1. Lời giới thiệu
Toán học là môn khoa học cơ bản, có vai trò quan trọng không chỉ trong nhà trường mà còn trong đời sống của con người. Dạy và học toán nói chung và
với đối tượng học sinh tiểu học nói riêng yêu cầu phải sử dụng linh hoạt và hợp lí các phương pháp dạy học từ truyền thống đến hiện đại. Việc phối hợp sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh sẽ nâng cao được chất lượng dạy học bộ môn và đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Nhận thức được điều đó, tập thể giáo viên trường Tiểu học Chấn Hưng chúng tôi luôn luôn tìm tòi, vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học mới một cách phù hợp ở tất cả các bộ môn trong đó có môn Toán.Nhiệm vụ giảng dạy môn Toán trong nhà
trường là trang bị cho học sinh những kiến thức nền tảng, cơ bản nhất. Để học
sinh học tập một cách chủ động, linh hoạt; và sáng tạo, biết vận dụng kiến thức
lí thuyết sách vở vào thực tiễn thì giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học linh hoạt để kích thích sự tò mò, ham khám phá, chiếm lĩnh
kiến thức của học sinh.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Qua nhiều năm giảng dạy và bồi dưỡng
học sinh lớp 5 – lớp cuối bậc Tiểu học, tôi nhận thấy việc giúp học sinh hiểu
và vận dụng kiến thức một cách hiệu quả của các môn học nói chung và môn Toán
nói riêng là vấn đề không đơn giản với
mỗi giáo viên. Học toán đòi hỏi ở mỗi học sinh sự huy động tư duy vào chiếm
lĩnh kiến thức vào việc giải toán và hình thành các kĩ năng học toán. Thực tế
giảng dạy cho thấy, những em có khả năng nhận thức tốt thì say mê học tập.
Những em yếu kém thì lười học, sợ học và chán học môn toán nên dẫn đến kết quả
học tập hạn chế. Chương trình môn Toán 5 có nội dung được sắp xếp thành các
dạng toán điển hình như: Số thập phân – các phép tính với số thập phân; Số đo
thời gian – toán chuyển động đều; ... Trong đó dạng toán về chuyển động đều là
dạng toán tương đối khó và mới mẻ với học sinh, nhiều em gặp khó khăn khi học
dạng toán này. Thực tế cho thấy, khả năng hiểu, nắm bắt nội dung và trình bày
bài toán về chuyển động của học sinh còn nhiều hạn chế (ở nhiều mức độ khác
nhau). Học sinh chỉ giải được các bài toán này khi các dữ kiện được cho một
cách tường minh. Vì vậy học sinh thiếu đi sự tư duy lo-gic, vận dụng kiến thức
một cách sáng tạo. Một phần nữa nhiều giáo viên chưa có phương pháp hướng dẫn
cụ thể, chưa giúp học sinh hiểu bản chất và cách giải của bài toán.
Để góp phần nâng cao cao hiệu quả dạy
và học môn toán lớp 5 nói chung và dạng toán chuyển động đều nói riêng, tôi đã
đầu tư thời gian nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán
chuyển động đều cho học sinh lớp 5”. Tôi muốn giúp học sinh biết tư duy một
cách tích cực và linh hoạt, huy động hết các kiến thức và khả năng sẵn có vào
các tình huống khác nhau, trong điều kiện phải biết phát hiện những dữ kiện hay
điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và ở chừng mực nào đó, phải biết
suy nghĩ, vận dụng vào phân tích, tìm lời giải cho các bài toán có nội dung
phát triển cao hơn. Để đạt được những mục tiêu đề ra của môn học, điều đầu tiên
là mỗi giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, nội dung kiến thức có thể khai thác
trong từng bài học, phần nội dung. Một yếu tố nữa không kém phần quan trọng là
giáo viên phải sử dụng những phương pháp dạy và học tích cực, tạo hứng thú cho
học sinh trong học toán. Góp phần phát triển năng lực tư duy, phân tích tổng
hợp các dạng bài nói chung và dạng toán chuyển động đều nói riêng.
