỏ vấn đề và tự mình giải bài tập.Vấn
đề đặt ra ở đây là: tại sao gọi chiến thắng Phước Long là một hiện tượng mới,
so với các chiến thắng trước đây mà quân và dân miền
2.2.1.7. Giáo viên giải bài tập để làm mẫu cho học
sinh
Trong thực tiễn
dạy học, chúng ta biết rằng không phải bài tập nào học sinh cũng làm được và
cũng như vậy không phải tất các em đều làm tốt. Chính vì vậy giáo viên cần phải
rèn luyện khả năng giải bài tập cho tất cả các em như vậy học sinh mới có cơ sở
để làm những bài tập khác. Hình thức này được giáo viên sử dụng đối với loại
bài tập khó, học sinh còn lúng túng khi tìm biện pháp giải vì vậy giáo viên cần
thiết phải tiến hành giải để học sinh quan sát, ghi nhớ.
Ví dụ: giáo viên tiến hành giải bài tập sau cho học
sinh:
1. Hãy trình bày
quá trình vận động tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
2. Phân tích nghệ
thuật nắm bắt và chớp thời cơ của Đảng ta trong cách mạng tháng 8 – 1945.
Đối với bài tập
1, giáo viên cần làm rõ một số nội dung
như:
+ Quá trình vận
động tiến tới thành lập Đảng được bắt đầu bằng những hoạt động yêu nước đầu thế
kỉ XX, cho đến khi Đảng Cộng sản Việt
+
Đó là một quá trình đấu tranh của nhiều khuynh hướng cách mạng, của nhiều tầng
lớp, giai cấp trong xã hội và cuối cùng là sự chọn lựa của lịch sử dân tộc đi
theo con đường cách mạng vô sản.
+ Là kết quả của
sự kết hợp tất yếu giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước…
Đối với bài tập
2, cần làm rõ một số nội dung chính như:
+ Thời cơ trong
cách mạng tháng Tám được hình thành như thế nào?
+ Đảng đã chuẩn
bị và nắm bắt được thời cơ từ lúc nào?
+ Việc chớp thời
cơ được thực hiện trong hoàn cảnh nào?
+ Vì sao quá
trình đó là một nghệ thuật trong cách mạng?
Làm rõ những nội
dung trên sẽ giúp cho học sinh có được phương pháp cụ thể khi tiến hành giải
bài tập, qua đó hình thành kĩ năng giải bài tập cho các em.
2.2.2. Thứ hai: Sử dụng bài tập bằng hoạt động độc lập
của học sinh
Trường hợp này ít
được sử dụng hơn so với việc có sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Tuy nhiên
để đáp ứng mục tiêu dạy học lịch sử và đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông hiện nay, chúng ta cần tăng cường hình thức này để rèn luyện khả năng tự
làm việc của học sinh. Đây là hình thức đòi hỏi hoạt động độc lập của học sinh,
giáo viên chỉ làm nhiệm vụ “quan sát viên” cùng tham gia vào quá trình giải bài
tập. Đối với trường hợp này chúng ta có các hình thức sử dụng như sau:
2.2.2.1. Giải bài tập do học sinh tự đưa ra
Đây là biện pháp
sử dụng xuất hiện từ thực tiễn của quá trình dạy học, khi một số em đem bài tập
mà mình tìm hiểu lên lớp hỏi thầy, cô và bạn bè. Qua việc làm này chúng ta có
thể cho các em chuẩn bị bài tập trước, sau đó tiến hành giải tại lớp và coi đây
là một biện pháp sử dụng bài tập có hiệu quả, cần phải nhân rộng. Hình thức này
tạo ra sự chủ động của học sinh cả từ khâu chuẩn bị cho đến quá trình giải bài
tập tại lớp, điều này sẽ tạo cho các em tâm lí là “nhân vật chính” trong suốt
quá trình thực hiện. Giáo viên có nhiệm vụ “quan sát viên”, có thể lựa chọn bài
tập để các em tiến hành giải và khi kết thúc sẽ nhận xét kết quả mà học sinh
đạt được, qua đó củng cố kiến thức sâu sắc hơn. Có thể thấy rằng đây là hình
thức sử dụng mới nhưng chúng ta cần quan tâm nghiên cứu vì nó đem lại hiệu quả
rất khả quan, vừa tạo sự tích cực chủ động của học sinh, rèn luyện khả năng tự
làm việc, tạo hứng thú học tập cho các em. Qua những giờ giải bài tập như vậy
sẽ giúp các em làm quen và tự tin hơn với việc thi cử.
