MỘT
SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
A.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phân môn Tập làm văn rất quan trọng trong
chương trình dạy học ở Tiểu học, nó không chỉ giúp cho các em hình thành các kĩ
năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho các em khả năng giao tiếp, quan sát,
phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho các em những phẩm chất tốt
đẹp của con người mới hiện đại và năng động.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy rằng đa số các
em biết làm một bài văn hoàn chỉnh nhưng trong quá trình làm bài văn các em chưa
biết dùng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa cả biện pháp liên tưởng vào các bài
văn. Trong cách làm bài của các em chưa sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn
mặc dù kiến thức này đã được học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn chưa
có sự liên kết chặt chẽ, không theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài
văn của các em thường miêu tả lung tung, không theo một thể thống nhất. Lúc này
đây các em muốn đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em niềm
say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu, những
nhân tài có tâm hồn văn học. Chính vì những lý do trên tôi xin trình bày: “Một
số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn” để bạn bè đồng nghiệp cùng tham khảo.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
- Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 5 được biên soạn theo các
quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động
của học sinh.
- Sách giáo viên không trình bày kiến thức bằng những kết
quả cho sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh hoạt động nhằm chiếm
lĩnh kiến thức.
- Giáo viên được dự giờ thăm lớp và tham dự các buổi
hội thảo chuyên đề, hội giảng của tổ chuyên môn, của trường, của cụm trường để
rút ra những kinh nghiệm cho bản thân.
- Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp
với các em nên tìm hiểu và nắm bắt được những khó khăn, sai sót của các em khi
làm bài văn miêu tả.
- Đa số các em có khả năng tưởng tượng phong phú, biết
nhìn nhận những hình ảnh vào tri thức và nhớ có hệ thống, các em đã biết sử
dụng dùng từ đặt câu, viết như thế nào cho đầy đủ ý, các em lĩnh hội nhanh và
biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào bài tập làm văn của mình.
- Hơn nữa các em còn được học 9 buổi/ tuần nên kiến thức
được nắm kĩ hơn.
- Các em càng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người,
của thiên nhiên qua các bài văn, đọan văn điển hình.
2. Khó khăn
2.1. Về phía giáo viên
- Một số giáo viên dạy còn áp đặt, chỉ hướng dẫn học sinh
theo yêu cầu của sách mà chưa chú ý đến việc khám phá cái hay, cái đẹp của bài
văn.
- Một số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa
chú ý đến việc luyện tập ở nhà, chưa
hướng dẫn cho các em tìm hiểu thêm sách, báo...
- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo
chất lượng kiểm tra một số giáo viên cho học sinh chép bài mẫu.
- Những tiết trả bài viết giáo
viên trả bài cho các em và nêu một số lỗi, chữa bài qua loa, chưa quan tâm
nhiều đến sửa câu, cách dùng từ trong câu, dùng từ sai của
học sinh.
2.2. Về phía học sinh
- Một số học sinh vẫn chưa có thói quen chuẩn bị bài chu
đáo trước khi đến lớp, thậm chí khi cần thiết chỉ chép lại bài của bạn.
-
Năng lực cảm thụ văn bản cũng như những kĩ năng phân tích đề, làm bài văn còn
nhiều hạn chế. Không ít học sinh tỏ ra thờ ơ, ít có nhu cầu được tự bộc lộ cảm
nhận của mình qua một tiết học hay một bài làm.
- Kĩ năng làm văn của các em còn hạn chế như: chưa
biết quan sát, miêu tả còn chung chung chưa thể hiện được đặc điểm nổi bật của
từng đối tượng mình định tả ; chưa biết sử dụng những từ gợi tả và các biện
pháp nghệ thuật trong bài văn ; chưa biết thể hiện cảm xúc của mình khi miêu
tả.
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế. Khi miêu tả, các
em chưa biết chọn lọc những nét tiêu biểu để tả nên đã biến bài văn miêu tả thành
bài kể lan man.
- Các em còn
thiếu sự trải nghiệm thực tế.
