Bài soạn 25 câu hỏi + đáp án môn giáo dục quốc phòng an ninh
Câu 1: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh:
·
Trên cơ
sở lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản
chất, qui luật của chiến tranh, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội.
- Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc
chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược.
Ngược lại cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc
chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nước.
·
Xác định
tính chất xã hội của chiến tranh, phân tích tính chất chính trị - xã hội của
chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa đế quốc, chỉ
ra tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc.
- Hồ Chí Minh đã xác định tính
chất xã hội của chiến tranh: chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh
chống xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ
chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
- Kế thừa và phát triển tư tưởng
của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt
- Bạo lực cách mạng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng cả lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang.
·
Hồ Chí
Minh khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là
chiến tranh nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng. Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong
chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn
của sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”.
- Chiến tranh nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ
trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh
giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến toàn diện,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận:
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá…
=> Sự khái quát trên đã phản
ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt
Câu 2:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội:
·
Khẳng
định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật trong
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam.
- Sự ra đời của quân đội xuất
phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù dùng bạo lực phản cách
mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp chúng ta phải tổ chức bạo lực cách mạng để chồng lại bạo lực phản cách
mạng. Để thực hiện được mục tiêu đó Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng: quân đội nhân dân.
·
Quân đội
nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bản chất giai cấp
công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân
dân chống thực dân, đế quốc xâm lược.
- Trong bài nói chuyện tại buổi
chiêu đãi mừng quân đội ta tròn 20 tuổi ngày 22-12-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai
cấp, nhà nước. Hồ Chí Minh đã khái quát: “quân đội ta trung với Đảng, hiếu với
dân, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng”.
·
Khẳng
định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
- Đây là một trong những cống
hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lí luận về quân đội.
- Người lập luận, bản chất giai
cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, xem nó
như là biểu hiện tính qui luật của quá trình hình thành, phát triển quân đội
kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Người viết: “Quân đội ta là quân đội
nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc
lập, thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi
ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác”
·
Đảng
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc xây
dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản.
- Bắt nguồn từ nguyên lí của chủ
nghĩa Mác – Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến công cụ này để nó
thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành
chiến tranh.
- Đảng Cộng sảnViệt Nam là nhân
tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân
đội ta. Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc
biệt đối với quân đội. Điiêù này được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo:
tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ
công tác Đảng, công tác chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: quân đội ta
có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta
lãnh đạo và giáo dục.
·
Nhiệm vụ
và chức năng cơ bản của quân đội:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “hiện nay quân đội ta có 2 nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng một quân đội
ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động
sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đây là vấn đề khác về chất so với
quân đội của giai cấp bóc lột.
- Quân đội ta có ba chức năng: là
đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng
này phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội
+ Với tư cách là đội quân chiến
đấu: quân đội ta sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia voà cuộc
tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tư tưởng, văn hoá
+ Là đội quân sản xuất: quân đội
tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát
triển đất nước, trong điều kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng cốt và
xung kích trong xây dựng kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là
ở biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những
địa bàn có những tình huống phức tạp nảy sinh.
+ Là đội quân công tác: quân đội
tham gia vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững
mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết giưũa Đảng với nhân dân, quân đội với
nhân dân, giúp dân chống thiên tai, giải quyết những khó khăn trong sản xuất và
đời sống, tuyên truyền và vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đường
lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Câu 3:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN
của Lênin vào tình hình thức tiễn của cách mạng Việt
·
Bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN là một tất yếu khách quan.
- Tính tất yếu khách quan của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được thể hiện rõ qua lời dạy của Người:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữu lấy nước”.
- Ý chí quyết tâm giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh.
- Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đứng lên đánh quân Pháp với tinh
thần: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ…Giờ cứu nước đã đến, ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để gìn gĩư đất
nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một long kiên qutết hi sinh,
thắng lợi nhất định về dân tộc ta”.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
xâm lược, Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Hễ còn
mộy tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”.
Trước khi đi xa trong bản di chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều
người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn
toàn”.
·
Mục tiêu
bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ và trách
nhiệm của mọi công dân
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong bản tuyên
ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn dân tộc Việt Nam quyết đem tất cảtinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lượ nước ta, Người kêu gọi: “Hễ là ngườ Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc”.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước, Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu đên thăng lợi hoàn
toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả
nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
·
Sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với sức
mạnh thời đại
- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất
quán quan điểm; Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa đó là sức mạnh của toàn dân tộc, của các cấp, các nghành từ trung
ương đến cơ sở, là sức mạnh của nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá-
xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.
- So sánh sức mạnh giữa ta với
quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Người phân tích: “Chúng ta có
chính nghĩa, cáo sức mạnh doàn kết toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu
tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rất lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa an hem và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng”. Để
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và
củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân,
coi đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: “Chúng ta phải
xây dựng quân đội ngày càng hung mạnh, sẵn sang chiến đấu để giữ gìn hoà bình,
bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
·
Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
- Đảng ta là người lãnh đạo và tổ
chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và chính phủ
phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội
chủ nghĩa, đồng thời đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc klập và
dân chủ bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á Đông
và trên thế giới”
- Người khẳng định: “Với sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng và chính phủ, với sự đoàn kết nhất trí, long tin tưởng
vững chắc và tinh thần tự lực cánh sinh
của mình, sự giúp đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á- Phi, nhân dân ta
nhất định khắc pụuc được mọi khó khăn, làm tròn được nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng
và chính phủdã đề ra”
- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xả hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chiến lược
sau:
+ Một là: Xây dựng tiềm lực toàn
diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và lực cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
+ Hai là: Xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng quân đội nhân dân và công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
+ Ba là: Quán triệt tư tưởng cách
mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi hoàn cảnh, tình huống chiến
tranh.
+ Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ
quốc.
Câu 4: Khái niệm Quốc
phòng toàn dân:
- Quốc phòng toàn dân:Là nền quốc phòng mang tính chất “vì
dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự
chủ, tự lưc, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững
hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo
loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
nam xã hội chủ nghĩa.
- “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước
được xây dựng trên nền tảng nhân lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn
diện độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.”
Câu 5:
Khái niệm An ninh nhân dân:
+ Là sự nghiệp của toàn dân, do
nhân dân tiến hành, lực lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan
mọi âm mưu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội,
cùng vói toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Viêt nam xã hội chủ nghĩa.”
+ Bộ phận của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt nam có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.
An ninh quốc gia có nhiêm vụ : đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân”.
- Nền an ninh là sức mạnh về tinh
thần,vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc
được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên
trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt.
Câu 6:
Vị trí, đặc trưng của nền Quốc phòng toàn dân, An ninh nhân dân:
·
Vị trí:
- Xây dựng nền quốc phòng, an
ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa đẩy lùi đánh bại mọi âm
mưu hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng an ninh, coi đó là nhiệm vụ
chiến lược gắn bó chặt chẽ”.
·
Đặc trưng:
- Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất
là tự vệ chính đáng.
+ Đặc trưng thể hiện sự khác nhau
về bản chất trong xây dựng nền quốc phòng an ninh của những quốc gia có độc lập
chủ quyền đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với các nước khác.
+ Chúng ta xây dựng nền quốc
phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
- Đó là nền quốc phòng, an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân
dân tiến hành.
+ Đặc trưng vì dân, của dân, do
dân của nền quốc phòng, an ninh nước ta là thể hiện truyền thống, kinh nghiệm
của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
+ Cho phép ta huy động mọi người,
mọi tổ chức, mọi lực lượng để thực hiện xây dựng nền quốc phòng, an ninh luôn
xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân, là đặc trưng trong
đường lối của Đảng, pháp luật của nhà
nước.
- Đó là nền quốc phòng, an ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố
tạo thành.
+ Sức mạnh tổng hợp của nền quốc
phòng, an ninh nước ta tạo thành bởi rất nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế,
văn hoá, tư tưởng, khoa học, quân sự, an ninh…cả ở trong nước, ngoài nước, của
dân tộc và thơì đại, trong đó những yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định.