2.
Tên sáng kiến: “Một
số biện pháp rèn kĩ năng giải toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5”
3. Tác giả sáng kiến:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
5.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
5.1.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến có thể áp dụng để rèn kĩ năng giải các bài toán có nội
dung liên quan đến dạng toán chuyển động đều cho học sinh khối lớp 5 trong nhà
trường Tiểu học.
- Áp dụng bồi
dưỡng học sinh năng khiếu, các câu lạc bộ toán học trong và ngoài nhà trường.
- Bồi dưỡng học
sinh tham gia các sân chơi trí tuệ, các cuộc thi học sinh năng khiếu môn Toán.
5.2.
Vấn đề mà sáng kiến giải quyết
- Giúp
học sinh có kĩ năng trong việc tìm hiểu, phân tích bài toán và phương pháp giải
dạng toán một cách nhanh và chính xác.
- Học sinh biết nhận
diện dạng toán, phân tích các dữ kiện đã có và yêu cầu tính của đề toán để tìm
lời giải cho bài toán bài toán.
- Đề xuất một số
nội dung và ý kiến để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học dạng toán chuyển
động đều trong môn Toán lớp 5.
- Góp phần nâng
cao kết quả học tập môn toán của học sinh lớp 5 nói chung và phần toán chuyển
động nói riêng. Từ đó nâng cao chất lượng dạy và học, tránh trường hợp học sinh
ngồi nhầm lớp.
6.
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Sáng kiến bắt đầu được áp dụng từ tháng 04 năm 2019
7.
Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
7.1.1. Cơ sở lí luận:
Toán học luôn gắn liền với thực tế
của cuộc sống con người từ xưa đến nay. Mục tiêu hàng đầu của dạy học toán là
trang bị kiến thức, kĩ năng, phương pháp học tập khoa học và sáng tạo, góp phần
quan trọng trong việc xây dựng khả năng tư duy cho học sinh nhất là với học
sinh tiểu học. Dạy và học toán ở Tiểu học đòi hỏi vận dụng linh hoạt các phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với mục tiêu, nội dung và khả năng nhận
thức, đặc điểm tâm sinh lí của học sinh. Toán học mang tính trừu tượng, khái
quát cao nhưng nhưng lại có một ý nghĩa vận dụng vào thực tiễn rất lớn. Các bài
toán có nội dung chuyển động cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng với cuộc
sống con người cũng như trong nghiên cứu khoa học. Khi dạy học dạng toán chuyển
động đều, giáo viên cần vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học, nắm được mối
quan hệ giữa toán học và thực tế đời sống. Giúp học sinh có kĩ năng giải quyết
các bài toán một cách hiệu quả.
7.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Để học
sinh giải quyết được các bài toán có nội dung về chuyển động đều, giáo viên
phải giúp các em nắm chắc các đại lượng vận
tốc, quãng đường, thời gian và mối quan hệ giữa các đại
lượng đó. Bản chất của bài toán là dựa vào các dữ kiện đã cho để tìm ra lời
giải qua mối quan hệ của các đại lượng như:
v = s : t ; s
= v × t ; t = s : v
(Trong
đó: s là kí hiệu của quãng đường; v là kí hiệu của vận tốc; t là kí hiệu của thời gian)
Để phù
hợp với nhận thức của học sinh tiểu học, giáo viên cần hình thành cho học sinh
kĩ năng giải toán bằng phương pháp số học. Học sinh hiểu được nội dung bài
toán, tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng (là phương pháp trực quan hiệu quả
nhất) và tìm ra các bước giải cho bài toán.