2.3. Số liệu thống kê
Ngay
từ đầu năm học tôi thống kê chất lượng làm bài văn của học sinh lớp 5.1 (Lớp
đối tượng học sinh Giỏi) do tôi chủ nhiệm sau khi dạy hết 02 tuần ôn tập như
sau:
Bảng
1: Chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 5.1:
Lớp |
Tổng số HS |
Số em viết đạt điểm dưới 5 |
Số em viết đạt điểm
5 - 6 |
Số em viết đạt điểm
7 - 8 |
Số em viết đạt điểm
9 - 10 |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
5.1 |
34 |
02 |
5,88 |
20 |
58,82 |
10 |
29,41 |
0 |
0 |
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC
HIỆN
1. Bồi dưỡng vốn sống
Khi thấy học sinh ngồi trước một đề văn khoảng 15 –
20 phút chưa viết được, tôi hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em không có
hứng thú viết là do các em đã không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình
với đối tượng miêu tả, kể, tranh luận,… nghĩa là các em không có nội dung,
không có gì để nói, để viết về cái đó. Nguyên nhân của tình trạng trên là việc
thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em.
Trước hết là vốn sống trực tiếp, tôi cho các em quan
sát, trải nghiệm những gì sẽ phải viết. Ví dụ tôi hướng dẫn các em quan sát con
đường từ nhà đến trường hoặc một dòng sông hoặc một cánh đồng trước khi yêu cầu
tả nó hoặc tôi tham mưu với lãnh đạo nhà trường tổ chức cho các em tham quan
một cảnh đẹp của địa phương trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham quan.
Tất nhiên, tôi cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng
phong phú của các em. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đến mấy vẫn phải có cơ sở,
bắt nguồn từ đời sống thực. Khi các em tham quan hoặc quan sát, tôi đóng vai
trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi
các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ
thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được tham quan.
Ngoài ra, trong đời
sống thường ngày các em phải tiếp xúc với nhiều người khác nhau và trong từng
trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ những “vai” khác nhau. Chính “vai”giao
tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn sống lựa chọn chi tiết để nói, chọn ngôn
từ để thể hiện.
2. Bồi dưỡng cảm thụ văn học
Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các
em. Trước hết tôi tạo điều kiện để các em tiếp xúc với tác phẩm, tôn trọng những
suy nghĩ cảm xúc thực, thơ ngây của các em và nâng chúng lên ở chất lượng cao
hơn. Sau đó tôi trang bị cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh,
chi tiết, các đặc trưng nghệ thuật, một số biện pháp tu từ, … Một trong những
biện pháp có hiệu quả để bồi dưỡng cảm thụ văn học là rèn luyện cách đọc diễn
cảm có sáng tạo. Nó giúp các em nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích
các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương.
Ví dụ: Rèn kĩ năng cho học
sinh cách nghe để cảm thụ cái hay của bài văn “Hoàng hôn trên sông Hương” (Sách
giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1, trang 11)
- Trước tiên tôi đọc bài văn
thật hay.
.
- Cho một vài em đọc thật tốt
đọc lại toàn bộ bài văn.
- Tôi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ
thống câu hỏi để khai thác cái hay của bài.
.
* Tìm phần mở bài:
Đoạn 1: Từ “Cuối
buổi chiều, ... yên tĩnh này” ” ”
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì
của tác giả ? ?
- Tác quan sát cảnh vật ở vị trí
nào ? ?
- Tác giả quan sát cảnh vật và
tả vào thời điểm nào trong ngày ? ?
- Từ đó tôi kết luận: Câu mở bài phải giới
thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị trí quan sát bằng cách thể hiện được
cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu được nơi mà mình định tả vào thời
điểm nào đó trong ngày. .
* Tìm phần thân bài:
:
- Xác định trong phần thân bài
gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả những gì?
- Có 2 đoạn:
Từ “Mùa thu,….chấm dứt”
+ Đoạn 2: Sự
thay đổi màu sắc của sông Hương từ lúc bắt đầu hoàng hôn đến lúc tối hẳn.
+ Đoạn 3: Tả hoạt động của con người bên bờ sông,
trên mặt sông từ lúc hoàng hôn đến lúc thành phố lên đèn.
- Xác định câu mở đoạn của từng đoạn. .
- Cho học sinh tìm hiểu sự liên kết giữa các
câu trong đoạn văn, sự chuyển ý của các câu, quá trình miêu tả về không gian,
thời gian trong bài văn. .