+ Là cơ sở, tiền đề và là biện
pháp để nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
-
Nền quốc phòng, an ninh nhân
dân được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại.
+ Việc tạo ra sức mạnh quốc
phòng, an ninh không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải huy động được sức
mạnh của toàn dân về mọi mặt chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá,
khoa học.
+ Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc
phòng, an ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa
quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoạị.
+ Xây dựng nền quốc phòng, an
ninh toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại là một
tất yếu khách quan.
+ Xây dưng quân đội nhân dân,
công an nhân dân từng bước hiện đại. Kết hợp giữa xây dựng con người có giác
ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí trang bị kỹ thuật hiên đại.
+ Phát triển công nghiệp quốc
phòng, từng bước trang bị hiện đại cho các lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
- Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với an ninh nhân dân
+ Nền quốc phòng và nền an ninh
nhân dân của chúng ta đều được xây dựng nhằm mục đích tự vệ, đều phải chống thù
trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ quốc Việt
+ Giữa nền quốc phòng toàn dân
với nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phương thức tổ chức lực lượng, hoạt
động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công mà thôi.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa quốc
phòng và an ninh, phải thường xuyên và tiến hành đồng bộ, thống nhất từ trong
chiến lược, qui hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả nước cũng như từng
vùng, miền, địa phương, mọi ngành, mọi cấp.
Câu 7:Mục
đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân:
- Tạo sức mạnh tổng hợp cả về
chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ để
giữ vững hoà bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.
- Tạo thế chủ động cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm bảo vệ vững xã hội chủ nghĩa chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại
hoá đât nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an
ninh kinh, an ninh tư tưởng văn hoá, xã hội; giữ vững ổn định chính trị, môi
trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng.
Câu 8:Nhiệm
vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân:
·
Xây dựng
lực lượng, quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Lực lượng quốc phòng, an ninh
là những con người, tổ chức và những cơ sở vật chất tài chính đảm bảo cho các
lực lượng hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh. Từ đặc trưng của
nền quốc phòng, an ninh ở nước ta thì lực lượng quốc phòng, an ninh của nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bao gồm lực lượng toàn dân (lực lượng chính trị) và lực lượng
vũ trang nhân dân.
- Lực lượng chính trị bao gồm:
các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội và những tổ
chức khác trong đời sống xã hội đã được phép thành lập và quần chúng nhân dân.
Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, công an
nhân dân
- Xây dựng lực lượng quốc phòng,
an ninh là xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng
yêu cầu của quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Câu 9:
Trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần xây dựng nền Quốc phòng toàn dân,
An ninh nhân dân:
- Xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn dân.
- Mọi công dân,
mọi tổ chức, lượng đều phải tham gia theo phạm và khả năng của mình.
- Đối với sinh
viên phải tich cực học tập nâng cao hiểu biết về mọi mặt, nắm vững kiến thức
quốc phòng, an ninh,
nhạn thức rõ âm
mưu, hoạt động chóng phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch.
- Trên cơ sở đó
tự giác, tích cực luyện tập các kỹ năng quân sự, an ninh và chủ động tham gia
các hoạt động về quốc phòng, an ninh do nhà trường và địa phương triển khai.
Câu 10:Xây
dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh ngày càng vững mạnh
- Tiềm lực quốc phòng, an ninh là
khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy động thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng tập trung ở tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực
kinh tế tiềm lực khoa động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
- Tiềm lực quốc phòng, an ninh
được thể học, công nghệ; tiềm lực quân sự, an ninh. Xây dựng tiềm lực quốc
phòng, an ninh là tập trung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực
kinh tế, tiềm lực khoa học, công nghệ và xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh.
·
Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần
- Tiềm lực chính trị, tinh thần
của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về chinh trị, tinh
thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh.
- Tiềm lực chinh trị tinh
thần được biểu hiện ở năng lực lãnh đạo
của Đảng, quản lý điều hành của nhà nước; ý chí quyết tâm của nhân dân, của các
lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi, hoàn cảnh, tình huống.
- Tiềm lực chính trị tinh thần là
nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh quốc
phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là cơ sở, nền
tảng của tiềm lực quân sự, an ninh.
- Xây dựng tình yêu quê hương đất
nước, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, đối với chế
độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
- Xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chinh trị, trật tự an toàn
xã hội.Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng, an ninh.
·
Xây dựng tiềm lực kinh tế:
- Tiềm lực kinh tế của nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về kinh tế của đất nước có thể
khai thác, huy động nhằm phục vụ cho quốc phòng, an ninh.Tiềm lực kinh tế của
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được biểu hiện ở nhân lực, vật lực,
tài lực của quốc gia có thể huy động cho quốc phòng, an ninh và tính cơ động
của nền kinh tế đất nước trong mọi điều kiện hoàn cảnh.Tiềm lực kinh tế tạo sức
mạnh vật chất cho nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là cơ sở vật chất
của các tiềm lực khác.
- Xây dựng tiềm lực kinh tế của
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về kinh tế của
đất nước. Do đó, cần tập trung vào: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh
tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; phát triển công nghiệp quốc
phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội và công an. Kết hợp xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cơ
sở hạ tầng quốc phòng; không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho
các lực lượng vũ trang nhân dân. Có kế hoạch chuyển sản xuất từ thời bình sang
thời chiến và duy trì sự phát triển của nền kinh tế.
·
Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ:
- Tiềm lực khoa học công nghệ của
nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân là khả năng về khoa học(khoa học tự
nhiên,khoa học xã hội-nhân văn) và công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy
động để phục vụ cho quốc phòng, an ninh.Tiềm lực khoa học, công nghệ được biểu
hiên ở: Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất
kỹ thuật có thể huy động phục vụ cho quốc phòng, an ninh và năng lực ứng dụng
kết quả nghiên cứu khoa học có thể đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh…
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
- Xây dựng tiềm lực khoa học,
công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về
khoa học, công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động phục vụ cho quốc
phòng, an ninh. Do đó, phải huy động tổng lực các khoa học, công nghệ quốc gia,
trong đó khoa học quân sự, an ninh làm nòng cốt để nghiên cứu các vấn đề khoa
học quân sự, an ninh, về sửa chữa cải tiến sản xuất các loại vũ khí trang bị.
Đồng thời phải thực hiện tốt các công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu
quả đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật.
·
Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh:
- Tiềm lực quân sự, an ninh của nền quốc phòng toàn dân ,an ninh
nhân dân là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động tạo thành sức
mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh cho chiến tranh.
- Tiềm lực quân sự, an ninh được
biểu hiện ở khả năng duy trì và khônng ngừng phát triển trình độ sẵn sàng chiến
đấu, năng lực và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân; nguồn
dự trữ về sức người, sức của trên các lĩnh vực đời sống xã hội và nhân dân có
thể huy động phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh cho chiến tranh. Tiềm lực
quân sự, an ninh là nhân tố cơ bản, là biểu hiện tập trung, trực tiếp sức mạnh
quân sự, an ninh của nhà nước giữ vai trò nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc trong mọi
tình huống.
- Tiềm lực quân sự, an ninh được
xây dựng trên nền tảng của các tiềm lực chính trị, tinh thần, kinh tế, khoa học
công nghệ. Do đó, xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh, cần tập trung vào:
+ Xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân vững mạnh toàn diện.
+ Gắn quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước với quá trình tăng cường vũ khí trang bị cho các lực
lượng vũ trang nhân dân.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ trong
lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
+ Bố trí lực lượng luôn đáp ứng
yêu cầu chuẩn bị cho đất nước về mọi mặt, sẵn sàng động viên thời chiến.
+ Tăng cường nghiên cứu khoa học
quân sự, nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay
và nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng, an ninh.