Ví dụ cụ thể minh họa cho cơ sở thực tiễn: Một ô tô đi
được quãng đường dài 170km hết 4 giờ. Hỏi trung bình mỗi giờ ô tô đó đi được
bao nhiêu ki-lô-mét ?
Để giải
bài toán này giáo viên giúp học sinh tìm hiểu đề bài, gợi ý cho học sinh vẽ
được sơ đồ đoạn thẳng minh họa và giải bài toán như sau:
Phân
tích: Ta coi quãng đường ôtô đi trong 4 giờ là một đoạn thẳng (ứng với 170 km),
chia đoạn thẳng thành 4 phần bằng nhau. Như vậy độ dài của mỗi phần là quãng
đường trung bình ôtô đi trong một giờ.
7.2. Về nội dung sáng
kiến
7.2.1. Thực
trạng dạy và học dạng toán chuyển động đều ở lớp 5
7.2.1.1. Thực trạng
Trong chương trình toán lớp 5, nội
dung về toán chuyển động đều được đánh giá là khá phức tạp. Khi giảng
dạy, chúng tôi luôn thực hiện nghiêm túc và đầy đủ nội dung đồng thời tìm tòi
thêm các nội dung các bài luyện tập giúp học sinh củng cố nắm vững kiến thức.
Để nắm được kết quả dạy và học dạng toán chuyển động đều ở trường mình, khi các
em học về dạng toán này tôi đã tiến hành dự giờ thăm lớp, đồng thời cho các em
làm một bài kiểm tra ngắn gồm 3 bài tập về dạng toán này. Đề kiểm tra được
thiết kế đảm bảo nội dung trong chương trình sách giáo khoa, các bài được sắp
xếp theo thứ tự từ dễ đến khó.
Bài 1: Một chiếc ca
nô đi với vận tốc trung bình là 15,2 km/giờ. Tính quãng đường đi được của ca nô
đó trong 3 giờ. (BT1 – trang 141, SGK
Toán 5).
Bài 2: Một chiếc
xe máy đi qua một chiếc cầu dài 1520m hết 2 phút. Tính vận tốc của chiếc xe máy
đó với đơn vị đo là km/giờ. (BT2 – trang
144, SGK Toán 5).
Bài 3: Một xe máy
đi từ A lúc 7 giờ 35 phút với vận tốc 36 km/giờ. Đến 10 giờ 5 phút một ô tô
cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận tốc 54 km/giờ. Hỏi ô tô đó đuổi kịp xe
máy vào lúc mấy giờ ? (BT3 – trang 146,
SGK Toán 5).
Sau khi tổng hợp số liệu, kết quả thu được ở các lớp như
sau:
Bài toán |
Tóm tắt chính xác |
Giải chính xác |
||||
Lớp |
Lớp |
|||||
5A |
5B |
5C |
5A |
5B |
5C |
|
Bài 1 |
86% |
80.5% |
82% |
86% |
78.5% |
80% |
Bài 2 |
77.5% |
70.5% |
68% |
75% |
67% |
63% |
Bài 3 |
52% |
37.6% |
30% |
45.5% |
32% |
24.5% |
Qua kết quả thu được tôi nhận thấy trình độ nhận
thức của các lớp không chênh lệch nhiều nhưng so với yêu cầu về kĩ năng
giải toán thì còn rất thấp. Qua phân tích kết quả thu được, tôi thấy có một số
nguyên nhân nổi bật sau :
* Về học sinh:
Các em chưa
thực sự nắm chắc kiến thức về dạng toán chuyển động, còn tình trạng các em chưa
đọc kĩ, chưa hiểu hết nội dung và yêu cầu đề bài. Một số em hiểu nhưng tóm tắt
bài toán chưa tốt, việc tìm ra các dữ kiện của bài toán rất khó khăn. Các em
còn nhầm lẫn mối quan hệ giữa các đại lượng như quãng đường, vận tốc, thời gian, chưa thành thạo trong việc đổi các
đơn vị đo trong bài toán.
