- Tên sáng kiến: Một số giải pháp
hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ
24- 36 tháng ở trường Mầm non trên địa bàn huyện.
- Lĩnh vực áp dụng:
Áp
dụng ở các trường Mầm Non trên toàn huyện trong lĩnh vực giáo dục kỹ
năng ở các trường Mầm Non.
- Mô tả sáng kiến:
+ Về nội dung của sáng kiến:
Sáng kiến đưa ra các giải pháp để giúp
trẻ hình
thành kỹ năng tự phục vụ bản thân, đồng
thời tạo ra
môi trường giáo dục giúp trẻ hình thành những thói quen tốt trong sinh hoạt
thường ngày, trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người
xung quanh. Bản thân giáo viên và đồng
nghiệp có thêm kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ trải nghiệm
cuộc sống, biết cách xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động. kỹ năng tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ
Một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi
Giải pháp 1: Tìm
hiểu về thực trạng
Để nắm bắt được khả năng tự phục vụ của trẻ tới đâu thì
ngay từ đầu năm học tôi đã khảo sát khả năng tự phục vụ của tất cả các trẻ
trong lớp và khảo sát đều kiện cơ sở vật chất để đưa ra giải pháp giúp trẻ hình
thành những kỹ năng tự phục vụ cho phù hợp cụ thể như sau:
* Về học sinh.
STT |
Nội dung |
Số lượng học sinh |
Kết quả khảo sát |
Ghi chú |
|||
Đạt |
Tỉ lệ % |
Chưa đạt |
Tỉ lệ % |
||||
1 |
- Thói quen vệ sinh (Nói với người lớn khi có nhu cầu ăn, ngủ, vệ
sinh…. Đi vệ sinh đúng nơi qui định ) |
15 |
5 |
33 |
10 |
67 |
|
2 |
- Thói quen trong ăn uống (Tự xúc cơm ăn, tự lấy nước uống..) |
15 |
6 |
40 |
9 |
60 |
|
3 |
- Tự cất đồ dùng cá nhân (Cất ba lô, cất dép..) |
15 |
5 |
33 |
10 |
76 |
|
4 |
- Tự cởi, tháo dép.. |
15 |
3 |
20 |
12 |
80 |
|
5 |
- Lấy ghế, bê ghế ngồi vào bàn và cất ghế đúng nơi quy định. |
15 |
7 |
47 |
8 |
53 |
|
* Về cơ sở vật chất
- Có tương đối đủ đồ dùng cho cô và trẻ hoạt
động.
- Nhà trường trang bị khá đầy đủ
đồ dùng như: giá dép, tủ đồ dùng cá nhân cho trẻ, tủ đựng cốc, cốc inoc, thùng
có vòi cho trẻ rửa tay dưới vòi nước chảy, giá dép vvv…
- Có ti vi đầu đĩa , nhà trường
có bộ máy chiếu, máy tính.
- Có nhà vệ sinh riêng cho trẻ.
Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch hình thành kỹ năng cho
trẻ phù hợp với độ tuổi theo từng tháng.
Xây dựng kế hoạch
ngay từ đầu năm học là kim chỉ nam cho sự phấn đấu để đạt được mục tiêu và
nhiệm vụ năm học vì nó gắn liền giữa khoa hoạc với thực tiễn.
Căn cứ vào nhiệm
vụ năm học phòng giáo dục và kế hoạch của nhà trường, căn cứ vào kết quả đạt
được và những mặt tồn tại trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ, căn cứ vào
tình hình thực tế trẻ ở lớp về nhận thức của trẻ, về kỹ năng của từng trẻ và
điều kiện cơ sở vật chất của lớp mình phụ trách, từ đó xây dựng kế hoạch rèn kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ của lớp sao cho phù hợp với sự phát triển của trẻ.