Câu 11:Xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc:
- Thế trận quốc phòng, an ninh là
tổ chức bố trí lực lượng, tiềm lực mọi mặt của đất nước và của toàn dân trên
toàn bộ lãnh thổ theo yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân gồm:
+ Phân vùng chiến lược về quốc
phòng, an ninh kết hợp với vùng kinh tế trên cơ sở qui hoạch các vùng dân cư
theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây dựng đất nước
+ Xây dựng hậu phương, tạo chỗ
dựa vững chắc cho thế trận quốc phòng, an ninh.
+ Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố) tạo nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
+ Triển khai các lực lượng trong
thế trận, tổ chức phòng thủ dân sự kết hợp cải tạo địa hình với xây dựng hạ
tầng và các công trình quốc phòng, an ninh.
Câu 12:
Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc:
·
Mục đích:
- Nhằm “Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia trật tự an
toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị vàmôi trường hoà bình, phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
·
Đối tượng:
- Đối tượng tác chiến: Chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực phản động có hành động phá hoại, xâm lược lật đổ cách
mạng, hiện nay chúng thực hiện chiến lược “DBHB” bạo loạn lật đổ để xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và sẵn sàng sử dụng lực lượng vũ trang hành động quân sự
can thiệp khi có thời cơ.
- Âm mưu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ
thù khi xâm lược nước ta.
- Thực hiện đánh nhanh, thắng
nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với hành động bạo loạn lật đổ
từ bên trong, đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để lừa bịp dư
luận.
- Những điểm mạnh, yếu của địch:
+ Mạnh: Có ưu thế tuyệt đối về
sức mạnh quân sự, kinh tế và tiềm lực khoa học công nghệ. Có thể kết cấu được
với lực lượng phản động nội điạ thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào.
+ Yếu: Đây là cuộc chiến tranh
phi nghĩa, chắc chắn bị nhân loại phản đối. Dân tộc ta có truyền thống yêu
nước, chống xâm lược, chắc chắn sẽ làm chúng bị tổn thất nặng nề, đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của địch. Địa hình thời tiết nước ta phức tạp khó khăn cho
địch sử dụng phương tiện lực lượng.
Câu 13:
Tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc:
·
Tính chất:
- Là cuộc chiến tranh nhân dân
toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
- Là cuộc chiến tranh chính
nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng.
- Là cuộc chiến tranh mang tính
hiện đại (hiện đại về vũ khí, trang bị, tri thức và nghệ thuật quân sự).
·
Đặc điểm::
- Trong bối cảnh quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp, chúng ta tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc,
nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, chúng ta có thể tập hợp, động viên và
phát huy cao độ, đông đảo được sức mạnh của toàn dân cả nước, chung sức đánh
giặc.
- Trong cuộc chiên tranh, nhân
dân ta phải bảo vệ được độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Mặt khác, dựa vào sức mình là chính nhưng đồng thời cũng được sự ủng
hộ, giúp đỡ của cả loài người tiến bộ trên thế giới, tạo thành sức mạnh tổng
hợp để đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
- Chiến tranh diễn ra khẩn
trương, quyết liệt, phức tạp ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh.
Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, địch sẽ thực hiện phương châm chiến
lược đánh nhanh, giải quyết nhanh. Quy mô chiến tranh có thể lớn và ác liệt
ngay từ đầu. Kết hợp tiến công hoả lực với tiến công trên bộ, tiến công từ bên
ngoài kết hợp với bạo loạn lật đổ ở bên trong và bao vây phong toả đường không,
đường biển và đường bộ nhằm đạt được mục tiêu chiến lược trong thời gian ngắn.
- Hình thái đất nước được chuẩn
bị sẵn sàng, thế trận quốc phòng, an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững
chắc, có điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp chủ động đánh địch ngay từ
ngày đầu và lâu dài.
Câu 14:
Quan điểm của Đảng ta trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc:
·
Tiến
hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến
của các binh đoàn chủ lực.
- Vị trí: Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt thể hiện tính
nhân dân sâu sắc. Khẳng định, đây là cuộc chiến tranh của nhân dân và vì nhân
dân. Là điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến
tranh.
- Nội dung:
+ Trong điều kiện mới ta vẫn phải
“lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, Đảng ta không chỉ dựa vào lực lượng
vũ trang mà phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân,
toàn dân đánh giặc…
+ Động viên toàn dân đánh giặc,
trong đó lấy Bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc trên chiến trường cả nước. Đánh bằng mọi thứ vũ khí có trong
tay, bằng những cách độc đáo, sáng tạo…
+ Tiến hành chiến tranh toàn dân
đó là truyền thống của ông cha ta, dân tộc ta từ ngàn xưa. Ngày nay, chúng ta
phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với điều
kiện mới, thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng cuộc tiến công xâm lược của
địch.
- Biện pháp thực hiện:
+ Tăng cường giáo dục quốc phòng
cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.
+ Không ngừng chăm lo xây dựng
các lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, đặc biệt là chất lượng chính trị.
+ Không ngừng nghiên cứu nghệ
thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây ở trên thế giới để phát
triển nghệ thuật quân lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu
vực phòng thủ vững chắc…
·
Tiến
hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị,
ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy
thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến
tranh.
- Vị trí: Quan điểm trên có vai trò quan trọng, vừa mang tính
chỉ đạo và hướng dẫn hành động cụ thể để dành thắng lợi trong chiến tranh.
- Nội dung:
+ Chiến tranh là một cuộc thử
thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần của quốc gia nhưng chiến
tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ, cách mạng. Để phát huy
đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của địch
trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và
tư tưởng.
+ Tất cả các mặt trận đấu tranh
phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho đấu tranh
quân sự dành thắng lợi trên chiến trường và cùng với đấu tranh quân sự tạo nên
sức mạnh tổng hợp lớn giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh.
+ Truyền thống và kinh nghiệm của
cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nước trong lịch sử ông cha ta cũng như dưới
sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn
diện, đấu tranh với địch trên nhiều mặt nhưng chủ yếu đã đánh địch và thắng
địch trên mặt trận quân sự, nhờ đó mà nhân dân ta đã giành được thắng lợi,
giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tình hình thế giới ngày nay diễn biến phức
tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất nước đứng trước những thuận lợi mới và
những thách thức mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nỗ lực phấn
đấu làm thất bại âm mưu và các mục tiêu chiến lược của địch, dành thắng lợi
toàn diện cho chiến tranh.
- Biện pháp:
+ Đảng phải có đường lối chiến
lược, sách lược đúng, tạo thế và lực cho từng mặt trận đấu tranh tạo nên sức
mạnh, trước mắt đấu tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của
địch. Động viên sức mạnh của toàn dân tiến hành trên các mặt trận khi kẻ thù
phát động chiến tranh xâm lược
+ Phải vận dụng sáng tạo nhiều
hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt; đồng thời có nghệ
thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh trong từng giai đoạn
cũng như quá trình phát triển của chiến tranh. Song phải luôn quán triệt lấy
đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết
định để kết thúc chiến tranh.
·
Chuẩn bị
mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh được lâu dài, ra sức
thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng sớm
càng tốt.
- Chúng ta phải chuẩn bị mọi mặt
trên cả nước cũng như từng khu vực đủ sức đánh được lâu dài, ra sức tạo thời
cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cần
thiết.
- Trên cơ sở đó, chúng ta dồn sức
để rút ngắn thời gian của chiến tranh, giành thắng lợi càng sớm càng tốt.
- Ta kiên quyết ngăn chặn địch không
cho chúng mở rộng để thu hẹp không gian của chiến tranh.
- Kiên quyết không cho địch thực
hiện được mục đích của chúng là “đánh nhanh, giải quyết nhanh” theo học thuyết
“không - bộ - biển”.
- Mặt khác cũng phải chuẩn bị sẵn
sàng để thắng địch trong điều kiện chiến tranh mở rộng.
·
Kết hợp
kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra sức sản xuất thực
hành tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh.
- Đây là một kinh nghiệm đồng
thời là truyền thống chống giặc ngoại xâm trước kia cũng như cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ.