2.2.2.2. Giao bài tập cho học sinh làm ở nhà
Hình thức này
được thực hiện đối với tất cả các loại bài học trong đó có bài ôn tập, sơ kết,
tổng kết. Sau khi hoàn thành bài học trên lớp hoặc trước khi tiến hành dạy bài
mới chúng ta có thể giao bài tập để học sinh làm ở nhà. Giao bài tập ở nhà sẽ
rèn luyện khả năng làm việc độc lập cho học sinh, các em tự xử lí tài liệu, lập
luận để giải quyết yêu cầu của bài tập và trình bày thành bài viết hoàn chỉnh.
Chính quá trình đó sẽ rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và thực hành bộ môn cho các em,
đồng thời cũng giúp các em tự củng cố, ôn tập kiến thức đã học, liên hệ với
thực tế trong cuộc sống.
Ví dụ: chúng ta
có thể giao bài tập sau cho học sinh làm ở nhà:
1. Vẽ lược đồ
chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, thơ ca viết về
chiến thắng lịch sử này.
2. Tìm hiểu và
trình bày hoàn cảnh, diễn biến của phong trào khởi nghĩa tại địa phương em
trong cách mạng tháng Tám (1945). Hãy nhận xét về hình thức tiến hành khởi
nghĩa của địa phương mình. Hình thức đó có gì giống và khác với các tỉnh khác
trong cả nước.
Từ những biện
pháp cụ thể trên đây, chúng ta có thể xây dựng một quy trình tiến hành dạy học
bài ôn tập, sơ kết, tổng kết có sử dụng bài tập ở trường THPT:
•Một là: Nêu mục
tiêu bài học.
Ví dụ: mục tiêu
bài 11: Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 được xác
định như sau:
+ Củng
cố những kiến thức đã học về lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm
2000.
+ Nhận
rõ mốc phân kì hai giai đoạn trong lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến
năm 2000 và nắm được nội dung chủ yếu trong mỗi giai đoạn.
+ Rèn
luyện và vận dụng phương pháp tư duy phân tích, tổng hợp khái quát các sự kiện,
các vấn đề quan trọng diễn ra trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa thực tiễn
đối với học sinh lớp 12, bởi vì các em bước vào đời khi đất nước đang trong
giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
+ Nhận
thức được: mặc dù có những khác nhau về nội dung, tính chất nhưng ở cả hai giai
đoạn của lịch sử thế giới hiện đại đều nổi bật và bao trùm là tính chất gay gắt
đối với các quốc gia, dân tộc trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu: hòa bình
ổn định, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hợp tác phát triển.
+ Thấy
rõ nước ta là một bộ phận của thế giới và ngày càng có quan hệ mật thiết với
khu vực và thế giới, nhất là sau Chiến tranh lạnh, khi nước ta ngày càng hội
nhập thế giới, tham gia vào các tổ chức thế giới và khu vực.
•Hai là: Nêu bài
tập, hướng dẫn học sinh hiểu bài tập.
•Ba là: Tổ chức,
dẫn dắt, gợi ý để học sinh hiểu yêu cầu, nhiệm vụ của bài tập.
•Bốn là: Sử dụng
hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu của bài tập.
•Năm là: Tổ chức
cho học sinh giải bài tập với nhiều hình thức khác nhau: làm việc cá nhân, nhóm
hay tập thể…
•Sáu là: Tổ chức
cho các em giải bài tập do mình đưa ra.
•Bảy là: Giáo
viên giải bài tập cho học sinh theo dõi, ghi nhớ.
•Tám là: Nhận xét
đánh giá kết quả đạt được của học sinh trong giờ học.
•Chín là: Tổng
kết bài học, giao bài tập về nhà cho học sinh.