Tháng 9+ tháng
10: Do trẻ mới đi học nên tôi đã lựa chọn những kỹ năng đơn giản, dễ thực hiện
và cũng là nhu cầu tất yếu của trẻ để đưa vào hình thành và rèn luyện tạo cho
trẻ thành thói quen dần dần trở thành kỹ năng, để trẻ tự phục vụ không cần sự
giúp đỡ của người lớn như là kỹ năng đi vệ sinh đúng nơi quy định, cách đi dép, cởi dép, cất lên giá,
bê ghế ngồi vào bàn, cách cầm thìa .... Đồng thời khi đưa ra các nội dung thì
cũng có biện pháp để dạy trẻ thực hiện các nội dung đó cho phù hợp với kỹ năng
của từng trẻ.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Ví dụ: Kỹ năng tập ngồi bô khi có nhu cầu:
Thường xuyên hỏi trẻ về nhu cầu vệ sinh hoặc cứ 2 tiếng
lại cho trẻ đi vệ sinh 1 lần cũng như khi cho trẻ đi cô vừa làm vừa nói cho trẻ
cách tụt quần, cách ngồi bô sao cho không bị ngã, đứng lên sao cho không bị đổ
bô…. Hướng dẫn tận tình,cởi mở ….
Ví dụ: Kỹ năng tập cầm thìa xúc ăn.
- Việc tập cho
trẻ tự xúc ăn là rất cần thiết bởi đa số trẻ ở gia đình đều được ông bà bố mẹ
bón cho trẻ nên trẻ chưa có kĩ năng tự xúc ăn. Cô cần bao quát tìm hiểu từng
trẻ và có biện pháp riêng. Với những trẻ chưa biết xúc ăn, cô hướng dẫn trẻ
cách cầm thìa và tập cho trẻ tự xúc ăn. Cách cầm bát, thìa khi xúc ăn để cơm
không rơi vãi, xúc thìa vơi, gọn miếng.
Sang tháng 11 +
tháng 12: Do trẻ đã quen với môi trường ở trường mầm non trẻ bắt đầu hòa đồng
với các bạn với cô giáo, trẻ đã tích cực hơn với các hoạt động ở trường nên kỹ
năng tôi đưa vào kế hoạch là kỹ năng: Tự cất, lấy ba lô; kỹ năng cất và lấy đồ
dùng đúng nơi quy định, rèn trẻ biết tự lấy cốc uống nước; tự lấy, cất gối khi
đi ngủ …
Ví dụ: Rèn trẻ
biết tự cất ba lô vào ngăn tủ của mình.
Cho trẻ nhận biết
ba lô và ký hiệu ngăn tủ của mình yêu cầu trẻ cất ba lô vào đúng ngăn tủ của
mình và đóng cánh tủ lại…
Tháng 1 +
tháng 2: Dạy trẻ biết cách cầm thìa xúc
hạt; Rèn kĩ năng cởi, mặc quần áo, đi
tất, đi giày; Tiếp tục rèn kĩ năng tự xúc ăn cho trẻ.
Tháng 3 + tháng 4+ Tháng 5: Lúc
này trẻ đã có được 1 số kỹ năng tự phục vụ những việc đơn giản, để chuẩn bị cho
trẻ chuyển sang lớp lớn hơn tôi đưa lựa chọn các kỹ năng khó hơn để dạy trẻ: Làm quen một số thao tác đơn giản
khi lau mặt; Dạy trẻ biết cách cài khuy áo; Tập nói với người lớn khi có nhu
cầu ăn, ngủ, vệ sinh…
Ví dụ: Làm quen một số thao tác đơn
giản khi lau mặt
Việc rèn kĩ năng đòi hỏi phải thường xuyên và liên tục vì vậy cô phải
tiếp tục cho trẻ thực hành kĩ năng bằng cách;Cô lồng ghép vào các giờ học hoặc
tổ chức riêng vào buổi chiều. Cô hỏi trẻ cach làm rồi làm mẫu củng cố và giải
thích cho trẻ cách thực hiện, hướng dẫn từng trẻ khi trẻ chưa biết làm.Cô nhắc
trẻ tự lấy khăn và rửa mặt theo quy trình các bước rửa mặt, kết hợp giáo dục
trẻ rửa mặt khi mặt bẩn, sau khi ăn để mặt sạch sẽ. Nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ.
Giải pháp 3: Xây
dựng tiết dạy hình thành một số kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Kỹ năng tự phục
vụ cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng là những kỹ năng mới trẻ chưa được học, với
những tiết dạy này tôi thường có kế hoạch tổ chức vào hoạt động chiều, kỹ năng
đã học tôi cho trẻ củng cố qua các hoạt động khác và mọi lúc, mọi nơi.