* Tìm phần kết bài: “Huế thức dậy trong một nhịp
chuyển động mới, đi vào cuộc sống ban đầu của nó” : Sự thức dậy của Huế sau hoàng hôn
Tôi kết luận: Kết thúc bài vừa tả cảm xúc của mình
vừa gây ra truyền cảm cho người đọc và kết bài theo kiểu mở rộng khiến người
đọc cần phải suy nghĩ về cảnh mình tả, nơi mình tả.
Để làm được bài văn hay các em phải có năng lực cảm thụ văn học, kiên trì rèn luyện từng
bước, nhất định các em sẽ viết được những đoạn văn hay, bài văn hay để phát
hiện biết bao điều đáng quý trong văn học và trong cuộc sống của chúng ta.
3. Cung cấp thêm một số vốn
từ ngữ theo chủ đề
Chương trình Tiếng Việt có các phân môn Tập đọc,
Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn làm cơ sở để các em học tốt
phân môn Tập làm văn. Tuy nhiên nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 thường
không đáp ứng được khi dạy một thể loại Tập làm văn thì nội dung của phân môn
Tập đọc và từ ngữ tương ứng nhằm cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ để học thể
loại này là rất ít. Tất nhiên chúng ta đều biết rằng vốn từ ngữ của các em được
tích luỹ từ lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và cả suốt những năm đầu ở bậc Tiểu học.
Nhưng vốn từ ấy thực sự vẫn chưa đủ để các em làm tốt bài Tập làm văn nếu không
được cung cấp thêm các từ ngữ theo chủ đề. Chính
vì vậy để hỗ trợ các em, tôi đã soạn thêm vốn từ ngữ giúp các em tham khảo để
làm văn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài tập làm văn: Viết một đoạn miêu tả cảnh sông
nước (Tiếng Việt 5 Tập 1, trang 74).
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Tôi giúp các em hệ
thống hoá các từ ngữ thuộc chủ đề sông nước.
Chẳng hạn: lăn tăn,
êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm, lung linh, ầm ầm, ì ầm, rì rào, ào ào, ì
oạp, oàm oạp, lao xao, thì thầm, lửng lơ, trườn lên, bò lên, cuồn cuộn, trào
dâng, ào ạt, cuộn trào, điên cuồng, dữ dội, khủng khiếp, dềnh, đập nhẹ lên,...
Ví dụ 2: Từ thường dùng khi làm bài văn tả người:
TẢ
HÌNH DÁNG
- Tả mái tóc: đen nhánh, đen mượt, đen mướt, nâu đen,
hoa râm, muối tiêu, bạc phơ, mượt mà, mượt như tơ, óng ả, óng mượt, lơ thơ, xơ
xác, cứng như rễ tre, dày dặn,…
- Tả vóc người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhã,
tầm thước, mảnh khảnh, dong dỏng, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp,
lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, cân đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều
tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm, còm nhom, thanh tú,…
- Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng
hào, đen sạm, rám nắng, xanh xao, tái mét, không còn chút máu, vuông vắn, vuông
chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô,
khả ái, xấu xí, rỗ như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ
phờ, hung tợn, ngờ nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, thơ ngây, nhăn nheo, thờ
thẫn, đăm chiêu, hiền hậu, dễ thương, phúc hậu,…
- Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng,
trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà, mịn màng, nứt nẻ, có nhiều vết xẹo, sần sùi, tái
mét, xanh xao, xanh lét, hồng hào, đỏ thắm, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm,
ngăm đen, đen đủi,…
- Tả đôi mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn,
thâm quầng, trắng đục, đỏ ngầu, nâu đen, mù loà, lồi, tròn vo, một mí, mất ốc
bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ câu, hai mí, linh hoạt, soi mói, láu lỉnh, sáng
long lanh, trầm tư, trầm tĩnh, trầm lặng, hiền hậu, mơ màng, tinh ranh, lanh
lợi,…
- Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, đắm đuối, dáo
dác, trìu mến, mơ màng, chăm chú, ngơ ngác, hằn học,…
TẢ
TÍNH TÌNH
- Diễn tả tính cách: Nóng nảy, khoác lác, ba hoa,
nham hiểm, xảo quyệt, tham lam, ích kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp,
khắt khe, láu táu, ít nói, nhã nhặn, bạo dạn, vị tha, hời hợt, lười nhác, lì
lợm, trầm tính, đứng đắn, thật thà, ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm
nghị, dè dặt, siêng năng, thận trọng, lỗ mãng,…
- Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả
hê, thoả thích, sảng khoái, khoái chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc
chí,…
4. Khai thác sự sáng tạo, suy
nghĩ trên cơ sở quan sát bằng hệ thống câu hỏi mở
Ví dụ
: Miêu tả ngôi trường (Tiếng Việt 5 Tập 1, trang 43).
