A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Trẻ em luôn là niềm hy vọng, là tương
lai của đất nước, là nền móng cho một thế hệ tương lai vững chắc. Xã hội hiện
đại như con dao hai lưỡi, mặc dù nó khiến cuộc sống của con người ngày càng
phát triển nhưng song hành với cuộc sống phát triển hiện đại ấy chính là những
hiểm nguy luôn rình rập bởi sự cạnh tranh của con người và sự suy thoái về đạo
đức. Họ cạnh tranh cả về vật chất và lương tâm, có rất nhiều người không từ bất
cứ một công việc, một thủ đoạn, để kiếm tiền, để làm giàu, để đạt mục đích ích
kỷ của bản thân. Và “sự việc” mà có thể nói là đang vô cùng nóng, được tất cả
mọi người đặc biệt các bậc phụ huynh đều quan tâm và lo lắng cho trẻ đó chính
là “bắt cóc”, “xâm hại”.
Theo thống kê của Cục Bảo vệ chăm sóc
trẻ em (Bộ LĐTBXH) số trẻ bị xâm hại tình dục nhiều lần chiếm 28,2% và số trẻ
em bỏ học, sống lang thang, bị xâm hại tình dục chiếm 11,6%. Bên cạnh đó theo
báo cáo của 63 tỉnh, thành phố cho thấy, trung
bình mỗi năm, cả nước xảy ra 2.000 vụ xâm hại tình dục, năm sau thường cao hơn năm trước. tính 4 năm (2015 - 2018) và 6 tháng đầu
năm 2019, toàn quốc xảy ra 7.829 vụ xâm hại trẻ em, với 7.767 trẻ em bị xâm
hại. Tại Hà Nội, từ năm 2015 đến hết tháng 6/2019, có 365 vụ xâm hại trẻ em với
313 trẻ em bị xâm hại, trong đó, xâm hại tình dục 199 vụ (chiếm 54,5%) với 220
trẻ.
Trẻ nhỏ rất ngây thơ, trong sáng lợi dụng những đặc điểm này những kẻ xấu
luôn muốn tiếp cận với trẻ nhỏ. Đặc biệt, trẻ mầm non trong giai đoạn từ 5 - 6
tuổi là giai đoạn mà trẻ dễ gặp phải những nguy hiểm khi bị người lạ tiếp cận
xâm hại. Bởi ở giai đoạn này, trẻ bắt đầu thích khám phá, thích được vui chơi,
thích được trò chuyện với mọi người nhưng lại chưa có những kỹ năng cơ bản ban đầu để bảo vệ chính bản thân mình.
Nhiều bố mẹ trẻ lại có quan điểm đó là sẽ luôn có mặt, hay không để con một
mình tại những nơi có thể bị người
khác tiếp cận mà không lường đến rằng có quá nhiều địa điểm trẻ có mặt đều có thể bị người khác lợi dụng nhằm tiếp cận xâm hại. Thậm chí còn số ít phụ huynh cho rằng dạy trẻ những điều đó là chưa cần thiết
hoặc yêu cầu, cấm trẻ không ở một mình. Vì thế
ngày nay trẻ em phải học những kỹ năng sống cần thiết, phải học cách làm sao để biết tự bảo vệ bản thân mình khỏi
trường hợp nguy hiểm mà những con người vô nhân tính trong cuộc sống hiện đại
phức tạp tạo nên.
Là
một giáo viên mầm non với 5 năm công tác, tôi nhận thấy cần phải đưa ra một số nội dung giáo dục trẻ biết
tự bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận xâm
hại. Chính vì thế tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục trẻ 5
- 6 tuổi biết tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp cận xâm hại”.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
II.
Mục đích nghiên cứu
-
Chỉ ra các biện pháp giáo dục trẻ
mẫu giáo lớn biết cách tự bảo vệ bản thân mình khi gặp các trường hợp kẻ xấu
muốn tiếp cận xâm hại mình.
-
Giúp trẻ hình thành kỹ năng sống.
- Bản
thân giáo viên tích lũy được kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ biết cách tư bảo vệ bản thân khi bị
người khác xâm hại.
III.
Đối tượng nghiên cứu
-
Trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi tại lớp
IV.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp xây dưng
giả thiết
-
Phương pháp quan sát
- Phương pháp so sánh
-
Phương pháp trải nghiệm
V. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi biết tự bảo vệ bản thân khi có người khác tiếp cận xâm hại trong năm học 2019 -2020.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
Cơ sở lý luận
Chúng ta cần hiểu vấn đề: “Người tiếp cận xâm hại” là ai? Đó chính là những
người trẻ không quen biết, còn với những người trẻ quen nhưng cũng tiếp cận với
trẻ vì mục đích xấu trẻ phải làm gì? Theo số liệu của bộ công an, 92% người xâm
hại tình dục trẻ em là hàng xóm, họ hàng, thầy giáo, ông, bố đẻ, bố dượng.Vậy khi có người tiếp cận bản thân trẻ với mục đích xấu trẻ cần phải biết cách làm thế
nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc trẻ biết cách phản ứng, hành động, xử lý nhanh và đúng nhằm bảo vệ chính bản thân mình, giúp mình nhanh chóng thoát khỏi nguy hiểm hoặc ít nhất là làm giảm bớt sự nguy hiểm đối với bản thân mình.
Trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ giai đoạn
5 - 6 tuổi, độ tuổi trẻ rất muốn làm chủ hành động của mình, đồng thời đây cũng là độ tuổi mà nhu cầu được tự do trong giao tiếp
xã hội của trẻ rất mạnh mẽ, với mỗi một người bạn mới với một câu chuyện
mới hay một món quà nhỏ như là một chiếc kẹo đã có thể đem đến cho trẻ niềm
vui, sự hứng thú và cả lòng tin
tưởng. Đã có rất nhiều những tình huống nguy hiểm xảy ra nếu trẻ không biết
phòng tránh cho chính bản thân trẻ. Theo tôi một số tình huống hiện nay các bậc
phụ huynh hay quan tâm hơn đó là: Khi có người lạ tới đón trẻ tại trường mầm
non, khi có người tiếp cận trẻ tại các địa điểm công cộng, khi có “khách” tới
nhà trong lúc trẻ ở nhà một mình, khi bị xâm
hại tình dục, khi bị bắt cóc. Vấn đề giáo dục trẻ có những kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận xâm
hại đang là một trong những kỹ năng
sống không những được ngành giáo dục mầm non chú trọng mà nó còn được cả xã hội quan tâm theo dõi. Trẻ càng có kỹ
năng sống tốt bao nhiêu trẻ càng không gập nguy hiểm bấy nhiêu, vì thế việc dạy
trẻ các kỹ năng sống rất cần thiết cho trẻ ở trường mầm non nói chung.