Ví dụ: Khi dạy
trẻ cách sử dụng thìa:
- Xác định mục
đích: Rèn trẻ cách sử dụng thìa từ đó để trẻ được trải nghiệm trong thực tế mỗi
bữa cơm ở nhà trẻ có thói quen tự xúc cơm ăn, đồng thời giúp cho đôi tay của
trẻ khéo léo hơn hoạt bát hơn khi tham gia vào các hoạt động.
- Ổn định gây hứng thú: Cho trẻ hát cùng cô bài hát “Đồ
dùng nhà bé”.
+ Hỏi trẻ nhà con có những đồ dùng gì sử dụng khi ăn? (Bát,
thìa…)
+ Cô giới thiệu thêm đĩa,đũa.
- Vào bài: Cho 1
trẻ lên thực hành cầm thìa.
- Cho trẻ xem video cảnh gia đình đang ăn cơm, bạn nhỏ
đang cầm thìa xúc cơm ăn. Hỏi trẻ cả
nhà đang làm gì? Bạn đang làm gì? Tay cầm thìa các con đâu giơ lên cho cô xem.
- Cô thực hiện mẫu cách sử dụng
thìa
+ Lần 1: Không giải thích.
+ Cô đặt trên bàn 2 cái bát, 1
cái bát to, 1 cái bát nhỏ, hoặc 2 bát bằng nhau trong 2 cái bát có 1cái bát có
2 thìa và hạt bằng len …
+ Lần
2: Cô giải thích cách sử dụng: Cô cầm thìa bằng tay phải, luồn 4 ngón tay ở
dưới cán thìa, ngón cái giữ ở trên cán thìa, xúc hạt từ bát nhỏ sang bát to, cứ
như vậy cô xúc hết số hạt trong bát nhỏ sang bát to và ngược lại.
- Cho trẻ cầm thìa xúc trên không. Nhắc nhở trẻ cầm thìa bằng tay
phải, cầm 1/3 cán thìa.
- Trẻ thực hiện: Tôi cho trẻ ngồi theo 3 nhóm, mỗi nhóm 5 trẻ và 1
bộ đồ dùng, giáo viên hướng dẫn lần lượt từng trẻ thực hiện xúc hạt vào bát hạt
bằng len, bằng gỗ, bằng nhựa.
- Nhận xét sau khi trẻ chơi.
Lưu ý: Khi trẻ thực hiện cần liệt kê các bước mà trẻ gặp khó khăn. Phân tích những khó khăn trẻ gặp phải
của từng thao tác và giới thiệu lại các kĩ thuật cần có để thực hiện đúng thao
tác đó. Ví dụ: Xúc đồ từ giữa bát chứ không phải gạt đồ từ mép bát xuống giữa
bát. Cách làm này làm cho việc xúc bằng thìa dễ dàng hơn.
- Chuẩn bị đồ dùng, thiết bị: chọn đồ dùng phù hợp với
trẻ. Ví dụ: Chọn thìa vừa với tay của trẻ, chọn bát có thành trơn và miệng khum
vào
+ Ví dụ: Khi dạy trẻ tập đi giầy, cởi giầy, cất lên giá.
Ổn định lớp: Cô tập trung trẻ ngồi bên cô, cô sáng tác một đoạn
truyện ngắn kể về lợi ích của đôi dép. Câu truyện có tên “Giày và dép”: Cô có 2
rối tay và 1 giá dép tự tạo: Rối giày và dép, và 1 bác giá dép. Câu truyện kể
là “trong ngôi nhà lọ có 2 anh em sống chung với nhau...giày và dép tranh luận
với nhau...bác giá dép nói giầy và dép đều quan trọng như nhau...giày và dép
không bao giờ cãi nhau nữa và luôn là bạn thân thiết của các con”.
- Cho trẻ xem 1 đoạn video cách
lấy dép, đi dép, cởi dép, cất dép lên giá.
- Giày và dép là đồ dùng để làm
gì? Đi xong các con cất ở đâu?
- Giới thiệu bài dạy: Cách đi
giày, cởi giầy và cất lên giá.
- Cô thực hiện mẫu lần 1: không
giải thích.
+ Lần 2 cô vừa thực hiện vừa
giải thích: chú ý mũi dép để quay ra phía ngoài.