- Trong chiến tranh ta phải vừa
kháng chiến, vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất, kĩ
thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân.
- Ta phải thực hành tiết kiệm trong
xây dựng và trong chiến tranh, lấy của địch đánh địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực
lượng ta, không ngừng tăng thêm tiềm lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh.
·
Kết hợp
đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn.
- Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh
chiến lược “Diễn biến hòa bình”,bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta.
Nếu chiến tranh xảy ra, địch sẽ
tăng cường đánh phá ta bằng nhiều biện pháp. Vì vậy, đi đôi với đấu tranh quân
sự trên chiến trường, ta phải kịp thời trấn áp mọi âm mưu và hành động phá hoại
của địch ở hậu phương, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện sức người, sức của cho
tiền tuyến càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
·
Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực, tự cường,
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên
thế giới:
- Cuộc chiến tranh xâm lược của
địch là tàn bạo và vô nhân đạo, sẽ bị nhân dân tiến bộ trên thế giới phản đối.
- Đoàn kết mở rộng quan hệ, tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân
nước có quân xâm lược.
Câu 15:
Khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam:
- Là tổ chức vũ trang và bán vũ
trang của nhân dân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lí.
- Nhiệm vụ:
+ Chiến đấu giành và giữ độc lập,
chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
+ Bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN và những thành quả cách
mạng…
+ Cùng toàn dân xây dựng đất nước.
+ Là lực lượng nòng cốt trong
khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân và chiến tranh nhân dân.
Câu 16:
Đặc điểm liên quan đến xây lực lượng vũ trang nhân dân:
·
Cả nước đang thực hiện 2
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong khi CNĐQ và
các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt
- Hai nhiệm vụ chiến lược trên có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động với nhau để cùng thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Do đó, trong khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được 1 phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc.
- Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn
coi Việt Nam là một trọng điểm để phá hoại, chúng đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt
Nam về mọi mặt, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là một trọng điểm. Do đó,
chúng ta cần phải nắm chắc âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình” của
địch để có kế hoạch phòng ngừa, bảo đảm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
vững mạnh về mọi mặt.
·
Xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân trong điều kiện quốc tế đã thay đổi, có nhiều diễn biến phức
tạp.
- Tình hình thế giới: CNXH ở Liên xô (cũ) và Đông
Âu sụp đổ, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới gặp nhiều khó
khăn. Nhưng trên thế giới, hoà bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, xung đột dân tộc, chạy đua vũ trang (nhất
là chạy đua vũ khí hạt nhân), khủng bố, tranh chấp biên giới, tài nguyên diễn
ra ở nhiều nơi tính chất ngày càng phức tạp.
- Khu vực Đông Nam Á: Vẫn là tiềm
ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, các nước lớn đang tăng cường ảnh hưởng của mình để
lôi kéo các nước ASEAN.
·
Sự
nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đất nước ta bước sang thời
kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH và hội nhập kinh tế thế giới toàn diện hơn.
- Thuận lợi cơ bản:
+ Tiềm lực và vị thế nước ta được
tăng cường.
+ Đảng có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo.
+ Nhân dân ta có truyền thống yêu
nước, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
+ Lực lượng vũ trang ta tuyệt đối
trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân.
- Trên cơ sở phát huy những thuận
lợi của nước ta trong hiệp hội ASEAN, thành viên tổ chức thương mại thế giới để
giữ vững môi trường hoà bình và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa… Đó là nền tảng vững chắc để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Thách thức lớn: Đại hội
Đảng X đề cập
+ Tụt hậu xa hơn về kinh tế.
+ Suy thoái về chinh trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng.
+ Xa rời mục tiêu xã hội chủ
nghĩa.
+ Chiến lược “Diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
- Thực trạng: của lực
lượng vũ trang nhân dân ta.
- Trong những năm qua, lực lượng
vũ trang nhân dân ta đã có những bước
trưởng thành lớn mạnh cả về bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, trình độ
chính quy, sức mạnh chiến đấu không ngừng được nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả
ba chức năng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà Đảng, nhà nước giao cho. Song trên thực tế cần
tập trung tháo gỡ một số vấn đề sau :
+ Về chất lượng chính trị: Trên thực tế, trình độ lí luận, tính nhạy
bén, sắc sảo và bản lĩnh chính trị của
không ít cán bộ, chiến sĩ ta chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu, nhiệm vụ của lực
lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
+ Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng
vũ trang nhân dân cón có những mặt hạn chế, chưa đáp ứng được các tình huống
phức tạp (nếu xảy ra). Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ còn có những nội
dung bất cập, chưa thật sát với nhiệm vụ và năng lực thực hành theo cương vị
đảm nhiệm.
+ Trình độ chính quy của Quân đội ta chưa đáp ứng được yêu
cầu tác chiến hiện đại. Chấp hành kỷ luật của một bộ phận lực lượng vũ trang
cón chuyển biến chậm, vẫn để xảy ra những vụ việc, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến
đấu của lực lượng vũ trang.
+ Về trang bị của lực lượng vũ trang còn lạc hậu, thiếu đồng bộ.
+ Vấn đề nghiên cứu phát triển hoàn thiện nền khoa học nghệ thuật
quân sự Việt Nam trong thời kì mới cần được tổ chức một cách khoa học, phối hợp
chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và thực tiễn…
Câu 17:
Nguyên tắc cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân:
·
Giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang
nhân dân.
- Ý nghĩa: Là quan điểm,
nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân sự lãnh đạo
của Đảng đối với lực lượng vũ trang sẽ quyết định bản chất cách mạng, mục tiêu,
phương hướng chiến đấu, đường lối tổ chức và cơ chế hoạt động, bảo đảm nắm chắc
quân đội trong mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam qua mấy chục năm
qua đã chứng minh điều đó.
- Nội dung: Đảng Cộng sản
Việt
- Trong quân đôi nhân dân Việt
- Đảng lãnh đạo trên mọi mặt hoạt
động của lực lượng vũ trang nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, tổ chức… cả trong xây dựng và chiến đấu.
·
Tự lực
tự cường xây dựng lực lượng vũ trang.
- Cơ sở: Theo Tư tưởng Hồ
Chí Minh về “xây dựng lực lượng vũ trang” và thực tiễn truyền thống, kinh
nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
- Nội dung: Tự lực tự
cường dựa vào sức mình để xây dựng, để giữ vững tín độc lập tự chủ, chủ động
không bị chi phối ràng buộc.
+ Nâng cao tinh thần trách nhiệm,
khắc phục mọi khó khăn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
+ Triệt để tranh thủ những điều
kiện quốc tế thuận lợi về khoa học- công nghệ để xây dựng và phát triển lực
lượng vũ trang nhân dân. Tập trung từng bước hiện đại hoá trang bị kỹ thuật
quản lí khai thác bảo quản có hiệu quả trang bị hiện có…
+ Tích cực đẩy mạnh phát triển
kinh tế và thực hành tiết kiệm.
·
Xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm
cơ sở.
- Cơ sở:
+ Xuất phát từ lí luận Mác- Lênin
về mối quan hệ giữa số lượng với chất lượng
+ Từ thực tiễn xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng chất lượng, lấy chất lượng
chính trị làm cơ sở…
+ Từ sự chống phá của kẻ thù
trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm phi chínhnh trị hóa
quân đội…
- Nội dung:
+ Nắm vững và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa số lượng và chất lượng
+ Xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân có chất lượng, toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức
+ Về chính trị phải thường xuyên
làm tốt công tác quán triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ
trang nhân dân tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của nhà
nước.
+ Chăm lo xây dựng, củng cố các
tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh (tổ chức đảng,
đoàn thanh niên, hội đồng quân nhân…).
+ Chăm lo xây dựng cơ quan chính
trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị, đảng viên có phẩm chất năng lực tổt đủ
sức lãnh đạo đơn vị.