Từ quy trình tiến
hành sử dụng bài tập như đã nêu, chúng ta thấy rằng quá trình đó tạo thành một
chu kì vận động giúp cho học sinh tự củng cố kiến thức, tự rèn luyện kĩ năng
thực hành. Trong chu kì vận động đó, giáo viên có khi là “nhân vật chính” tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh, cũng có lúc chỉ là “quan sát viên”
nhường lại vị trí trung tâm cho học sinh, để các em tự tổ chức hoạt động học
tập của mình.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Khi áp dụng những giải pháp của đề tài vào thực tiễn dạy
học các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết lịch sử lớp 12 trường THPT (Chương trình
chuẩn), chúng tôi đã đạt được những kết quả sau:
- Về mặt nhận
thức, bài tập có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành tri
thức, góp phần vào nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách, gây hứng
thú học tập và phát triển tư duy cho học sinh. Khi làm bài tập trong các
tiết ôn tập, sơ kết, tổng kết giúp học sinh củng cố, hệ thống, khái
quát lại kiến thức đã học về một giai đoạn, một thời kì lịch sử.
-
Về mặt giáo dưỡng, bài tập giúp các em nắm kiến thức sâu sắc, bền
vững hơn. Thật vậy, khi làm bài tập, học sinh phải đi từ việc nghiên
cứu đề bài, tìm ra cách giải, để làm được điều đó học sinh phải
trải qua một quá trình hoạt động tư duy: ghi nhớ, phân tích, phán
đoán, tổng hợp...
Quá
trình hoạt động trí tuệ không phải bắt đầu từ cái chưa có mà phải
dựa vào những kinh nghiệm thực tiễn, những kiến thức mà học sinh đã
tiếp thu từ trước. Các em phải nhớ, hiểu vận dụng tốt kiến thức và
kinh nghiệm của mình mới làm bài tập được. Ngược lại việc làm bài
tập cho phép các em hiểu kiến thức sâu sắc hơn, nhớ và vận dụng tốt
hơn những điều đã học.
Đối
với bộ môn Lịch sử, do đặc trưng riêng nên khi dạy giáo viên phải giúp
cho học sinh nhớ được các sự kiện, không gian, thời gian, nhân vật
lịch sử, khái niệm, quy luật, bài học lịch sử. Để làm được điều
đó, trong quá trình giảng dạy giáo viên ngoài cung cấp cho học sinh
kiến thức cơ bản để khôi phục lại quá khứ đúng như nó tồn tại và
có những hiểu biết chân thực về quá khứ còn cần phải sử dụng các
loại bài tập lịch sử. Đa-ni-lốp đã khẳng định: “kiến thức sẽ được nắm vững thực sự nếu học sinh có thể vận
dụng một cách thành thạo chúng vào việc hoàn thành những bài tập
lý thuyết và bài tập thực hành”[7, tr28].
Thực
tế hiện nay còn khá nhiều tình trạng học sinh nhầm lẫn sự kiện,
địa danh, thời gian, nhân vật giữa lịch sử thế giới và lịch sử dân
tộc... Vì vậy nếu sử dụng tốt các loại bài tập trong dạy học các
bài ôn tập sẽ khắc phục được tình trạng này.
Thông
qua các loại bài tập ở lớp và bài tập về nhà, học sinh bắt buộc
phải đọc lại bài, nhớ lại lời giảng trên lớp, qua đó củng cố, tổng
hợp kiến thức cũng như tự rèn luyện được kĩ năng thực hành bộ môn.
Qua sự phân tích sâu sắc sự kiện như vậy giúp học sinh nắm được bản
chất sự kiện, từ đó có quan niệm, cách nhìn nhận, đánh giá các
vấn đề lịch sử đúng đắn, khoa học hơn, góp phần nâng cao hiểu biết
của học sinh.