- Cho 1 trẻ lên thực hiện.
- Cho nhóm trẻ lên thực hiện.
- Cả lớp thực hiện mỗi trẻ 1
đôi dép, trẻ đi dép cởi dép và từng nhóm trẻ lên cất dép.
Kết thúc: Hát minh họa bài hát “Đôi dép xinh” => Giáo dục trẻ.
* Tương tự với các kỹ năng khác
giáo viên lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức khác nhau tạo hứng thú cho
trẻ và cho trẻ được trải nghiệm.
- Qua tiết dạy tôi thấy trẻ rất
hứng thú và tích cực tham gia hoạt động cùng cô, cùng bạn trong nhóm lớp và đạt
được mục tiêu đề ra.
Giải pháp 4: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động.
- Vai trò của giáo viên trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ
rất lớn, đó là tạo ra cho trẻ một không gian đủ rộng, dành cho trẻ một khoảng
thời gian nhất định để giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu được làm, khẳng định bản thân.
Vai trò tiếp theo của giáo viên
là chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi như tủ, giá , kệ, đồ chơi.... vừa tầm với và khả
năng di chuyển của trẻ. Các tủ, giá, kệ cần được đặt ở một vị trí nhất định
tránh làm phân tán sự tập chung chú ý của trẻ, các đồ dùng trong sinh hoạt cần
được bổ sung đủ số lượng cho trẻ trong các hoạt động an toàn và thẩm mỹ với màu
sắc tươi sáng, trang nhã, sắp xếp gọn gàng ngăn lắp,sạch sẽ để thu hút trẻ đến
với các hoạt động.
- Đối với góc rèn kỹ năng tôi sưu tập bộ ảnh chụp được trang trí trên mảng
tường, bổ sung thêm một số đồ dùng để dạy trẻ như: Bát thìa, hột hạt, thùng
đựng rác bằng hộp nhựa, giá dép nhựa, dép tự tạo, ghế cho trẻ ngồi đúng kích
cỡ, giá dép được bổ sung ký hiệu cho từng trẻ.
- Tạo môi trường có tính giáo dục cho trẻ ở góc xem truyện tranh, góc lễ
giáo.
Ví dụ: Sáng tác truyện “Bé nói lời hay, bé làm việc tốt”
Câu chuyện có nội dung giáo dục
lễ giáo cho trẻ xem.....Cô đàm thoại với trẻ về nội dung trong một bức tranh,
đặt câu hỏi cho trẻ trả lời: Bạn nhỏ đang khoanh tay chào ai? Bạn làm được
những việc gì? (Bê ghế, cất ghế, cất dép, tự lấy nước uống....)
Trẻ xem sách, quan sát những
hình ảnh trẻ tự nhìn thấy việc làm và
hành vi của bạn nhỏ trong tranh trẻ phân biệt được việc làm tốt để học tập.
Trên giá dép của trẻ tôi đã sưu tập ảnh các đồ vật, con vật gần gũi
với trẻ để gắn trên giá dép làm ký hiệu cho trẻ khi cất, lấy đúng dép của mình.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Tất cả những đồ dùng ở các góc tôi đều sắp xếp gọn gàng ngăn lắp,
lau sạch sẽ. Không những thế tôi còn chú ý vị trí để giá dép, giá úp cốc dễ
lấy, dễ cất để trẻ dễ dàng thực hiện. Lớp có thùng đựng rác để khi thấy rác trẻ
biết nhặt bỏ vào thùng tạo điều kiện cho trẻ có thói quen tốt ngay từ nhỏ cứ
như vậy tạo cho trẻ có kỹ năng trong giai đoạn, lứa tuổi sau.
Giải pháp 5. Rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc,
mọi nơi và các hoạt động khác với các hình thức khác nhau.
- Đối với trẻ mầm non đặc biệt lứa tuổi từ 24 – 36 tháng trẻ thường
hoạt động theo thói quen bản năng, vì vậy vai trò của người lớn hết sức quan
trọng ta phải theo sát trẻ mọi lúc, mọi nơi trong hoạt động và đưa ra biện pháp
giáo dục tích cực và hiệu quả nhất. Trẻ nhỏ hay nhớ lại hay quên, do đó để hình
thành thói quen tốt về giáo dục kỹ năng tự phục vụ đơn giản cho trẻ, thì giáo viên
luôn luôn cho trẻ trải nghiệm ở các hoạt động và ở mọi lúc mọi nơi, điều chỉnh
nhận xét và uốn nắn kịp thời.