·
Bảo đảm lực
lượng vũ trang luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
- Cơ sở:
+ Đây là quan điểm phản ánh chức
năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ bản, thường xuyên của lực lượng vũ trang nhân dân chủ
động đối phó kịp thời và thắng lợi trong mọi tình huống xảy ra.
- Nội dung:
+ Lực lượng vũ trang nhân dân
phải luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, đánh địch kịp thời, bảo vệ được
mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân vững mạnh về mọi mặt, duy trì và chấp hành
nghiêm các chế độ, quy định về sẵn
sàng chiến đấu, trực ban, trực chiến, trực chỉ huy…
Câu 18:
Phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn mới:
·
Xây dựng
quân đội nhân dân theo hướng cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại:
- Xây dựng quân đội cách mạng:
Đây là vấn đề cơ bản hàng đầu trong nhiệm vu xây dựng quân đội của Đảng trong
mọi giai đoạn cách mạng.
+ Xây dựng bản chất giai cấp công
nhân cho quân đội, làm cho lực lượng này tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc, với nhân dân.
+ Chấp hành mọi đường lối của
Đảng, chính sách của nhà nước.
+ Kiên định mục tiêu lí tưởng xã
hội chủ nghĩa, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ được giao.
+ Trước diễn biến tình hình phải
phân biệt được đúng sai
+ Có tinh thần đoàn kết quân dân,
đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế tốt
+ Kỉ luật tự giác nghiêm minh,
dân chủ rộng rãi
- Chính qui: Là thực hiện
thống nhất về mọi mặt (tổ chức, biên chế, trang bị). Dựa trên những chế độ,
điều lệnh qui định, đưa mọi hoạt động của quân đội vào nề nếp.
+ Thống nhất về bản chất cách
mạng, mục tiêu chiến đấu, về ý chí quyết tâm, nguyên tắc xây dựng quân đội, về
tổ chức biên chế trang bị.
+ Thống nhất về quan điểm tư
tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự, về phương
pháp huấn luyện giáo dục.
+ Thống nhất về tổ chức thực hiện
chức trách nề nếp chế độ chính qui, về quản lí bộ đội, quản lí trang bị
- Tinh nhuệ: Biểu hiện mọi
hoạt động của quân đội trên các lĩnh vực đạt hiệu quả cao
+ Tinh nhuệ về chính trị: Trước
diễn biến của tình hình, có khả năng phân tích và kết luận chính xác đúng sai,
từ đó có thái độ đúng đắn với sự việc đó
+ Tinh nhuệ về tổ chức: Tổ chức
gọn nhẹ nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao
+ Tinh nhuệ về kĩ chiến thuật:
Phải giỏi sử dụng các loại binh khí kĩ thuật hiệnc có, biết sử dụng trang bị vũ
khí hiện đại. Giỏi các cách đánh, vận dụng mưu trí sáng tạo các hình thức chiến
thuật
- Từng bước hiện đại: Đi
đôi với chính qui, tinh nhuệ phải từng bước hiện đại hóa quân đội về trang bị,
vũ khí. Hiện đại hoá là một tất yếu nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội ta. Từng bước đổi mới vũ khí, trang bị kĩ thuật cho quân đội:
+ Xây dựng quân đội nhân dân có
bản lĩnh trí tuệ và năng lực hành động, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại.
+ Phát triển các quân binh chủng
kĩ thuật, có nghệ thuật quân sự hiện đại, khoa học quân sự hiện đại, có hệ
thống công nghiệp quốc phòng hiện đại,… bảo đảm cho quân đội hoạt động trong
mọi điều kiện chiến tranh hiện đại
+ Những nội dung trên là cả một
quá trình phấn đấu lâu dài mới đạt được, hiện nay ta phải thực hiện bước đi:
“từng bước”
·
Xây dựng
lực lượng dự bị động viên:
Xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lí tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể
động viên nhanh theo kế hoạch.
·
Xây dựng
lực lượng dân quân tự vệ:
- Bác Hồ nói: “Dân quân tự vệ và
du kích là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ thù
hung bạo thế nào, hễ đụng đến lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải
tan rã”.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
+ Năm 1990, Chính phủ đã ban hành
Điều lệ dân quân tự vệ.
+ Pháp lệnh Dân quân tự vệ năm
2004, đây là sự thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng
vũ trang quần chúng.
Nội dung:
+ Dân quân tự vệ được xây dựng
rộng khắp ở tất cả các thôn, xóm, bản làng, nông trường, công trường, doanh
nghiệp, nhưng có trọng điểm, chú ý hình thức phù hợp trong các hành phần kinh
tế.
+ Chú trọng xây dựng cả về số
lượng và chất lượng, lấy chất lượng là chính, tỏ chức biên chế phù hợp. Huấn
luyện phải thiết thực, hiệu quả.
Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng,
đào tạo cán bộ dân quân tự vệ. Thực hiện các chính sách với dân quân tự vệ.
Câu 19: Những
biện pháp chủ yếu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân:
- Chấn chỉnh tổ chức biên chế lực
lượng vũ trang nhân dân.
+ Bộ đội chủ lực: Tổ chức các đơn
vị phải gọn, mạnh, cơ động nhanh, có sức chiến đấu cao. Bố trí các binh đoàn
chủ lực phải gắn với thế trận quốc phòng- an ninh nhân dân trên cả nước cũng
như từng vùng chiến lược.
+ Bộ đội địa phương: Phải căn cứ
vào tình hình cụ thể để tổ chức và bố trí cho phù hợp với từng địa phương và
thế trận cả nước.
+ Bộ đội biên phòng: Cần có số
lượng, chất lượng cao, tổ chức hợp lí, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc
gia, vùng biển, đảo…. theo nhiệm vụ được giao.
+ Dân quân tự vệ: Được tổ chức
trên cư sở lực lượng chính trị ở từng đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất và dân
cư ở cơ sở, có số lượng phù hợp chất lượng cao.
- Nâng cao chất lượng huấn luyện,
giáo dục, xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt Nam.
- Từng bước giải quyết yêu cầu về
vũ kí, trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang nhân dân.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lực
lượng vũ trang nhân dân có phẩm chất, năng lực tốt.
- Thực hiên nghiêm túc và đầy đủ
các chinh của Đảng, nhà nước đôí với lực lượng vũ trang nhân dân.
Câu 20: Tính
tất yếu phải kết hợp kinh tế-xã hội với tăng cường Quốc phòng-An ninh ? (Cơ sở
lí luận và thực tiễn của việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường, củng
quốc phòng, an ninh ở Việt
·
Cơ sở lí
luận của sự kết hợp:
- Kinh tế, quốc phòng, an ninh là
những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. mỗi
lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng có
mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố quyết định
đến quốc phòng – an ninh; ngược lại, quốc phòng – an ninh cũng có tác động tích
cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Kinh tế quyết định đến nguồn
gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng, an ninh. Lợi ích kinh tế suy đến cùng là
nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết các
mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng, an ninh
+ Kinh tế còn quyết định đến việc
cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, nhân lực cho hoạt động quốc phòng – an ninh.
Ăngghen đã khẳng định “Thất bại hay thắng lợi của chiến tranh đều phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế”. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng – an ninh vững mạnh phải xây
dựng, phát triển kinh tế
+ Kinh tế còn quyết định đến việc
cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó
quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến đường
lối chiến lược quốc phòng – an ninh
- Quốc phòng không chỉ phụ thuộc
vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế - xã hội trên cả góc độ tích
cực và tiêu cực
+ Quốc phòng – an ninh vững mạnh
sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Hoạt động quốc phòng – an ninh
tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những
tiêu dùng này theo Lênin là những tiêu dùng “mất đi”, không quay vào tái sản
xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự
phát triển của nền kinh tế.
+ Hoạt động quốc phòng – an ninh
còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho
kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực
này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh với phát triển
kinh tế - xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
=> Như vậy, kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh là một tất yếu
khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có
sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và
ngược lại. Tuy nhiên, việc kết hợp cần phải được thực hiện một cách khoa học,
hợp lí, cân đối và hài hoà.