Một
số câu hỏi khai thác ý đòi hỏi sự quan sát: (Phần thân bài)
-
Tả khu vực sân trường: Sân trường rộng hay hẹp ? Cây cối trồng trên sân đã cao
lớn chưa ? Có tán toả bóng mát cho các em trong giờ chơi chưa hay chỉ là khu đất
nắng chói chang ?
-
Tả chậu kiễng: chậu kiễng được trồng ở trước các lớp học với nhiều loài hoa màu
sắc rực rỡ, nhiều cây xanh hay chỉ toàn những cây cỏ dại ?
-
Lớp học: Lớp học có mấy tầng ? Có thoáng mát, rộng rãi, có đèn, điện, quạt ?
Cửa ra vào, cửa sổ như thế nào ? Bàn ghế được xếp như thế nào ?
-
Có đầy đủ phòng chức năng không ? Được trang trí như thế nào ?
-
Tả bảng thông báo: Bảng thông báo thường xuyên có những thông tin mới hay
thường ngày chỉ là một mặt trắng xóa, im lìm ?
-
Tả các bạn đang làm gì ? Thầy cô đang làm gì ?
5. Rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng
viết
5.1. Rèn luyện kĩ năng nói
Cùng với kĩ năng nghe, đọc, viết phân môn Tập làm văn
ở lớp 5 dạy cho các em kĩ năng nói trong các giờ học văn kể chuyện, miêu tả và
một số loại văn khác. Thông qua các bài tập thực hành luyện nói theo đề tài
hoặc tình huống cho trước, tôi hướng dẫn các em thực hiện tốt yêu cầu sau:
- Xác định rõ nội dung cần nói (nói về nội dung gì ?
gồm những ý nào ? sắp xếp các ý đó ra sao ?…).
Ví
dụ: Đề bài Tập làm văn lớp 5 trang 94 - Luyện tập thuyết trình, tranh luận:
Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của
cả trăng và đèn trong bài ca dao sau:
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn ?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây ?
Sau khi tìm ý, sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí để thuyết trình về vấn đề nêu
ra trong đề bài, các em có thể chọn từ, tạo câu để trình bày các ý cần nói
thành một đoạn văn và liên kết các đoạn thành bài thuyết trình ngắn như sau:
“Đèn và trăng đều vô cùng quan trọng đối
với cuộc sống của chúng ta. Đây là hai nhân vật cùng tỏa sáng vào ban đêm.
Trăng soi sáng khắp nơi. Trăng làm cho cuộc sống thêm đẹp, thơ mộng. Nếu không
có trăng, cuộc sống ra sao nhỉ ? Chúng ta sẽ không có đêm rằm trung thu, không
được nhìn ngắm những vì sao lung linh trên trời… Nhưng vì thế mà coi thường
đèn. Trăng chỉ sáng vào một số ngày trong tháng và cũng có khi phải luồn vào
mây. Còn đèn, đèn tuy nhỏ bé nhưng cũng rất có ích. Đèn soi sáng cho con người
quanh năm, đèn giúp em học bài, đèn giúp mẹ làm việc… Nhưng đèn không nên kiêu
ngạo với trăng. Đèn không thể sáng nếu không có dầu, có điện. Đèn dầu ra trước
gió sẽ có thể bị gió thổi tắt. Trong cuộc sống chúng ta, cả trăng và đèn đều
rất cần thiết”.
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn bè, thầy cô giáo
để tự kiểm tra, đối chiếu văn bản nói của bản thân với mục đích giao tiếp và
yêu cầu diễn đạt ; biết sửa lỗi về nội dung, hình thức diễn đạt.
Tôi luôn quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho các em theo yêu cầu trên, như vậy
vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển tư duy,
vừa tạo điều kiện cho kĩ năng viết phát triển tốt.