* Hoạt động trò
chuyện: Qua
thực tế giảng dạy tôi thấy nội dung rèn trẻ thói quen hành vi đạo đức tốt nhất
là trong hoạt động dạy trẻ kể truyện. Thông qua lời văn hay, tình tiết hấp dẫn
mỗi câu truyện đều chứa đựng một nội dung mà hàm trong đó nhằm để giáo dục kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ qua đó lồng ghép giáo dục hành vi đạo đức cho trẻ.
Ví dụ: Câu chuyện “Bé làm được
việc gì” Tôi sưu tầm sáng tác kể cho trẻ nghe: Chuyện kể về gia đình bạn Bi,
một hôm mẹ bạn Bi ốm, bạn Bi ở nhà với mẹ, khi mẹ khát nước nói: Bi lấy cho mẹ
xin cốc nước. Bé Bi nhanh nhảu đáp – Dạ và lấy nước cho mẹ, Bi đưa nước cho mẹ
bằng 2 tay và nói. Con mời mẹ uống nước. Mẹ Bi tươi cười xoa đầu Bi và khen Bi
ngoan quá. Sau đó bạn Bi cất cốc vào đúng nơi qui định.
Qua nội dung câu chuyện tôi cho trẻ nhận xét về hành động của bạn
Bi thông qua đó tôi giáo dục trẻ nói năng biết thưa gửi, nghe lời người khác,
đưa cho người lớn biết đưa bằng 2 tay.
Từ đó rèn trẻ kỹ năng “Tập
lấy nước uống” dần dần cho trẻ khéo léo tự lấy nước uống khi thấy mình khát và
biết cất cốc vào tủ đúng quy định.
Ví dụ: Khi dạy trẻ trong giờ học phát triển vận động
Như chúng ta biết, thực tế trẻ biết làm được một số việc tự phục vụ
đơn giản nhưng để rèn trẻ luôn có thói quen thì phải trải qua một quá trình
được rèn luyện trải nghiệm, từ đó trẻ mới hình thành nề nếp thói quen mà người
lớn không cần phải nhắc, thông qua các hoạt động hàng ngày trẻ được trải
nghiệm, trẻ có thói quen nề nếp tốt. Tre biết lấy đồ dùng để tập bài tập phát
triển chung trẻ tập xong biết cất vào rổ. Trẻ biết xếp hàng chờ đến lượt khi
chơi tập, vận động đi trong đường hẹp có mang vật trên tay ở bài vận động này
tôi sử dụng đồ dùng tự tạo để dạy trẻ, hấp dẫn đối với trẻ, trẻ rất thích và
hứng thú tập nhưng trẻ vẫn thực hiện tốt “Kỹ năng chờ đến lượt”.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động chiều.
Cô kể cho trẻ nghe chuyện “Cháu chào ông ạ”. Tôi dùng tranh truyện
để dạy trẻ. Trẻ nhìn thấy hình ảnh bạn “Gà con”, “Chim bạc má”, “Bạn cóc vàng”
khoanh tay chào ông. Qua hình ảnh đó cô cho trẻ đóng vai thể hiện hành động
nhân vật: Trẻ bắt trước hành động khoanh tay chào ông.
Qua lời kể và hành động khoanh tay chào của trẻ giúp trẻ hình thành
thói quen lễ phép với mọi người và trẻ vận dụng vào thực tế. Đến lớp trẻ biết
khoanh tay chào cô, về nhà biết khoanh tay chào ông, chào bà, dần dần hình
thành cho trẻ thói quen đến lớp trẻ biết khoanh tay chào cô giáo và về nhà biết
chào mọi người.
* Trong các giờ đón – Trả trẻ: Đây là thời gian cho giáo
viên vừa trao đổi với phụ huynh vừa quan sát trẻ, uốn nắn cho trẻ có thói quen
từ đó giúp phụ huynh cùng giáo dục cho trẻ thêm ở nhà để rèn trẻ thói quen lấy
dép, đi dép, cất dep lên giá gọn gàng đúng qui định,đúng ký hiệu của mình.