II. Thực trạng vấn đề
1.
Đặc điểm chung:
-
Trường mầm non Đại Kim có 3 điểm trường với tổng số 19 lớp.
Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, tận tâm, nhiệt huyết với nghề.
-
Trường có khu khu vui chơi phát
triển vận động với nhiều đồ chơi đa dạng. Tại khu chơi vận động cơ sở Đại Từ có mái che, đồ dùng đồ chơi ngoài trời phong phú,
nhiều chủng loại.
-
Trang thiết bị đầy đủ, đảm bảo môi trường, không gian rộng rãi cho trẻ trải nghiệm, lĩnh hội những kỹ năng, kiến
thức thực tế.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
2. Thuận lợi:
-
Ban giám hiệu, tổ chuyên môn nhà trường
luôn tạo mọi điều kiện cũng như thường xuyên chỉ đạo, thăm lớp để rút
kinh nghiệm.
-
Với đề tài giáo dục trẻ biết bảo vệ
bản thân khi có người tiếp cận xâm hại đa số giáo viên đều cho rằng rất cần
thiết thực nên cùng phối hợp, cùng trau dồi nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm cho
chính bản thân và cho công tác giáo dục trẻ.
-
Năm học 2019 - 2020, tôi được
nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo lớn A4
với tổng số học sinh là 45 cháu,
trong đó có 24 nam, 21 nữ.
- Lớp có 2 giáo viên đều có trình độ đại học, trong đó có 1 giáo viên lâu năm,
dày dặn kinh nghiệm.
-
Bên cạnh đó, tôi luôn nhận được sự
ủng hộ và lòng tin của các bậc phụ
huynh.
3. Khó khăn:
- Khả năng nhận thức,
hợp tác giữa các nhóm trẻ không đồng đều.
-
Các hình thức tổ chức trong quá
trình giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận xâm hại còn
nghèo nàn và đơn điệu.
-
Tài liệu hướng dẫn giáo dục trẻ kỹ
năng biết tự bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận, xâm hại còn hạn chế.
-
Ngoài ra, nếp sống gia đình và
những thói quen cũ của học sinh cũng là một
khó khăn lớn trong việc thực hiện,
đa số các bậc phụ huynh chỉ quan tâm đến
việc học chữ, học số, các hoạt động khác không được phụ huynh chú trọng, nâng
cao. Ngoài ra vấn đề trẻ bị người tiếp cận, xâm hại đa phần nhiều phụ huynh còn
chủ quan, ngại ngùng né tránh và không quan tâm đến.
4. Khảo sát thực trạng:
Để tiến hành khảo
sát kiểm tra những kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân của trẻ tại lớp tôi đã xây
dựng phiếu điều tra “Những kỹ năng trẻ có
trong các tình huống cụ thể khi bị người
khác tiếp cận xâm hại” và phát về gia đình trẻ để cha, mẹ hỏi và kiểm tra, đánh giá kỹ năng xử lý tình huống trẻ cần có. Bên cạnh đó tôi
phối hợp cùng với đồng nghiệp tại lớp, chia lớp thành
2 nhóm, mỗi cô sẽ phụ trách một nhóm nhằm kiểm tra, đánh giá
những kỹ năng mà trẻ đã qua việc tạo
tình huống để trẻ thực hành. Từ đó, tôi đánh giá trẻ đã có những kỹ năng gì và
cần phải học thêm những kỹ năng gì và vận dụng kỹ năng đó ra sao.
Kết quả tổng hợp
đầu năm học trên tổng số 45 trẻ như sau:
Tình huống cụ thể
Kỹ năng xử lý trẻ cần có |
Khi có người lạ tới đón tại trường |
Khi có người tiếp cận tại địa
điểm công cộng |
Khi có “khách” tới nhà lúc trẻ ở nhà một mình |
Khi bị xâm hại tình dục |
Khi bị bắt cóc |
- Biết nói “không” với người lạ. |
20/45 (44%) |
15/45 (33%) |
13/45 (29%) |
- |
- |
- Biết gọi và làm theo sự chỉ dẫn của người
đáng tin cậy |
15/45(33%) |
13/45 (29%) |
- |
11/45 (24%) |
10/45 (22%) |
-
Biết số điện thoại của bố mẹ hoặc số khẩn cấp như 113; 114; 115. |
16/45 (36%) |
14/45 (31%) |
14/45 (31%) |
15/45 (33%) |
13/45 (25%) |
- Biết kể lại toàn bộ sự việc với bố mẹ. |
21/45 (47%) |
19/45 (42%) |
16/45 (36%) |
12/45 (27%) |
10/45 (22%) |
- Biết đặc điểm giới tính, một số bộ phận nhạy cảm trên cơ
thể và không cho người khác chạm vào |
- |
- |
- |
13/45 (29%) |
- |
- Biết giữ bình tĩnh, không hoảng hốt. |
15/45 (33%) |
14/45 (31%) |
13/45 (29%) |
12/45 (27%) |
9/45 (20%) |
- Biết
một số cách phản ứng, động tác tự vệ để thoát khỏi nguy hiểm. |
- |
14/45 (31%) |
- |
12/45 (27%) |
11/45 (24%) |
- Không mở cửa cho bất kỳ
ai khi ở nhà một mình, lịch sự từ
chối và hẹn họ, nhắn lại hoặc lúc khác đến gặp bố mẹ. |
- |
- |
15/45 (33%) |
- |
- |
Thông
qua biện pháp này tôi nhận thấy chỉ số ít trẻ lớp tôi biết được những kỹ năng cơ bản để tự bảo vệ bản thân mình khi có người tiếp cận xâm hại (khoảng 30% trẻ, cao nhất có 47% trẻ) nhưng đó chỉ là
đối với những tình huống khá đơn giản, còn đối với nhiều tình huống khác rất
nhiều trẻ chưa nắm được những kỹ năng cơ bản (khoảng 60% - 75% trẻ), một số trẻ
lớp tôi khi mới chỉ nói đến bị bắt cóc đã tỏ thái độ rất sợ hãi và không biết phải làm gì để bản thân
thoát khỏi nguy hiểm hay nhiều trẻ không biết những kiến
thức cơ bản về giới tính, về những hành vi, những cách phản kháng trong tình
huống bị xâm hại tình dục,...Tôi nhận thấy thông qua việc khảo sát sơ bộ này tôi đã tổng hợp được những kỹ năng đã có của trẻ lớp tôi trong
quá trình xử lý các tình huống cụ thể có thể xảy ra trong trường hợp bị người
khác tiếp cận xâm hại. Từ đó, tôi có phương hướng tiếp tục thực hiện các biện
pháp tác động cần thiết nhằm nâng cao nhận thức cũng như kỹnăng của trẻ trong
các tình huống.