·
Cơ sở
thực tiễn của sự kết hợp:
- Theo tiến trình phát triển, các
quốc gia trên thế giới, dù là nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay
chưa phát triển; dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm
lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa có chiến tranh.
- Tuy nhiên, các nước khác nhau,
với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì sự
kết hợp cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và kết quả.
- Ở Việt
- Trước kia, để xây dựng và phát
triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện sự kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong
quá trình dựng nước và giữ nước như các kế sách giữ nước với tư tưởng: “nước
lấy dân làm gốc”, “dân giàu, nước mạnh”, “quốc phú binh cường”; thực hiện kế
sách “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân” để vừa phát triển kinh tế,
vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và biết thừa kế kinh nghiệm
của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng
tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.
+ Trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954): Đảng ta đề ra chủ trương “vừa kháng chiến
vừa kiến quốc”, “vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”;
chúng ta đồng thời thực hiện phát triển kinh tế địa phương và tiến hành chiến
tranh nhân dân rộng khắp: “xây dựng làng kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch
lui ta lại tăng gia sản xuất.
+ Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước, (1954 - 1975): kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và
hình thức thích hợp.
+ Ở miền Bắc, để bảo vệ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam đánh giặc, Đại hội III của
Đảng đã đề ra chủ trương: “trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục
vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp
với công cuộc xây dựng kinh tế”.
+ Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân
và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở rộng hậu phương, xây
dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm
cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
- Ở thời kì này, chúng ta phải
tập trung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và
giải phóng miền Nam, nên việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố
quốc phòng an ninh được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và
thiết thực, đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mĩ xâm lược và để lại
nhiều bài học quí giá cho thời kì sau.
+ Thời kì đất nước độc lập, thống
nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (1975 đến nay): Đảng ta khẳng định kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là một nội dung quan
trọng trong đường lối xxay dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và
được triển khai trên qui mô rộng lớn hơn, toàn diện hơn.
=> Tóm lại, nhờ chính sách
nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến ngày nay.
Câu 21: Nội
dung kết hợp sự phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
và đối ngoại ở nước ta hiện nay. Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội:
- Kết hợp phát triển kinh tế với
tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh phải được thể hiện ngay trong việc xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Điều này được thể hiện ngay
trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực,
trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược.
- Mục tiêu và phương hướng tổng
quát phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ năm 2006 đến 2010 là:
+ Phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
+ Phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội
+ Tăng cường quốc phòng và an
ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại
+ Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế
+ Giữ vững ổn định chính trị xã
hội, sớm đưa được nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng cho
nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Như vậy, trong mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát toàn diện các vấn đề của đời sống
xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn là: tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ
xã hội; tăng cường quốc phòng – an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải
quyết hài hoà 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
- Sự kết hợp phát triển kinh tế
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh sẽ phát huy sức mạnh của từng lĩnh
vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lục
lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
Câu 22:
Tại sao Đảng ta xác định phải chú trọng phát triển kinh tế-xã hội với tăng
cường Quốc phòng-An ninh ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng
biên giới ?
- Kết hợp phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong phát triển các vùng lãnh
thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược với xây dựng vùng
chiến lược quốc phòng, an ninh nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới cả về kinh
tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa bàn tỉnh, thành
phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam bền vững trên toàn
cục và mạnh ở từng trọng điểm.
- Hiện nay, nước ta đã phân chia
thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến lược, các quân khu. Mỗi vùng đều
có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ
quốc. Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu
nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung kết hợp cụ thể
trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp đó phải được thể hiện
những nội dung chủ yếu sau:
+ Một là, kết hợp trong xây dựng
chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng – an
ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành phố.
+ Hai là, kết hợp trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu
kinh tế địa phương với xây dựng
các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên hoàn, các xã (phường) chiến
đấu trên địa bàn của các tỉnh (thành phố), quận
(huyện)
+ Ba là, kết hợp trong quá trình
phân công lạilao động của vùng, phân bố lại dân cư với tổ chức xây dựng và điều
chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn,
lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch
phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và
có lực lượng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
+ Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự, phòng
thủ dân sự, thiết bị chiến trường… Bảo đảm tính “lưỡng dụng” trong mỗi công
trình được xây dựng.
+ Năm là, kết hợp xây dựng các cơ
sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu,
căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa
phương để sẵn sang đối phó khi có chiến tranh xâm lược.
- Hiện nay Đảng ta xác định phải
chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên
giới.
·
Đối với
vùng kinh tế trọng điểm:
- Một là, trong quy hoạch, kế
hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn qui mô trung
bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung
thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an ninh chính
trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có chiến
tranh.
- Hai là, phải kết hợp chặt chẽ
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng của nền quốc phòng
toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với các công trình phòng thủ,
các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân sự…
- Ba là, trong quá trình xây dựng
các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế phải có sự gắn kết với qui hoạch
xây dựng lực lượng quốc phòng – an ninh, các tổ chức chính trị, đoàn thể ngay
trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế
đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, đặc
khu kinh tế, khu chế xuất.
- Bốn là, việc xây dựng, phát
triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu
dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện cho các
chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ với xây
dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng chủ động di
dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm lược.
·
Đối với
vùng núi biên giới:
- Phải quan tâm đầu tư phát triển
kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở các vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên
giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định
canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp để động viên, điều chỉnh dân số
từ các nơi khác đến vùng núi biên giới.
- Tập trung xây dựng các xã trọng
điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh. Trước hết cần tập trung xây dựng phát
triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang,
các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xoá
đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội đối với các xã
nghèo
- Đối với những nơi có địa thế
quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực,
mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương để cùng giải quyết.
- Đặc biệt với các địa bàn chiến
lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách động viên và sử dụng lực
lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc
phòng hoặc các khu quốc phòng – kinh tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển
kinh tế, xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
·
Đối với
vùng biển đảo:
- Tập trung trước hết vào xây
dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế và xây dựng thế trận quốc phòng,
an ninh bảo về biển, đảo trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết
hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh một cách cơ bản, toàn diện và lâu
dài.
- Xây dựng qui hoạch, kế hoạch
từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần trước để có lực lượng
xây dựng căn cứ hậu phương, bám trụ phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một
cách vững chắc, lâu dài.
- Nhà nước phải có cơ chế, chính
sách thoả đáng động viên, khích lệ dân
ra đảo bám trụ làm ăn lâu dài.
- Phát triển các loại hình dịch
vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám trụ, sinh sống và làm ăn
- Xây dựng cơ chế, chính sách tạo
điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế
ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền
nước ta với các nước phát triển
- Chú trọng đầu tư phát triển
chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây dựng lực lượng dân quân biển, các
hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, cảnh sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn
chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta.
- Xây dựng phương án đối phó với
các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển đảo nước ta. Đầu tư xây dựng lực lượng
nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển đảo, trước hết là phát triển và hiện
đại hoá lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ
vùng biển đảo.
Câu 23: Kết
hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trong
các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu.
·
Kết hợp
trong công nghiệp:
- Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch
bố trí các đơn vị kinh tế của nghành công nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên
các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển,
thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Tập trung đầu tư một số nghành
công nghiệp liên quan đến quốc phòng như: Cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp,
điện tử kĩ thuật cao, luyện kim, hoá chất, đóng tàu vừa đáp ứng nhu cầu trang
bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật
công nghiệp cao phục vụ QP- AN.
- Phát triển công nghiệp quốc gi
theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể
sản xuất hàng quân sự. Kết hợp tròng đầu tư nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản
xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao trong các nhà máy và ở một số cơ sở
công nghiệp nặng.