-
Về mặt giáo dục, Thái Duy Tuyên cho rằng: bài tập là một phương tiện
giáo dục tốt. Để rèn luyện phẩm chất, nhân cách cho học sinh, thầy
giáo phải sử dụng nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau, trong
đó có bài tập có thể xem là phương tiện có hiệu quả và thường dùng
nhất. Thế mạnh của bài tập là ở chỗ rèn luyện ý chí và niềm tin
vào khoa học, vào sức mạnh của bản thân. Niềm tin này có được là
nhờ trong quá trình độc lập vận dụng kiến thức đã giúp cho các em
giải quyết đúng đắn các vấn đề đặt ra. Lúc này kiến thức trở
thành của riêng các em, các em thấy mình lớn mạnh hơn trong việc giải
quyết các vấn đề tự nhiên và xã hội.
Làm
bài tập có tác dụng rèn luyện ý chí và tính kiên cường vượt khó,
làm cho chúng trở thành thói quen trong hoạt động hằng ngày của bản
thân học sinh.
Bộ
môn Lịch sử có ưu thế cung cấp các mặt khác nhau của đời sống xã
hội... qua đó có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức,
hành vi rất lớn đối với học sinh. Để phát huy ưu thế đó thì việc
giao bài tập cho học sinh làm cũng là một cách có hiệu quả.
-
Bài tập lịch sử còn có ý nghĩa về mặt phát triển, chức năng giáo
dưỡng và giáo dục của bộ môn Lịch sử góp phần vào việc phát triển
học sinh, chủ yếu là hình thành ở học sinh năng lực tư duy và năng
lực hành động. Tư duy lịch sử là hoạt động trí tuệ của học sinh
nhằm nhận thức đúng quá khứ, hiểu rõ hiện tại và dự đoán sự phát
triển hợp quy luật của tương lai. Tư duy lịch sử thể hiện rõ nhất,
tập trung nhất ở việc vận dụng kiến thức đã học một cách thông
minh, tích cực và sáng tạo.
Bài
tập lịch sử không chỉ phát triển về mặt tư duy mà còn hình thành
cả năng lực hành động. Thông qua các bài tập vẽ bản đồ, lập niên
biểu,... các em sẽ có những biểu tượng lịch sử sinh động và chân
thực, phát triển ở các em óc sáng tạo, đồng thời việc học đi đôi
với hành cũng nhằm đáp ứng yêu cầu và con đường biện chứng của sự
nhận thức: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy
trừu tượng quay trở về thực tiễn.
- Chúng tôi tiến hành soạn giáo án thực nghiệm thể hiện mục đích, nội
dung, phương pháp giảng dạy theo những kết luận của đề tài, giảng dạy ở lớp
thực nghiệm. Ở lớp đối chứng, tôi soạn giảng theo giáo án bình thường. Đồng
thời, tôi tiến hành nghiên cứu các nhân tố tác động đến quá trình thực nghiệm
(sau khi đã chọn đối tượng thực nghiệm), tìm cách xử lý và khống chế nhằm cân
bằng các điều kiện chủ quan và khách quan, tạo ra sự tương đương giữa lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng.
Khi tiến hành giảng dạy ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, các giáo viên
bộ môn đều tham gia dự giờ để quan sát tiến trình bài học và không khí lớp học.
Kết thúc tiết học, trước hết tôi tiến hành trao đổi với giáo viên dự giờ
để xin ý kiến của họ về nội dung, phương pháp, không khí của giờ học và khả
năng lĩnh hội kiến thức của học sinh. Đồng thời, tôi cũng trao đổi với học sinh
để nắm bắt ý kiến của các em về bài học, những thay đổi trong nội dung, phương
pháp giảng dạy ở lớp thực nghiệm. Kết hợp, tôi kiểm tra kết quả lĩnh hội kiến
thức của học sinh ở cả lớp đối chứng và thực nghiệm để làm cơ sở đánh giá mức
độ kiến thức, kĩ năng mà các em đạt được sau bài học.
Đối với ý kiến của giáo viên và học sinh, đa số các ý kiến đều nhận xét
về bài học theo giáo án mới đã tạo ra một không khí học tập khác hẳn. Cả giáo
viên và học sinh đều xác định được nhiệm vụ nhận thức của bài học, nội dung và
phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đảm bảo mục
tiêu bài học. Việc kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy trên cơ sở phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đã tạo điều kiện cho các em
củng cố, hệ thống và nắm vững những kiến thức đã học. Không khí lớp học sôi
nổi, học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên đưa ra.