III. Các biện pháp
1.
Biện pháp 1: Lựa chọn và lồng ghép các
nội dung giáo dục kĩ năngkhi bị người khác biết cận xâm hại
Bên cạnh các tình huống đưa ra ở
trên thì tôi cũng đã nghiên cứu và xây dựng nội dung giáo dục lồng ghép vào từng tháng xuyên suốt trong một năm học.
Tháng |
Nội dung giáo dục |
Yêu cầu |
9 |
- Bé làm gì khi có người
lạ đến đón? - Bé làm gì khi thấy bạn tự ý ra khỏi trường, lớp. |
-
Trẻ biết nói không khi có người
lạ đến đón về. - Trẻ biết
không được tự ý ra khỏi lớp, một mình ra khỏi trường. |
10 |
- Gia đình yêu
thương của bé.
-
Có người lạ đề nghị mở cửa khi có
một mình ở nhà. -
Bé lớn lên như thế nào?
- Những
vùng “nhạy cảm” trên cơ thể bé cần biết. - Luật bàn tay. |
-
Dạy trẻ biết địa chỉ, họ tên, số
điện thoại của bố mẹ và người thân trong gia đình mình. - Trẻ biết
trả lời “không”
khi có người không quen đến gõ cửa. -
Trẻ biết các bộ phận trên
cơ thể, biết giới tính
của mình, những ai có thể chạm vào cơ thể bé. -
Trẻ biết không để người khác chạm
vào những vùng nhạy cảm. -
Dạy trẻ thuộc lòng “luật bàn
tay”: ôm hôn đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột; nắm tay với thầy cô,
bạn bè, họ hàng; bắt tay với người
đã từng gặp; vẫy
tay chào người
lạ; và xua
tay với người cố tình đụng chạm con
mà con không muốn. |
11 |
- Bé có
thể nhờ sự giúp đỡ từ ai? |
-
Trẻ biết nhờ đến
sự trợ giúp
của chú công an khi đi lạc đường… -
Ngoài số điện thoại của bố mẹ,
trẻ cũng nên biết một vài số điện thoại khẩn cấp tại Việt Nam là: Số 113: Lực lượng cảnh sát phản ứng nhanh. Số 114: Số khẩn
chữa cháy hay khi cần cứu hộ cứu nạn Số 115: Cấp cứu y tế. |
12 |
- Biết kêu cứu và chạy
khỏi nơi, người nguy hiểm. |
- Trẻ biết tạo sự chú
ý, kêu gọi sự giúp đỡ của mọi người khi gặp nguy hiểm, biết một số kỹ năng phản kháng và chạy khỏi nơi nguy hiểm. |
1 |
- Khi đi chơi bé cần nhớ những
gì?
-
Những địa điểm công cộng bé cần biết. |
-
Luôn nắm chặt tay bố mẹ, người
lớn. Không đi theo hoặc nhận quà từ người lạ. -
Trẻ biết một số địa điểm công
cộng có thể chạy đến, hoặc nhờ sự giúp đỡ khi
gặp nguy hiểm. |
2 |
-
Bé có nên ra vỉa hè chơi? |
- Trẻ
không tự ý ra đường chơi khi không có người lớn đi cùng. Nhận biết nguy cơ bị bắt cóc. |
3 |
-
Bé nhớ những gì nào? |
- Dạy trẻ nhớ, kể lại, tóm
tắt những đặc điểm cơ bản, những chi tiết quan trọng, tóm tắt được các sự
việc đặc biệt đã diễn ra. |
4 |
- Bé làm gì khi bị lạc? |
- Trẻ
biết dừng lại, đứng yên và nhìn xung quanh, nếu không thấy bố hoặc mẹ, quay
lại và đi thẳng tìm đến những người có mặc đồng phục, đeo bảng tên (chú công an, bảo vệ...). |
5 |
- An toàn
và lịch sự trong phòng tắm. |
-
Ngoài việc có thể
tự giác vệ sinh các nhân trẻ biết ai có thể giúp trẻ,
có thể được chạm vào cơ thể trẻ. - Trẻ biết
tự mình giữ an toàn
khi tắm như chốt cửa. |
2. Biện pháp 2: Tạo
tình huống cụ thể có nguy cơ cao để trẻ tham gia giải quyết
Bản thân tôi luôn xác định muốn giáo dục
cho trẻ mẫu giáo lớn có kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp cận xâm hại thì việc làm đầu tiên là chính tôi phải nắm chắc về kiến thức
cũng như kĩ năng thực hành. Tôi đã tham khảo sách báo, tìm tòi nghiên cứu các
tài liệu chuyên môn hay tham khảo qua tài liệu về kiến thức cơ bản và kỹ năng
xử lý tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp cận xâm hại đồng thời trực tiếp
tham gia các buổi tập huấn thực tế cũng như trao đổi với tổ chuyên môn và các
giáo viên khác có đề tài nghiên cứu tương tự về mục đích của mình để từ đó xác định được các tình huống cụ thể.
Sau khi nghiên cứu, trao đổi tôi nhận thấy có rất
nhiều địa điểm, thời gian mà trẻ dễ bị tiếp cận, xâm hại, thậm chí là nơi mà chúng ta cho là an toàn nhất, đó chính là nhà, hay trường học. Vì thế,
trẻ cần phải được học kỹ năng xử lý, giải quyết để đảm bảo rằng chính bản thân
mình được an toàn hay ít nhất là giảm nhẹ đi những hậu quả
của những sự việc đó. Có một số tình huống cụ thể đã và đang diễn ra rất nhiều
lần trong trường hợp trẻ bị người khác tiếp cận xâm hại. Những tình huống đó
rất “khẩn cấp” mà ngay lúc đó đòi hỏi bản thân trẻ phải nhanh chóng xử lý nhằm thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm và bản thân được an toàn, hoặc làm giảm bớt đi sự nguy hiểm với bản
thân mình.
Sau đây chính là một số tình huống cụ
thể mà sau khi nghiên cứu tôi nhận thấy trẻ cần phải được trang bị đầy đủ những
kiến thức, kỹ năng cơ bản để có thể thoát khỏi nguy hiểm, giúp bản thân được an
toàn.