- Các nhà máy cong nghiệp quốc
phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất ra hàng quân sự phải tham gia sản
xuất hàng dân sự chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo
hướng trên, từ nay đến năm 2020, Nhà nước cần tập trung xây dựng quốc phòng vào có thể tham gia nghiên cứu,
sáng chế và sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng cho LLVT, trong đó tập
trung vào một số nghành như cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử, tin học,
hoá dầu.
- Mở rộng liên doanh, liên kết
giữa nghành công nghiệp nước ta (bao gồm
công nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của
các nước tiên tiến trên thế giới, ưu tiên những nghành, lĩnh vực có tính lưỡng
dụng cao.
- Thực hiện chuyển giao công nghệ
hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp dân dụng và ngược lại.
- Phát triển hệ thống phòng không
công nghiệp và phát triển lực lượng tự
vệ để bảo vệ các nhà máy, xí
nghiệp trong cả thời bình và thời chiến
- Xây dựng kế hoạch động viên
công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực hiện dự trữ chiến lược các
nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân sự.
·
Kết hợp
trong nông, lâm, ngư nghiệp:Hiện nay nước ta vẫn còn hơn 70% dân số
sống ở nông thôn và làm nghề nông, lâm ,ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải
huy động cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là từ khu vực này.
- Kết hợp phải nhằm khai thác có
hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và lực lượng lao động để phát triển đa
dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Kết hợp trong nông, lâm, ngư
nghiệp phải gắn vói việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, nần cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thôn, góp phần tạo thế trận phòng
thủ “thế trận lòng dân” vững chắc.
- Phải kết hợp gắn việc động viên
đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây dựng các làng xã, huyện đảo vững mạnh
với chú trọng đầu tư xây dựng phát triển các hợp tác xã, các đôi tàu thuyền
đánh cá xa bờ,…
- Phải đẩy mạnh phát triển trồng
rừng gắn với công tác định canh định cư, xây dựng các cơ sở chính trị vững chắc
ở các vùng rừng núi biên giới, đặc biệt là ở Tây bắc, Tây nguyên và Tây nam bộ.
·
Kết hợp
trong giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học – công nghệ, giáo dục và xây
dựng cơ bản:
- Trong giao thông vận tải:
+ Phát triển hệ thống giao thông
vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt, đường không, đường thuỷ, đáp ứng nhu
cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá trong nước và mở rộng giao lưu với nước ngoài.
+ Trong xây dựng các mạng đường
bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các tuyến đường trục Bắc – Nam với tuyến
đường trục dọc Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh. Từ các tuyến đường này, phải phát
triển các tuyến đường ngang nối liền giữa các tuyến trục dọc với nhau và phát
triển đến các huyện xã trong cả nước, nhất là đến các vùng cao, vùng sâu, miền núi
biên giới, xây dựng các tuyến đường vành đai biên giới.
+ Trong thiết kế, thi công các
công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các tuyến vận tải chiến lược, phải
tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến, nhất là cho các phương
tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và lưu lượng vận chuyển lớn,
liên tục. Phải có kế hoạch làm nhiều đường tránh ở các nút giao thông quan
trọng, làm các bến phà, bến vượt ngầm bên cạnh các cây cầu, làm đường hầm xuyên
núi, cải tạo các hang động có sẵn làm kho trạm, nơi trú quân khi cần.
+ Phải thiết kế, xây dựng lại hệ
thống đường ống dẫn dầu Bắc – Nam, chôn sâu bí mật, có đường vòng tránh trên
từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn cả thời bình và thời chiến.
+ Ở vùng đồng bằng ven biển, đi
đôi với phát triển hệ thống đường bộ, cần chú trọng cải tạo, phát triển đường
sông, đường biển, xây dựng các cảng sông, cảng biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ
thuận tiện.
+ Việc mở rộng nâng cấp sân bay
phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu trong nội địa, sân bay dã chiến và có
kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm đường băng cho máy bay khi cần thiết
trong chiến tranh.
+ Trong một số tuyến đường xuyên
Á, sau này được xây dựng qua Việt Nam, ở những nơi cửa khẩu, nơi tiếp giáp các
nước bạn phải có kế hoạch xây dựng các khu vực phòng thủ kiên cố, vững chắc, đề
phòng khả năng địch sử dụng các tuyến đường này khi tiến công xâm lược nước ta
với qui mô lớn.
+ Xây dựng kế hoạch động viên
giao thông vận tải cho thời chiến
- Trong bưu chính viễn thông:
+ Phải kết hợp chặt chẽ giữa
ngành bưu điện quốc gia với ngành thông tin quân đội, công an để phát triển hệ
thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, an toàn
thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều hành đất nước trong mọi tình
huống, cả thời bình và thời chiến.
+ Có phương án thiết kế xây dựng
và bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc một cách vững chắc trong mọi tình huống
+ Các phương tiện thông tin liên
lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật và có khả năng chống nhiễu cao,
phòng chống chiến tranh thông tin điện tử của địch
+ Khi hợp tác với nước ngoài về
xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin điện tử phải cảnh giác cao, lụa chọn
đối tác, có phương án chống âm mưu phá hoại của địch
+ Xây dựng kế hoạch động viên
thông tin liên lạc cho thời chiến
- Trong xây dựng cơ bản:
+ Khi xây dựng bất cứ công trình
nào, ở đâu, qui mô nào cũng phải tính
đến yếu tố tự bảo vệ và có thể
chuyển hoá phục vụ được cho cả quốc phòng, an ninh, cho phòng thủ tác chiến và
phòng thủ dân sự
+ Khi xây dựng các thành phố đô
thị, phải gắn các khu vực phòng thủ địa phương, phải xây dựng các công trình
ngầm
+ Khi xây dựng các khu công
nghiệp tập trung, các nhà máy, xí nghiệp lớn, quan trọng đều phải tính đến khả
năng bảo vệ và di dời khi cần thiết. Hạn chế xâm phạm các địa hình có giá trị
về phòng thủ quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc
+ Đối với các xí nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong nghiên cứu, sáng chế, chế tạo những vật
liệu siêu bền, có khả năng chống xuyên, chống mặn, chống bức xạ, dễ vận chuyển phục
vụ các công trình phòng thủ, công sự trận địa của lực lượng vũ trang và của khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố
+ Khi cấp phép đầu tư xây dựng
cho các đối tác nước ngoài, phải có sự tham gia ý kiến của cơ quan quân sự có
thẩm quyền.
- Trong khoa học và công nghệ,
giáo dục:
+ Phải phối hợp chặt chẽ và toàn
diện hoạt động giữa các ngành khoa học và công nghệ then chốt của cả nước với
các ngành khoa học của quốc phòng, an ninh trong việc hoạch định chiến lược
nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc
+ Nghiên cứu ban hành chính sách
các tổ chức cá nhân có đề tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản
phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ cho nhu cầu CNH, HĐH đất nước vừa phục vụ nhu cầu
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
+ Coi trọng, giáo dục và bồi
dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài của đất nước, đáp ứng cả sự nghiệp xây dựng
phát triển kinh tế, xã hội, cả quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, đặc biệt
là trong các nhà trường thuộc hệ thống
giáo dục quốc gia.
- Trong lĩnh vực y tế:
+ Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa
ngành y tế dân sự với y tế quân sự trong nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo
nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho nhân dân, bộ đội và cho người nước
ngoài
+ Xây dựng mô hình quân dân y kết
hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở miền núi, biên giới, hải đảo
+ Xây dựng kế hoạch động viên y
tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh xảy ra
+ Phát huy vai trò của y tế quân
sự trong phòng chống, khám chữa bệnh cho nhân dân thời bình và thời chiến
Câu 24:
Tăng cường Quốc phòng-an ninh kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo
vệ Tổ quốc:
- Tổ chức biên chế và bố trí lực
lượng vũ trang phải phù hợp với điều
kiện kinh tế và nhu cầu phòng thủ đất nước.
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất trong huấn luyện, chiến đấu và sãn
sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.