* Về giáo viên:
Giáo viên còn chưa thay đổi được thói quen giảng giải nhiều
làm cho các em mất đi tính sáng tạo, tiếp thu bài một cách thụ động và giải toán
một cách máy móc theo bài mẫu hay cách giải mẫu của thầy cô.
Hơn nữa, các hình thức tổ
chức dạy học còn nghèo nàn, chủ yếu là giáo viên giảng mẫu – học sinh làm theo
mẫu. Giáo viên chưa thực sự là người tổ chức hướng dẫn để học sinh chủ động
chiếm lĩnh kiến thức (như thảo luận nhóm, trao đổi cặp, liên hệ thực tế,...).
Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp thu kiến thức mới của các em,
học sinh không hiểu bản chất của bài toán cũng như tìm ra các phương pháp giải
tối ưu nhất cho bài toán.
7.2.1.2. Nguyên nhân:
Thực tế cho thấy, việc dạy và học dạng toán chuyển động đều
ở khối lớp 5 trường tôi còn nhiều bất cập. Giáo viên chưa nhận thức hết được
tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đổi mới các phương pháp dạy học, chưa nắm
được hết mặt mạnh, mặt hạn chế của từng phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học. Giáo viên chưa nghiên cứu sâu bài dạy, còn lệ thuộc vào sách hướng dẫn
(SGK, SGV), thiếu sự vận dụng sáng tạo trong mỗi bài học. Giáo viên còn tham
kiến thức, chưa xác định được trọng tâm bài dạy, hay kéo dài thời gian dẫn đến
tâm lí học sinh không hứng thú trong giờ học. Việc lựa chọn nội dung dạy học,
sắp xếp hợp lí nội dung kiến thức từ đơn giản đến phức tạp, từ làm theo mẫu đến
vận dụng vào thực tế còn nhiều hạn chế. Do đây là một dạng toán tương đối khó
với học sinh, có nhiều mối quan hệ và thuật ngữ toán học trừu tượng nên học
sinh gặp nhiều khó khăn, chất lượng đạt được chưa đáp ứng với yêu cầu đề ra.
7.2.2. Một số biện pháp
thực hiện:
7.2.2.1. Mục đích:
- Giúp
giáo viên có nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của nội dung toán
chuyển động đều trong chương trình toán 5. Biết lựa chọn một cách phù hợp và
sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hiệu quả, lựa chọn và sắp
xếp nội dung dạy học hợp lí phù hợp với đặc điểm học sinh của mình.
- Giúp
học sinh lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và phù hợp với khă năng. Tránh
những sai sót trong phân tích đề và giải toán, có sự vận dụng sáng tạo nội dung
kiến thức trong học tập và cuộc sống.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
7.2.2.2. Phương pháp:
Dạng toán chuyển động đều ở lớp 5
thục chất là dạng
bài toán về các
số đo đại lượng. Các bài toán liên
quan đến 3 đại lượng cơ bản là quãng đường (s), vận tốc (v) và thời gian (t).
Nội dung cac bài toán được đưa
ra thường là: Cho biết
một hay một
số các đại lượng trong
một mối
liên hệ nào đó với
các đại lượng còn lại trong một chuyển động đều. Tìm các yếu tố còn lại chưa biết. Vì vậy, mục đích chính của
nội dung dạy học nội dung toán chuyển động đều là giúp học sinh phân tích dữ kiện đề bài kết
hợp với kiến thức lí thuyết để tìm hiểu được mối quan hệ giữa đại lượng đã biết và đại lượng chưa biết (cần tìm), chỉ ra và thực hiện phép tính,
trình bày lời
giải cho bài
toán.
Nhằm đạt được mục đích trên, giáo viên
cần chú ý đến các nội dung sau:
- Giúp học sinh biết giải bài toán bằng
nhiều cách khác nhau nhất có thể.