Tình huống cụ thể |
Thời gian dễ xảy
ra |
Địa điểm có thể
xảy ra |
1.Khi có người lạ tới trường đón trẻ. |
- Giờ trả trẻ và thời điểm khác khi trẻ chơi |
- Trường mầm non |
2. Khi có người tiếp cận trẻ tại các
địa điểm công cộng. |
- Thời điểm
cha mẹ không
chú ý tới trẻ. -
Thời điểm đông người. |
- Công viên, khu vui chơi công cộng, siêu
thị, bể bơi,... |
3. Khi bị bắt cóc. |
- Lúc trẻ ở 1 mình hay bố mẹ trẻ không chú ý tới trẻ |
- Bất cứ nơi đâu. |
4. Khi có người lạ hoặc quen tới nhà. |
- Lúc trẻ ở nhà một mình. |
- Tại chính nhà trẻ. |
Các tình huống cụ thể và các
trường hợp có thể xảy ra, cách giải quyết ( Phụ lục)
Song
song với việc tìm hiểu nghiên cứu các tình huống cụ thể có thể xảy ra
trong trường hợp trẻ bị người khác tiếp cận xâm hại và những kỹ năng cần có để xử lý những tình huống
đó, tôi tiến hành khảo sát sơ bộ những
kỹ năng mà trẻ lớp tôi đã có trong từng tình huống cụ thể
của trường hợp khi có người tiếp cận xâm hại trẻ.
Với giáo viên mà nói thì giáo viên chỉ cần truyền đạt, lồng ghép những kiến
thức, kỹ năng sống này trong các hoạt động trong tháng để trẻ có thể hình dung ra
và biết cách phòng trừ nếu xẩy ra với chính
trẻ.
Ví dụ: Khi người lạ cho kẹo, rủ đi chơi,
trẻ sẽ làm gì, sẽ vận dụng những kiến thức, kỹ năng ấy như thế nào, sẽ sử dụng
kỹ năng nào trước và kỹ năng nào sau để giải quyết được vấn đề.
Đối với tình huống này đòi hỏi bản thân giáo viên vừa phải kiên trì lại vừa khéo léo, tế nhị để không những trẻ có
thể tiếp thu hết những kiến thức, kỹ năng mà trẻ còn thấy được tầm quan trọng
của đặc điểm giới tính của chính bản thân trẻ. Từ đó ngay ở độ tuổi mầm non trẻ
hình hình nên một “bản năng” để có thể bảo vệ chính mình trong trường hợp nguy
hiểm nhạy cảm này. Ngoài ra tôi còn cung cấp thêm các kỹ năng cần thiết trong tình huống này để trò chuyện,
giáo dục trẻ đó là:
Dạy
trẻ không tự tiện đụng chạm cơ thể người khác: Bên cạnh
việc dạy trẻ không để người khác đụng chạm vào
cơ thể, Tôi nhận thấy cần dạy trẻ tôn trọng cơ thể người khác. Việc này sẽ
tránh cho trẻ bị tò mò về cơ thể người khác, dẫn đến nguy cơ bị lợi dụng và xâm hại.
Dạy trẻ cách chạy thật nhanh hoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác: Để đề phòng
trường hợp không may trẻ bị tấn công, tôi kết hợp cùng bố mẹ trẻ, mọi người xung quanh để đưa ra các giả thiết và
hướng dẫn trẻ cách chạy trốn như có thể dạy trẻ tìm cơ hội lúc kẻ xấu sơ hở để chạy thật nhanh hoặc la hét thật lớn cầu cứu người xung quanh. Ngoài ra,
tôi cũng dạy cho trẻ ghi nhớ số điện thoại của bố mẹ hoặc bất kì người thân nào
trong gia đình để trẻ có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.
Dạy trẻ biết tỏ thái độ dứt khoát khi người khác chạm vào vùng
nhạy cảm: Dạy trẻ tỏ thái độ dứt khoát khi có người cố ý đụng
chạm vào cơ thể con, nhất là các vùng nhạy cảm. Nhấn mạnh việc không ai có quyền đụng chạm vào những vùng nhạy
cảm của con khi chưa được sự cho phép của con, kể cả là ông, bố, những người thân thiết. Nếu ai đó cố tình đụng chạm,
ôm ấp, vuốt ve mà con không thích,
hãy đẩy tay ra và tỏ thái độ không hài lòng, sau đó hét thật to để yêu cầu họ tránh xa ra.
Dạy trẻ về “Luật bàn tay”:
Tôi đã sưu tầm và nhận thấy, có một bài học rất hay và phù hợp với trẻ lứa tuổi 5 - 6
tuổi. Đó là “ Luật bàn tay” và tôi đã dạy trẻ học thuộc lòng “luật bàn tay” : ôm hôn đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em
ruột; nắm tay với thầy cô, bạn bè, họ hàng; bắt tay với người đã từng gặp; vẫy tay chào người lạ; và xua tay với người cố tình
đụng chạm con mà con không muốn.
Luôn nhắc nhở trẻ cần phải ngay lập
tức nói cho bố mẹ biết khi bị ai đó
cố tình đụng chạm cơ thể: Tôi luôn nhắc cho trẻ nhớ rằng: khi bị ai đó đụng chạm vào cơ
thể trẻ, trẻ đã phản ứng lại bằng thái độ gay gắt nhưng họ cố tình làm và sau
đó còn đe dọa trẻ không được nói với ai thì
nhất định phải nói cho bố mẹ biết để bố
mẹ có biện pháp bảo vệ trẻ.
Thông qua biện pháp này tôi đã có kết quả tốt cho việc nghiên cứu để xây dựng ra được 4 tình huống cụ thể mà nguy cơ xảy ra là khá cao. Trong tất cả 4 tình huống, toàn bộ trẻ
lớp tôi đã được thực thành trải nghiệm và các con đều xử lý tình huống theo
trường hợp 2 là nhiều. Các tình huống này đã tạo cho trẻ sự hứng thú, sự mạnh dạn tự tin, sự linh hoạt khi áp dụng những nhận thức, kỹ
năng trẻ đã học vào nhằm xử lý các tình huống. Không những vậy thông qua các
tháng tôi lồng ghép đưa các nội dung giáo dục trẻ để trẻ có kiến thức phòng tránh khi bị xâm hại.