- Khai thác có hiệu quả tiềm
năng, thế mạnh của quân đội, công an cho phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng,
phát triển các khu kinh tế quốc phòng, các khu kinh tế quốc phòng trên địa bàn
miền núi biên giới, giúp nhân dân ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh
tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
- Phát huy tốt vai trò tham mưu
của các cơ quan quân sự, công an các cấp trong việc thẩm định, đánh giá các dự
án đầu tư, nhất là các dự án có vốn nước ngoài.
Câu 25:
Tăng cường Quốc phòng-an ninh kết hợp trong hoạt động đối ngoại:
- Mở rộng hoạt động đối ngoại
phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giữ gìn
bản sắc dân tộc, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình
- Trong lĩnh vực kinh tế đối
ngoại, phải kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác. Phải lựa chon được đối tác có ưu
thế chế ngự cạnh tranh với các thế lực mạnh bên ngoài, làm hạn chế sự chống phá
của các thế lực thù địch
- Kết hợp trong việc phân bổ đầu
tư vào ngành nào, địa bàn nào có lợi cho phát triển kinh tế, bảo đảm quốc
phòng, an ninh của các quốc gia. Khắc phục tình trạng chỉ thấy lợi ích kinh tế
trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Kết hợp trong xây dựng và quản
lí các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế kiên doanh, liên kết với đầu tư nước
ngoài, bảo vệ chủ quyền an ninh đất nước, chú trọng xây dựng các đoàn hội, lực
lượng tự vệ trên cơ sở Nhà nước có luật pháp qui định rõ ràng. Đồng thời phải
chú trọng bồi dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác đấu tranhbảo vệ
độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia cho cán bộ, nhân viên là người Việt Nam làm
việc trong các cơ sở đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
- Phát huy vai trò của cán bộ,
nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài trong việc
quảng bá sản phẩm hàng hoá, truyền thống Việt Nam; đồng thời nắm vững đường lối
đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài cung cấp tình hình giúp Đảng, Nhà
nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn.
Câu 26:
Một số giải pháp chủ yếu thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh ở Việt
· Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu
lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp trong thực hiện kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòmg an ninh.
- Vai trò của các cấp uỷ Đảng
trrong việc kết hợp được thể hiện ở chỗ:
+ Thường xuyên nắm vững chủ
trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra những quyết định lãnh đạo ngành, địa
phương mình, thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng – an ninh một cách đúng đắn
+ Gắn chủ trương lãnh đạo với
tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh
tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
+ Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng
kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ xung chủ trương và chỉ đạo thực tiễn thực
hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an
ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng.
- Để nâng cao hiệu lực quản lí
nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng an ninh phải:
+ Từng cấp làm đúng chức năng,
nhiệm vụ theo qui định của pháp luật và nghị định 119/2004/ NĐ – CP của chính
phủ đã ban hành ngày 11/5/2004
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các
qui hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng an ninh ở ngành, bộ, địa phương cơ sở của mình dài hạn và hàng năm.
+ Đổi mới nâng cao qui trình,
phương pháp quản lí, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập qui hoạch,
kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thông tin, định hướng hoạt động, tổ
chức hướng dẫn chỉ đạo cấp dưới và kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình
thực hiện.
·
Bồi
dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh cho các đối tượng.
- Đối tượng bồi dưỡng: Phải phổ
cập kiến thức quốc phòng – an ninh cho toàn dân nhưng trước hết phải tập trung
vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến
địa phương, cơ sở
- Nội dung bồi dưỡng: Phải căn cứ
vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội dung, chương trình bồi
dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng
lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng và quần chúng
nhân dân
- Hình thức bồi dưỡng: Phải kết
hợp bồi dưỡng tại trường với tại chức, kết hợp lí thuyết với thực hành. Thông
qua sinh hoạt chính trị, qua các cuộc diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các bộ,
ngành, địa phương cơ sở để nâng cao hoàn thiện sự hiểu biết và năng lực tổ chức
thực hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn
quân.
·
Xây dựng
chiến lược cụ thể kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng an ninh trong thời kì mới.
- Hiện nay, nước ta đã và đang
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường củng cố QP- AN
đến năm 2020. Thực tiễn, sự vận dụng quy luật kinh tế, QP- AN và quán triệt
quan điểm đường lối của Đảng đề ra còn nhiều mâu trhuẫn và bất cập do thiếu
định hướng chiến lược cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay
từ đầu và trong suốt quá trình CNH- HĐH đất nước một cách cơ bản và thống nhất
trên phạm vi của cả nước và từng địa phương , phải tiếp tục xây dựng và hoàn
chỉnh các quy hoạch và kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia và kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường củng cố QP- AN. Côi đó là một trong những mặt,
khâu quan trọng hàng đầu chỉ đạo, quản lí nhà nước, về kết hợp phát triển kinh
tế với tăng cường củng cố QP- AN một cách có hiệu lực, hiệu quả.
- Trong xây dựng quy hoạch, kế
hoạch chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố
QP- AN và đối ngoại trong thời kì mới, phải có sự phối hợp giữa các bộ, nghành,
địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực. Trên cơ sở đó xác định mục
tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sach đúng đắn, như: chính sách
khai thác các nguồn lực, chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều
động nhân lực, bốtí dân cư, chsnh sách ưu đãi khoa học và công nghệ…
·
Hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sáchcó liên quan đến thực hiện kết hợp
phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phong- an ninh trong tình
hình mới.
- Mọi chủ trương đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước có liên quan
đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã
hội với tăng cường củng cố QP- AN đều phải thể chế hoá thành luật pháp, pháp
lệnh, nghị định,… một cách đồng bộ, thống nhất để quản lí và tổ chức thực hiện
nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.
- Đảng và nhà nước phải có chính
sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện kết
hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố QP- AN , nhất là đối với
các công trình trọng điểm, ở những địa bàn chiến lược trọng yếu như miền núi
biên giới và hải đảo
- Việc xác lập cơ chế chính sách,
bảo đảm ngân sách cho kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố
QP- AN cần phải được xây dựng theo quan điểm QP toàn dân, AN nhân dân. Các
nghành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế các
đoàn thể xã hội đều phải có nghĩa vụ chăm lo cho sự nghiệp xây dựng cũng như sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển
kinh tế- xã hội gắn với tănng cường củng cố QP- AN phải theo hướng tập trung
cho những mục tiêu chủ yếu, những công trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả
trong phát triển kinh tế xã hội và củng cố QP- AN trước mắt cũng như lâu dài.
- Phải có chính sách khuyến khích
lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư (cả
trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ sản xuất, xây
dựng có hiệu quả cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trong thời kì mới.
·
Củng cố
kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quốc phòng, an
ninh các cấp.
- Căn cứ vào nghị định
119/2004/NĐ- CP ngày 11/5/2004 của chính phủ về công tác QP ở các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và các địa phương, cần nghiien cừu bổ sung
mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lí nhà nước
về QP- AN nói chung và kết hợp phát triển kinh tế xã hội gắn liền với tăng
cường củng cố QP- AN nói riêng trong thời kì mới.
- Kết hợp chặt chẽ giữa chấn
chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực và trách nhiệm
của các cơ quan và cán bộ chyên trách làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về thực
hiện kết hợp phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường củng cố QP- AN ngang
tầm với nhiệm vụ trong thời kì mới.
- Kết hợp phát triển kinh tế
xã hội với tăng cường củng cố QP- AN là
một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất
nước của Đảng ta, nhằm thực hiệ thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Việc kết hợp được thực hiện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và có sự phối hợp của các nghành, các cấp, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho việc
phát triển kinh tế- xã hội, củng cố QP- AN.
- Để thực hiện tốt việc kết hợp, cần quan triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó phải quán triệt sâu sắc 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam cho toàn dân, nhất là cho sinh viên- những người quyết định tương lai của đất nước. Quá trình kết hợp phải được triển khai có kế hoạch, có cơ chế chính sách cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/