5.2. Rèn luyện kĩ năng viết
Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), các em
có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện
pháp so sánh, nhân hoá,…) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, các em cũng cần đạt được những yêu cầu rèn
luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn, lời văn viết vừa cần rõ ý vừa
cần sinh động, bộc lộ được cảm xúc ; bố cục bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng
đoạn và cả bài. Kĩ năng viết của các em
được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn
hoàn chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn luyện kĩ năng viết, tôi giúp học sinh
thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết ; tìm dàn
ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học.
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về
ý: Viết các đoạn phần thân bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết
đoạn kết bài (mở rộng, không mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong
đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý
chính.
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp
với yêu cầu nội dung và thể hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên
kết với nhau thành một văn bản hoàn chỉnh, bố cục chặt chẽ theo ba phần (Mở
bài, thân bài, kết bài). Lời văn trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và
thể loại. Ví dụ:
+ Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm ; có thể so sánh,
nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động ; cần bộc lộ cảm xúc
trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
+ Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc ; từ ngữ chỉ hoạt
động, đặc điểm, trạng thái của người ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so
sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả.
+ Tả đồ vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so sánh, nhân
hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động.
+ Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, hương thơm,
mùi vị ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh cây
cối ở thời kì phát triển hay mùa khác nhau.
+ Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm thanh ; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng
thái của con vật ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh, nhân hoá để tả
cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi với con người.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Tuy thời gian không
dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên tôi nhận thấy chất
lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn của lớp đã có sự tiến bộ rõ rệt. Đa số các
em đã biết cách dùng từ, đặt câu trong miêu tả, các em biết sử dụng ngữ nghĩa
chính xác. Các bài tập làm văn của các em không còn mang tính liệt kê, kể lể
nữa. Sau đây là bảng thực nghiệm chất lượng bài làm văn của lớp 5.1 thời điểm cuối
học kì I như sau:
Bảng 2: Kết quả thực
nghiệm:
Lớp |
Tổng số HS |
Số em viết đạt điểm dưới 5 |
Số em viết đạt điểm
5 - 6 |
Số em viết đạt điểm
7 - 8 |
Số em viết đạt điểm
9 - 10 |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
5.1 |
34 |
0 |
0 |
11 |
32,35 |
18 |
52,94 |
05 |
14,7 |
Do vậy, từ
nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, tìm tòi và vận dụng phương pháp
tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn.
IV.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Muốn
các em học tốt phân môn Tập làm văn tôi cần rèn luyện cho các em một số kĩ năng
cơ bản sau:
- Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn nhằm rèn
luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp đối với văn học.
- Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn
học qua hoạt động, quan sát hằng ngày trong cuộc sống. Nhưng quan sát như thế
nào mới có kết quả tốt, phục vụ cho việc tích luỹ “Vốn sống”.
- Nắm vững kiến thức cơ bản đã học trong chương trình
môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Có hiểu biết về ngữ âm, chữ viết Tiếng Việt ; nắm
vững kiến thức ngữ pháp tiếng việt, các em sẽ không chỉ nói – viết tốt mà còn
có thể cảm nhận được nét đẹp của nội dung qua những hình thức diễn đạt sinh
động, sáng tạo của tác giả.
- Rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học là một trong
những nhiệm vụ cần thiết đối với học sinh lớp 5. Có năng lực cảm thụ văn học
tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp của văn thơ, được phong phú thêm về
tâm hồn, nói – viết tiếng việt thêm trong sáng, sinh động.
C. KẾT LUẬN
Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên vận dụng có
hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào khả năng truyền đạt của người giáo viên và
sự chăm chỉ học tập của học sinh. Để học sinh đạt được kết quả cao trong học
tập, ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên phải luôn luôn theo dõi những
tiến bộ trong học tập của học sinh, qua đó kịp thời cải tiến, điều chỉnh hoạt
động dạy cho có hiệu quả hơn. Điều quan trọng là với lương tâm và trách nhiệm,
trí tuệ và tâm huyết, mỗi người giáo viên cần biết tự rèn luyện, tự học tập, tự
sáng tạo để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ trẻ phấn đấu và rèn luyện, xứng
đáng với niềm tin của nhân dân, góp phần trong sự nghiệp phát triển giáo dục và
đào tạo.
Với
kinh nghiệm ít ỏi tích lũy được trong thực tế giảng dạy của bản thân, tôi rất
mong nhận sự góp ý, giúp đỡ của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm trong việc giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngày càng đi lên.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/