- Lường trước những tồn tại, sai lầm và
những khó khăn học sinh sẽ gặp phải khi học nội dung này.
- Giúp học sinh nắm vững các khái niệm
(lí thuyết), mối quan hệ giữa các đại lượng và thực hiện các bước giải bài toán
một cách chính xác.
-
Rèn cho học sinh có năng khiếu toán học khả năng tổng hợp, nhận diện dạng toán.
*
Phần giải
toán: Đây là bước quan trọng mà giáo viên cần chú ý trước khi
tiến hàng dạy học sinh. Khi tự mình giải toán trước khi dạy, giáo viên mới có thể hình dung được những sai lầm mà học sinh thường dễ gặp
phải. Hơn nữa giáo viên sẽ biết định hướng cho học sinh tìm nhiều hướng giải
khác nhau cho bài toán. Giáo viên cần tìm những biện pháp khen ngợi, động viên nhằm kích thích
hứng thú học tập của học sinh.
* Dự kiến trước khó khăn sai lầm
mà học
sinh dễ gặp:
Đây là một việc làm
rất quan trọng trong quá trình giảng dạy toán. Từ những dự kiến đó, giáo viên sẽ tìm ra những lựa chon tốt nhất để đưa vào dạy học từng nội
dung cụ thể.
Với
dạng toán chuyển động đều, học sinh lớp 5 có thể hay mắc phải những lỗi cơ bản
như :
- Tính
toán sai
- Viết sai các đơn vị đo (m/giờ, km/giờ,
m/phút, ... )
- Chưa
phân biệt được giữa khoảng
thời gian và thời điểm
- Sử dụng nhầm công
thức tính cho
các đại lượng
- Học sinh nhầm lẫn hoặc gặp khó khăn
khi đưa bài toán chuyển động ngược chiều (hoặc chuyển động cùng chiều) không cùng
thời điểm xuất phát về dạng bài toán
chuyển động ngược
chiều (hoặc chuyển động
cùng chiều)
cùng một thời điểm
xuất phát.
- Các
câu trả lời không phù hợp với nội dung
phép tính.
*
Hướng dẫn học
sinh thực
hiện các bước giải bài toán.
- Tổ chức cho học sinh phân
tích, nhận diện nội
dung bài toán bằng
các bước cụ thể như :
+ Đọc đề bài bài toán.
+ Phân
tích các dữ kiện (số liệu) của đề bài để biết bài toán cho biết gì ? Bài
toán yêu cần
phải tìm đại
lượng nào?
- Tìm
cách giải
bài toán bằng
các thao tác (bước tính) cụ thể:
+ Tóm tắt đề bài toán
bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc bằng lời.
+ Dựa
vào nội dung tóm tắt trình bỳ lại bài toán (hiểu đề bài)
+ Xây
dựng các bước giải cho bài toán, thông thường xuất phát từ yêu cầu cần tìm của bài toán đi đến
các yếu
tố đã biết. Chỉ
ra mối quan
hệ giữa các dữ kiện đã cho với nội dung
bài toán yêu cầu tìm và nêu được đúng phép tính thích hợp.
- Tiến
hành giải
và trình bày lời
giải theo các
bước:
+ Viết câu lời giải
+ Viết phép tính tương ứng
(nên tính cụ thể ra nháp trước khi trình bày)
+ Viết đáp số
- Kiểm tra kết quả:
kiểm tra các dữ
liệu, kiểm
tra nội dung các phép toán, kiểm tra câu lời giải, đối chiếu đáp số cuối cùng với yêu cầu bài toán.
*
Rèn kĩ
năng khái quát hóa nội dung toán học:
- Lập các bài toán tương tự với bài toán đã
giải và giải các
bài toán đó.
- Lập bài toán
theo tóm tắt đã cho (từ một tóm tắt bằng sơ đồ hoặc bằng chữ, học sinh nêu được
một đề toán hoàn chỉnh).
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/