Tuy nhiên, một số ý kiến băn khoăn về khả năng áp dụng phổ biến những tiết dạy
như vậy, bởi điều kiện cơ sở vật chất, tài liệu, đồ dùng dạy học còn thiếu,
trình độ học sinh nhiều lớp thấp, không đồng đều...
Về kết quả kiểm tra kiến thức, chúng tôi đã tiến hành chấm bài kiểm tra
theo thang điểm 10 và tiến hành xử lý kết quả thu được theo phương pháp thống
kê toán học để kiểm định tính phù hợp và hiệu quả của phương pháp mới và sự
khác biệt giữa kết quả của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Điểm Số HS đạt điểm |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
N |
Lớp thực nghiệm (x) |
0 |
7 |
5 |
6 |
23 |
48 |
57 |
47 |
21 |
11 |
225 |
Lớp đối chứng (y) |
0 |
16 |
19 |
26 |
64 |
33 |
31 |
26 |
7 |
3 |
225 |
Kết quả của bảng thống kê cho
ta thấy rõ, ở các lớp thực nghiệm tỉ lệ học sinh đạt điểm từ 1 đến 5 điểm giảm
xuống rõ dệt (18,2% so với 55,5%), tỉ lệ học sinh đạt điểm từ 6 – 10 điểm tăng
lên đáng kể (81,7% so với 44,5%) so với các lớp đối chứng, chứng tỏ học sinh
nắm vững kiến thức cơ bản của các giai đoạn, thời kì lịch sử đã học.
Từ kết quả thu được qua việc tiến hành thực nghiệm
sư phạm, cho phép khẳng định việc sử dụng bài tập để dạy các bài ôn tập, sơ
kết, tổng kết lịch sử lớp 12 trường THPT là phù hợp và có tính khả thi.
IV. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn cho thấy: Bài tập
là một phương tiện quan trọng trong giảng dạy nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học bộ môn. Đặc biệt là việc sử dụng bài tập trong dạy học các bài ôn tập,
sơ kết, tổng kết sẽ đem lại hiệu quả “kép”, nghĩa là vừa phát huy ưu thế của
bài tập đồng thời nâng cao hiệu quả của loại bài này. Từ đó có thể nhận thấy
rằng, sử dụng bài tập xuất phát từ chính yêu cầu, mục đích của bản thân bài ôn
tập, sơ kết, tổng kết.
Từ kết quả trên cho phép chúng tôi kết luận rằng, trong dạy học
bài ôn tập, sơ kết, tổng kết cần thiết phải sử dụng bài tập. Vì bài tập là
phương tiện để củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và thực hành bộ môn
cho học sinh.
Qua xây dựng và sưu tầm, chúng tôi đã thành lập được một hệ
thống bài tập phục vụ cho việc giảng dạy các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết môn
lịch sử lớp 12, đây là các dạng bài tập có ý nghĩa khi sử dụng để giảng dạy
loại bài học này.
Đã xây dựng được một số nguyên tắc và biện pháp sư phạm chủ yếu
để sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết, đặc biệt là hình
thức giải bài tập do học sinh đưa ra. Đây là biện pháp sử dụng mới trong thực
tế nhưng đem lại hiệu quả thiết thực cho người sử dụng bởi vì vừa phát huy được
tính cực độc lập, tạo hứng thú học tập vừa rèn luyện khả năng tự làm việc của
học sinh, giúp các em có tâm lí thoải mái, tự tin hơn trong giờ học.
Đã xây dựng được một quy trình sử dụng bài tập trong dạy học bài
ôn tập, sơ kết, tổng kết, bao gồm một số bước cơ bản như đã trình bày ở trên.
Kết quả thực nghiệm sư phạm bước đầu đã khẳng định được giá trị
của việc sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết. Các biện
pháp sư phạm cụ thể đã giúp học sinh khái quát hóa, củng cố kiến thức một cách
toàn diện hơn, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành bộ môn cho các em trong
quá trình học tập. Do vậy, việc sử dụng
bài tập trong dạy học các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết lịch sử có thể áp dụng
trong phạm vi trường THPT Sông Ray cũng như tất cả các trường THPT trên toàn
quốc.