Ảnh minh họa 1: Hình ảnh cô đang
giáo dục trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân khi có người khác tiếp cận xâm hại lồng
ghép vào giờ hoạt động chiều. (Phụ lục)
* Tổ chức cho trẻ thực hành kỹ năng xử lý khi bị người khác tiếp cận tại địa điểm công cộng ( Trường
mầm non vào giờ trả trẻ) và khi
trẻ bị xâm hại tình dục:
Theo tôi, việc trẻ mầm non giai đoạn 5 -
6 tuổi được thực hành, trải nghiệm
trên thực tế những gì được học rất cần thiết và
mang tính quyết định. Thông qua thực
hành trải nghiệm
trẻ sẽ ghi nhớ tốt hơn và trẻ sẽ hình thành các kỹ năng sống
cần thiết cho chính trẻ.
Để thực hiện tốt các
tình huống thì tôi xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường cũng như với các bậc
phụ huynh đưa ra tình huống bị người
khác tiếp cận xâm hại ngay tại trường mầm non. Kết
quả là thông qua tình huống cô và trẻ đã tự
tin hơn, đã nắm chắc chắn hơn những kiến thức và kỹ năng phản ứng, xử lý khi
bị tiếp cận. 100% trẻ lớp tôi đã có kỹ năng biết bảo vệ bản thân khi bị người khác
tiếp cận như không nhận đồ từ người lạ, không tiếp xúc nhanh chóng tìm người
tin cậy tới giúp đỡ, và tìm người thân của mình…
Ảnh minh họa 2: Trẻ chơi tự do sau khi được đón về
và có người lạ tiếp cận
Ảnh minh họa 3: Trẻ nhanh chóng xua
tay từ chối chạy về với người thân (Phụ lục)
Bên cạnh đó, ngoài
tình huống bị người khác tiếp cận xâm hại tại các địa điểm công cộng, tôi nhận thấy tình huống trẻ bị xâm hại tình dục đang là một vấn đề vô cùng nóng. Do đó, gia đình, nhà
trường cần tăng cường cảnh giác, giám sát trẻ để không xảy ra trường hợp đáng
tiếc đối với con em mình. Đồng thời, bố mẹ và cô giáo nên trang bị những kỹ
năng, kiến thức cần thiết để trẻ tự bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm hại tình dục. Nhiều người cho rằng ở độ tuổi mầm non việc giáo dục cho trẻ những kỹ năng về
xâm hại tình dục là quá sớm. Riêng với cá nhân tôi lại không cho là như thế,
ngay từ khi trẻ lên 3 tuổi, trẻ đã bắt đầu có khả năng nhận thức về cơ thể cũng
như biết cách thể hiện cảm xúc, thái độ của mình. Lúc này, trẻ đã có thể bắt
đầu học kỹ năng cơ bản nhất để tự
bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm hại bằng cách tỏ thái độ dứt khoát khi có
người cố ý đụng chạm vào cơ thể con, nhất là các vùng nhạy cảm. Hiện nay vẫn có
rất nhiều bậc phụ huynh còn né tránh, ngại ngùng khi nhắc đến vấn đề này, đây
cũng là vô hình chung khiến trẻ mất đi kỹ năng, kiến thức đáng lẽ ra nó giúp
trẻ bảo vệ chính bản thân mình khỏi
những tôi ác của kẻ tha hóa. Vì thế với tình huống này tôi cũng mạnh dạn xác
định cho trẻ thực hành.
Đây là một tình huống
tế nhị vì thế để thực hiện được tình
huống này, đầu tiên tôi đã phải xin ý kiến của bản thân trẻ và gia đình trẻ
đóng vai trải nghiệm diễn tập. Sau khi được sự cho phép, tôi đã xây dựng lên
tình huống như sau: khi trẻ đang chơi trong ngõ gần trường mầm non, có một chú
hàng xóm gần nhà trẻ đến cạnh, hỏi han và lôi kéo trẻ tới cuối ngõ chỗ vắng
người, sau đó có những hành động như ôm ấp trẻ. Cô mời các nhóm tới 1 địa diểm
khác gần đó để quan sát để xem cách xử lý tình huống của bạn bị xâm hại như thế
nào. Để thực hiện tốt trải nghiệm này thì bản thân tôi và phụ huynh, chú bảo vệ
cùng tham gia. Tôi và trẻ lớp tôi đã đứng quan sát theo dõi hành vi, thái độ
của trẻ thì tôi thấy trẻ đã biết phản ứng rất mạnh mẽ, sau khi nhanh chóng thoát khỏi người đàn ông kia, trẻ
đã chạy ngay ra đường chỗ có người và chạy về tới nhà và tường thuật lại toàn bộ sự
việc cho mẹ trẻ nghe. Qua đó tôi nhận thấy trẻ đã nhớ những bài học mà tôi đã truyền thụ cho trẻ. Từ đó, tôi tiếp
tục giáo dục những trẻ còn lại trong lớp qua cách xử lý của bạn hoặc hỏi những trẻ còn lại xem cách
xử lý của bạn như vậy đã
đúng chưa?
Ảnh minh họa 4: Cô tổ chức cho trẻ đi quan sát,
trải nghiệm tình huống.
Ảnh minh họa 5: Tình huống trẻ đứng chơi 1
mình.
Ảnh minh họa 6: Người lạ tiếp cận trẻ và cho
trẻ kẹo, trẻ có nguy cơ bị xâm hại Ảnh minh họa 7: Trẻ phản kháng chạy và kêu
cứu. (Phụ lục)
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
3. Biện pháp 3: Phối kết hợp với phụ huynh của lớp để giáo dục
trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân khi có
người khác tiếp cận xâm hại ở mọi lúc mọi nơi:
Trẻ em phần lớn thời gian là ở trường,
nhưng cũng không ít thời gian của trẻ ở nhà bên cha mẹ (đó là thời gian trẻ về
nhà sau giờ học, thời gian buổi sáng trước khi trẻ đi lớp, những ngày nghỉ cuối tuần, lễ tết…). Việc giáo dục trẻ biết tự
bảo vệ bản thân trong khi có người tiếp cận xâm hại lại cần được rèn luyện thường
xuyên, liên tục và ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt là trong hoàn cảnh thực tế. Vì
thế, tôi nhận thấy việc tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh dạy trẻ ở nhà để
để trẻ có thêm kỹ năng là rất cần thiết. Để giáo dục tốt các con thì giáo viên
và phụ huynh luôn phải là song đôi đi cùng
nhau để giúp các con tiếp thu tốt nhất.