Từ những kết quả trên đây, chúng tôi có một số khuyến nghị như
sau:
1. Để sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng
kết, trước hết cần bồi dưỡng cho giáo viên về mặt lí luận vai trò của lọai bài
học này và sự cần thiết phải sử dụng bài tập trong quá trình dạy học.
2. Các đơn vị, tổ chức quả lí, tổ bộ
môn cần tăng cường công tác kiểm tra giáo án của giáo viên trước khi lên lớp,
động viên khuyến khích việc đổi mới phương pháp dạy học trong đó có vấn đề sử
dụng bài tập.
3. Cần tăng cường số lượng, thời lượng
của các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Bởi
vì loại bài học này có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong dạy học lịch sử,
tuy nhiên trong thực tế số lượng và thời lượng của bài học này chiếm một tỉ lệ
rất nhỏ (đối với chương trình chuẩn, bộ môn Lịch sử ở trường THPT chỉ có 7 bài
ôn tâp, sơ kết, tổng kết với thời lượng là 9 tiết).
4. Để sử dụng bài tập một cách có hiệu
quả đòi hỏi giáo viên phải thực sự đầu tư, giành thời gian công sức biên soạn,
sắp xếp và tổ chức thực hiện một cách linh hoạt. Chúng ta biết rằng hình thức
tổ chức, phương pháp, biện pháp và hướng dẫn học sinh làm bài tập là yếu tố cơ
bản quyết định thành công của việc sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ
kết, tổng kết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả bài học lịch sử.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Bài tập Lịch sử
12, Nguyễn Sĩ Quế, Nguyễn Mai Anh, Vũ Thị Ánh Tuyết, NXB Giáo dục, Hà Nội
(2008).
2.
“Bài tập lịch sử và sử dụng bài tập trong dạy học lịch
sử ở trường Trung học cơ sở”, Nguyễn Văn Đằng, Tạp chí Giáo dục số (5) - (2001),
tr. 33-34.
3.
Hệ thống bài tập
nhận thức trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông, Trần Vĩnh
Tường (chủ biên), Đặng Văn Hồ, Nguyễn Thị Ty,
4.
“Hướng dẫn học sinh làm bài tập lịch sử”, Nguyễn Thị
Côi, Phạm Thị Kim Anh, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số (6) - (1994), tr.13,14
5.
Lịch sử 12, Phan
Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Vũ Dương Ninh, Trần Bá Đệ (chủ biên), NXB Giáo dục,
Hà Nội (2007).
6.
Lịch sử 12,
(Sách giáo viên), Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Vũ Dương Ninh, Trần Bá Đệ
(chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội (2007).
7.
Lý luận dạy học ở
trường phổ thông, M.A. Đanilốp, M. N.Xcackin (chủ biên), NXB Giáo dục Hà
Nội (1978).
8.
Luật Giáo dục,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia (2005),
tr.28, 30.
9.
Phát huy tính
tích cực học tập của học sinh như thế nào (Tập II), (Bản dịch) I.F. Kháclamốp, NXB Giáo dục, Hà Nội (1979).
10.
Phương pháp dạy
học lịch sử (Tập 1), Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội (2002).
11.
Phương pháp dạy
học lịch sử (tập 2), Phan Ngọc
Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội (2002).
12.
Phương pháp dạy
học lịch sử, Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị, NXB Giáo dục, Hà Nội (1998).
13.
“Tổ chức hoạt
động ôn tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT”, Hoàng Thanh Tú, Tạp chí Dạy
và học ngày nay số (2) - (2007).
14.
Thiết kế và sử
dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, Trần Quốc
Tuấn, NXB Đại học Quy Nhơn - (2003).
15. “Về việc giảng dạy các bài ôn tập tổng kết trong chương trình lịch sử ở trường THPT”,Trịnh Đình Tùng, Hoàng Thanh Tú, Tạp chí Giáo dục số (131) - (2006), tr.33,35.
Nguồn: ST