Đầu tiên tôi giúp phụ huynh có kiến thức
cơ bản, có sự rèn luyện đúng đắn về
kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi ngoài trường học. Qua đó, bản
thân tôi đã phối hợp cùng gia đình rèn luyện và uốn nắn trẻ, giúp trẻ thuần
thục và chính xác hơn trong các động tác, cách xử lý.
Bảng tuyên truyền của
trường là không thể thiếu của mỗi nhà trường vì ở đó là thông tin của nhà
trường với gia đình. Tại bảng tuyên truyền này có tất cả các thông tin cần đưa đến với phụ như từ những thông tin chuyên
môn, các thông tin công khai tài chính đến các tin
tức, hay những kỹ năng trẻ cần có để bảo vệ bản thân trong các trường hợp nguy
hiểm. Tại bảng tin nhà trường cũng đưa các nội dung thông tin về sự nguy hiểm
khi trẻ bị người khác tiếp cận xâm
hại và các nội dung trong
bảng biểu còn được thay đổi thường
xuyên. Những nội dung tuyên truyền ở đây rất thực tế vì nó phản
ánh các hoạt động, kỹ năng bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận xâm hại nên
rất được phụ huynh chú ý mỗi khi đón trả trẻ. Bảng còn dành riêng một vài ô nhỏ
để mang đến những thông tin về một số câu chuyện, tai nạn đáng tiếc vừa xảy ra
trong thời điểm đó để phụ huynh nâng cao ý thức cũng như thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện cho trẻ kỹ
năng biết bảo vệ bản thân trong trường hợp trẻ bị người khác tiếp cận xâm hại.
Tại các buổi gặp mặt
trong kế hoạch họp phụ huynh của lớp đầu năm, giữa năm và cuối năm, tôi cũng có
dịp trao đổi kinh nghiệm cũng như những kỹ
năng, kiến thức của bản thân và hỗ trợ cho phụ huynh những kiến thức đúng đắn,
cần thiết về cách giáo dục trẻ biết bảo vệ bản thân trong trường hợp trẻ bị
người khác tiếp cận xâm hại. Bên cạnh đó tôi đã xây dựng kế hoạch tuyên truyền
với phụ huynh theo từng tháng tương ứng với nội dung dạy trẻ trên lớp. Kế hoạch
tuyên truyền này được tôi phô tô và phát đến tận tay từng phụ huynh ở trên lớp.
Cụ thể kế hoạch theo từng tháng tương ứng với nội dung giáo dục trẻ tại lớp như
sau:
THÁNG |
NỘI DUNG TUYÊN
TRUYỀN |
9 |
Sự nguy hiểm khi trẻ bị người khác tiếp cận xâm
hại. Hôm nay ai đón con khi tan học ? |
10 |
Cha mẹ cùng học: Luật bàn tay với bé |
11 |
Những số điện thoại cần thiết con nên nhớ. |
12 |
Cách phản kháng cơ bản. |
1 |
Những người xa lạ đáng tin cậy. |
2 |
Cha mẹ ý thức, con trẻ an toàn. |
3 |
Đi chơi cùng cha mẹ, con cần nhớ điều gì ? |
4 |
Nhà mình ở đâu ? |
5 |
Khi đi tắm con cần nhớ điều gì ? |
Không những vậy, tôi còn vận động phụ huynh tham gia vào các hoạt động
tuyên truyền như vẽ tranh,
sáng tác thơ, nhạc, câu chuyện về vấn đề giáo dục giáo
dục trẻ có những kiến thức, kỹ năng biết bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp
cận xâm hại và được phụ huynh hưởng ứng mạnh mẽ. Tôi đã sưu tầm thêm các bài thơ, bài hát về kỹ năng bảo vệ bản
thân hay nói tới sự nguy hiểm khi các
tình huống cụ thể xảy ra trong thực tế. Sau đó phô tô và đưa cho phụ huynh
tham khảo.
Tiếp đó, tôi đã trao đổi với phụ huynh
về kỹ năng và các thao tác thực hiện để khi về nhà phụ huynh có thể nhắc
nhở và hướng dẫn con cùng thực hiện.
Sau một thời gian thực hiện biện pháp
này, qua những buổi trò chuyện khi phụ huynh đưa con tới lớp hay những buổi
chiều các con được bố mẹ đón về. Tôi nhận thấy phụ huynh đã có những hiểu biết
ban đầu cũng như thấy được tầm quan trọng trong việc giáo dục trẻ biết bảo vệ bản thân khi có người tiếp
cận xâm hại ngay khi còn ở độ tuổi mầm non và đã thường xuyên tạo cho con phản
xạ cũng như kỹ năng cần thiết để tự bảo vệ bản
thân.
IV. Kết quả đạt được:
Sau một
thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một
số biện pháp giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi biết bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận
xâm hại” tôi đưa ra bảng tổng hợp kết quả khảo sát trẻ vào giữa năm học (từ
tháng 9 đến tháng 12)
cụ
thể
Kỹ năng xử lý trẻ cần có |
Khi có người lạ tới đón tại trường |
Khi có người tiếp cận tại địa
điểm công cộng |
Khi có “khách” tới nhà lúc trẻ
ở nhà một mình |
Khi bị xâm hại tình dục |
Khi bị bắt cóc |
- Biết nói “không” với người lạ. |
44/45 (98%) |
44/45 (98%) |
43/45 (96%) |
- |
- |
- Biết
gọi và làm theo sự chỉ dẫn của người đáng tin cậy |
45/45 (100%) |
44/45 (98%) |
- |
43/45 (96%) |
43/45 (96%) |
- Biết số điện thoại của bố mẹ hoặc số khẩn
cấp như 113; 114; 115. |
45/45 (100%) |
45/45 (100%) |
44/45 (98%) |
44/45 (98%) |
44/45 (98%) |
- Biết kể lại toàn bộ sự việc với bố mẹ. |
43/45 (96%) |
43/45 (96%) |
44/45 (98%) |
42/45 (93%) |
42/45 (93%) |
- Biết đặc điểm giới tính, một số bộ phận nhạy cảm trên cơ thể và không
cho người khác chạm vào |
- |
- |
- |
43/45 (96%) |
- |
-
Biết giữ bình tĩnh, không hoảng hốt. |
42/45 (93%) |
44/45 (98%) |
43/45 (96%) |
44/45 (98%) |
43/45 (96%) |
- Biết một số cách phản ứng, động tác tự
vệ để thoát khỏi nguy hiểm. |
- |
41/45 (91%) |
- |
43/45(96%) |
44/45 (98%) |
- Không mở cửa cho bất
kỳ ai khi ở nhà một mình, lịch sự
từ chối và hẹn họ, nhắn lại hoặc lúc khác đến gặp bố mẹ. |
- |
- |
44/45 (98%) |
- |
- |
Kỹ năng đạt được với giáo viên: Có thêm kiến thức, kĩ năng, nâng cao
trình độ chuyên môn trong việc giáo dục trẻ ý thức việc từ bảo vệ mình; Vận dụng
chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ có hiệu quả
Kỹ
năng đạt được với phụ huynh: Hiểu, có thêm kiến thức để dạy con cách phòng, tránh
những mối nguy hiểm cho con em khi bị người khác tiếp cận xâm hại; Dành nhiều thời gian để trò chuyện, giải thích
cho con mình những vấn đề xung quanh việc có nhiều mối nguy hiểm từ người khác
mà con cần phòng tránh và biết cách xử lí khi xảy ra một trong nhhuwngx tình huống
đó; Phối hợp nhịp nhàng với giáo viên chủ nhiệm để cùng trao đổi, có biện pháp
phòng tránh hiệu quả cho con.
Kỹ
năng đạt được với học sinh: Thông qua bảng kết quả, học sinh bước đầu biết được
những điều cần phòng tránh và xử lý khi bị người khác tiếp cận xâm hại.
C. KẾT
LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I.
Kết luận:
Giáo dục trẻ biết bảo vệ bản thân khi bị
người khác tiếp cận xâm hại đóng vai trò quan trọng trong
quá trình giáo dục hình thành thói quen cũng như kỹ năng
biết bảo vệ chính bản thân mình nhằm thoát khỏi nguy hiểm. Công việc này giúp
bảo vệ sức khỏe, tính mạng góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho
trẻ. Việc rèn luyện kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân khi có người
tiếp cận xâm hại cho trẻ mẫu giáo phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục, có hệ thống.
Bên cạnh đó, phải kết hợp chặt chẽ việc cung cấp kiến thức về vấn đề xung quanh vấn đề khi bị người khác tiếp
cận xâm hại như nguy cơ nào có thể xảy ra, tác
hại, sự nguy hiểm của chúng đối với bản thân trẻ và việc rèn luyện các kỹ năng
giúp trẻ nâng cao khả năng thực hiện.
II.Bài học kinh nghiệm:
Ngay từ đầu năm học,
giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Thường xuyên học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng về cách tự bảo vệ bản thân khi bị người lạ tiếp cận xâm hại một cách thuần
thục để có thể dạy trẻ tốt hơn.
Tiếp cận và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chương
trình chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non vào quá trình rèn luyện kỹ năng bảo vệ bản
thân cho trẻ. Phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với phụ huynh học sinh trong việc rèn luyện
kỹ năng cho trẻ.Thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, rút ra bài học kinh nghiệm
cho bản thân.
III. Khuyến nghị và đề xuất:
Tôi mong Phòng
Giáo dục và Đào tạo tăng cường tổ chức cho giáo viên được tham gia kiến tập các
hoạt động lồng ghép giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân tại các trường
điểm.
Trên đây là một
số kinh nghiệm giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi biết tự bảo vệ bản thân khi có người
khác tiếp cận xâm hại tại trường mầm non. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các bạn đồng nghiệp, các đồng chí lãnh đạo để bản sáng kiến của tôi
hoàn thiện hơn!
Tôi xin chân
thành cảm ơn!
Tôi xin cam đoan sáng kiến này do tôi tự làm, không sao chép của ai và
tôi xin chịu trách nhiệm |
Hà
nội,
ngày 10 tháng 03 năm 2020
Người viết
Nguyễn Lan Hương
|
biên).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo dục học, NXB Giáo dục -
1999 Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên).
2.
Giáo dục học mầm non, NXB Đại học sư phạm Đào Thanh Âm (chủ
3.
Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, NXB Đại học sư phạm. Nguyễn
Ánh
Tuyết (chủ biên).
4.
Chương trình giáo
dục mầm non, NXB Giáo dục Việt Nam.
5.
Giáo
dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non,NXB Đại học
quốc gia Hà Nội. PGS. TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc – TS. Đinh Thị Kim Thoa, ThS. Phan
Thị Thảo Hương.
6. Báo điện tử phunuonline.com.vn
7. Báo điện tử vnexpress.net
MỤC
LỤC
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ............................................................................. 3
d. Khảo sát thực trạng……………………………………………………………4
a) Biện pháp 1: Lựa chọn nội dung giáo dục kĩ năng……………………………6
b) Biện pháp 2: Tạo tình huống
cụ thể có nguy cơ cao để trẻ tham gia giải quyết 8
c) Biện pháp 3: Phối kết hợp với phụ
huynh của lớp để giáo dục trẻ kỹ năng bảo vệ bản
thân khi có
người khác tiếp
cận xâm hại
ở mọi lúc mọi nơi…………………………………………………………………………………11
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.......................................................... 15
2. Bài học kinh nghiệm:............................................................................... .15
3. Khuyến nghị và đề xuất:........................................................................... 15
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
PHỤ LỤC: ẢNH MINH HỌA
Ảnh minh họa 1: Hình ảnh cô đang giáo dục trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân khi có người khác tiếp cận xâm hại lồng ghép vào giờ hoạt động chiều.
Ảnh minh họa 2: Trẻ chơi tự do sau khi được đón về và có người lạ
tiếp cận
2/20 |
Ảnh
minh họa 4: Cô tổ chức cho trẻ đi quan sát trải nghiệm tình huống.
Ảnh minh họa 5: Tình
huống trẻ đứng chơi một mình.
PHỤ LỤC TÌNH HUỐNG
Dưới đây là
những tình huống tôi đã xây dựng và áp dụng trên trẻ của lớp
( Giáo viên đưa ra cách giải quyết và giáo dục trẻ) Tình huống 1:
- Khi trẻ được bà đón về, sau đó bà cho
ra sân trường chơi, mải chơi nên Hằng đã ra khỏi tầm nhìn của bà. Có một cô đi
tới gần Hằng, hỏi chuyện Hằng, cho hằng kẹo, sau đó rủ hằng ra ngoài cùng đi
mua búp bê tiếp.
Mục tiêu cần đạt:
- Trẻ biết không được
đi cùng người lạ, biết nói cảm ơn và tránh xa.
- Trẻ có kĩ năng phòng tránh:
+
Tuyệt đối không nhận, cầm, ăn đồ của người lạ
+
Không tiếp cận, tiếp xúc với người đó nữa
+
Nhanh chóng đi ra chỗ người thân và kể lại sự việc cho người thân
- Trường hợp 1: Trẻ
vui vẻ nhận kẹo và ra ngoài, cùng cô đi mua búp bê.
- Cô đến gần và trò
chuyện:
+ Con có biết cô là
ai không?
+ Nếu cô có ý định
xấu, ví dụ như lừa con ra ngoài và bắt cóc con thì sao?
- Giáo dục: Vì con chưa
bao giờ gặp cô cũng như con chưa quen cô. Có thể cô là người xấu đóng giả đến
tiếp cận con. Nếu con về ra ngoài sẽ có chuyện xấu xảy ra và có thể con sẽ
không được về nhà với bố mẹ nữa.
-
Trường
hợp 2: Trẻ cảm ơn
và không nhận kẹo của cô đồng thời chạy về phía bà, vừa chạy vừa gọi to bà.
- Cô tới gần và trò chuyện:
+
Vì sao con rất thích búp bê mà không ra ngoài đi mua với cô?
-
Giáo
dục: Con và cô không quen biết, tuyệt đối con không được nhận kẹo
của cô, nhanh chóng chạy ra chỗ bà và kể cho bà
nghe và con có quen, thì con vẫn phải chạy đến xin phép hỏi ý kiến của
bà nữa. Cô khen ngợi và nêu gương trẻ trước lớp.
Ở trường hợp này tôi nhận thấy việc dạy trẻ kỹ năng tránh xa
người lạ đòi hỏi thời gian, sự kiên trì và sự khéo léo của giáo viên,
bởi bản thân trẻ dễ bị nhầm lẫn
trước việc người cho mình quà là người tốt và người lạ cho quà. Tuy vậy, không phải các con đều không nhận thức được,
các con có thể cảm nhận được nguy hiểm từ người lạ.
Tình huống 2:
- Hôm nay, mẹ bạn Oanh đến đón muộn, có
một bác nói rằng bác là người quen của mẹ Oanh và mẹ Oanh nhờ bác đón. Nhưng
Oanh lại chưa gặp bác bao giờ. Nếu trong tình huống đó, con có về với bác
không? Vì sao?
Mục tiêu cần đạt:
- Trẻ biết không được
về với người lạ.
- Trẻ có kĩ năng phòng
tránh: không tiếp xúc, không đi theo người lạ.
- Trường hợp 1: Trẻ về cùng bác người quen của mẹ.
- Cô đến gần và trò chuyện:
+ Con có biết bác là
ai không? Con đã gặp bác bao giờ chưa?
+ Chuyện gì xảy ra
nếu bác không phải là người quen của mẹ con?
-
Giáo
dục: Vì con chưa bao giờ gặp bác cũng không quen bác. Có thể bác
là người xấu đóng giả đến đón con. Nếu con về cùng bác sẽ có chuyện
xấu xảy ra và có thể con sẽ
không được về nhà với bố mẹ nữa.
- Trường hợp 2: Trẻ không về với bác.
- Cô
đến gần và trò chuyện
+ Vì sao các con
không về với bác?
+ Cô sẽ gọi điện hỏi
bố mẹ xem có đúng là nhờ người đến đón con không?
- Giáo dục: Cô gọi điện mà đúng bố mẹ bạn đã nhờ người
đến đón cô sẽ giải thích
với trẻ và mời trẻ về. Cô khen ngợi và nêu gương trẻ vì trẻ biết đề phòng khi có người lạ đến đón.
Tình huống 3:
- Giả định khi Ngọc ở nhà một mình, có người đến gọi cửa, nói ngoài trời mưa, muốn xin trú
mưa nhờ một lát.
Mục tiêu cần đạt:
- Tuyệt đối không mở
cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ.
-
Lịch sự từ chối, có thể hẹn họ nhắn
lại gì hoặc lúc khác đến gặp bố mẹ
(nếu là người quen).
- Trường hợp 1: Trẻ mở
cửa cho người lạ trú mưa nhờ.
- Cô đến trò chuyện
với trẻ:
+ Con có biết người
gọi cửa là ai không?
+ Chuyện gì sẽ xảy
ra khi người đó là kẻ xấu?
- Giáo dục: Nếu con
mở cửa cho người lạ đó mà người đó lại là kẻ xấu thì con sẽ gặp nguy hiểm đấy.
Mặc dù cô biết giúp người khác khi họ gặp khó khăn là tốt. Nhưng khi con ở nhà
một mình mà có người tới gọi cửa con hãy nhớ từ chối mở cửa và hẹn họ vào dịp
khác khi có bố mẹ con ở nhà nhé.
-
Trường
hợp 2: Trẻ lịch sự
từ chối mở cửa và nhét áo mưa qua khe cửa cho người lạ.
- Cô đến trò chuyện với trẻ.
+ Vì sao con không
mở cửa cho người người lạ?
- Giáo dục: Cô khen ngợi và nêu gương trẻ trước lớp.
Tình huống 4:
- Vân được mẹ đón về và mẹ Vân cho ra sân trường chơi, đang chơi bố bạn
B gọi Vân lại và rủ Vân ra sân sau trường để chơi
cùng B. Vân đi cùng bố B ra sân sau, bố B lại rủ Vân ngồi xích đu ở đó cho Vân
kẹo và bắt đầu chạm tay vào cơ thể Vân.
Mục tiêu cần đạt:
- Tỏ thái độ dứt khoát
khi người khác chạm vào vùng nhạy cảm.
- Dạy trẻ cách chạy
thật nhanh hoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác
- Nói cho bố mẹ biết
khi bị ai đó cố tình đụng chạm cơ thể.
-
Trường
hợp 1: Trẻ sợ hãi ngồi im và
để bố B tiếp tục thực hiện hành vi của mình.
- Cô tới gần trẻ trò chuyện:
+ Con có biết bố B
vừa làm gì không? Theo con hành vi đó là đúng hay sai?
+ Tại sao con lại
không phản ứng trước hành động của bố bạn B?
-
Giáo
dục: Khi gặp những người có các hành động đụng chạm vào cơ thể mình các con hãy phản kháng mạnh mẽ, chạy thật nhanh thoát khỏi người đó, tìm kiếm sự giúp đỡ của người xung quanh và kể
lại sự việc đó cho bố mẹ mình.
- Trường hợp 2: Trẻ không cho bố B chạm vào
và chạy nhanh về phía mẹ mình.
- Cô trò chuyện:
+ Tại sao con lại
phản ứng như vậy?
- Giáo dục: Cô khen ngợi và nêu gương trẻ trước lớp.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/