Ví dụ: Giờ đón trẻ: Tôi giáo dục trẻ cất dép đúng nơi quy định rồi
vào lớp, đây cũng là lúc cô uốn nắn các con cách cởi dép, cất dép lên giá theo
đúng ký hiệu của mình, dần dần trẻ nhớ ký hiệu của mình và tự cất đúng chỗ gọn
gàng ngay ngắn. Tôi thường xuyên để ý nhìn thấy cháu Long khi đến lớp hay quên
không cất dép mà đi dép vào trong lớp. Có những lần mẹ cất dép hộ con. Tôi nhẹ
nhàng gọi cháu lại và nói: Long ơi! Cô đố Long các bạn cất dép ở đâu?
Bằng câu hỏi nhẹ nhàng như vậy Long đã nhận ra lỗi và nhanh nhẹn
chạy ra cất dép vào giá sau mới vào lớp, tôi nhắc trẻ khi cất dép quay mũi dép
ra phía ngoài cho đẹp, 2 -3 lần như vậy sẽ tạo cho trẻ được thói quen để dép
đúng nơi qui định. Trên giá dép đều có ký hiệu và tên trẻ để trẻ để đúng ký
hiệu của mình và có tên trẻ để phụ huynh biết ký hiệu của con mình là gì.
Và tôi tiếp tục cho trẻ làm quen với cách tự cất ba lô vào ngăn tủ
của mình rồi vào lớp, qua việc làm trên tôi thấy trẻ khéo léo hơn, tự tin không
quấy lũng mẹ nữa.
* Giờ hoạt động ngoài trời.
Tôi cho trẻ quan sát lá vàng rơi.Tôi nhặt lá và nói con cùng nhặt
lá với cô để cho vào thùng rác nào.Trẻ làm theo tôi và tôi tiếp tục hỏi trẻ khi
lá vàng rơi con nhặt lá để vào đâu? Trẻ trả lời “Con để vào thùng rác ạ”. Bằng
hành động như vậy nhiều lần tạo cho trẻ có thói quen nề nếp, thói quen biết
nhặt rác để vào thùng lồng ghép giáo dục hành vi bảo vệ môi trường.
Tăng
cường cho trẻ được hoạt động ở ngoài sân trường cũng góp phần không nhỏ để hình
thành thói quen nề nếp phục vụ cho bản thân một cách tích cực, không những thế
còn tạo cho trẻ được giao lưu với nhau, tiếp xúc với thiên nhiên giúp trẻ khỏe
mạnh vui khi đến trường lớp.
Ví dụ:Trẻ
vui chơi hoạt động ngoài trời :
Khi tổ chức tôi thường đan xen các trò chơi
dân gian tạo cho trẻ được giao lưu tiếp xúc gần gũi với nhau, trẻ chơi một cách
thoải mái đoàn kết thân nhau hơn, từ đó trẻ có thái độ hành vi ứng xử tốt với
bạn trong lớp.
* Trong giờ hoạt động chiều
tôi tiếp tục tổ chức rèn trẻ nề nếp thói quen rửa mặt rửa tay cho trẻ:
Rèn trẻ có thói quen vệ sinh cá
nhân, biết rửa tay, gữi gìn quần áo sạch sẽ. Trong khi rửa tay, mặt cho trẻ cô
trò chuyện giáo dục để trẻ hiểu. Rèn trẻ thói quen vệ sinh trước khi ăn, khi
tay bẩn, sau khi đi vệ sinh. Trẻ được rèn trẻ qua các ngày, tuần tháng và cuối
năm học dần dần trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh cá nhân sạch sẽ và có kỹ năng
tự phục vụ một số công việc đơn giản phù hợp với trẻ.rèn trẻ biết xếp hàng chờ
đến lượt, biết tự lau tay sau khi rửa..
Đến giai đoạn cuối độ tuổi nhà
trẻ tôi cho trẻ làm quen với các thao tác rửa tay, qua đó tôi rèn trẻ nề nếp
thói quen biết xếp hàng chờ đến lượt và biết cất dép đúng nơi quy định.
*Chuẩn bị trước giờ ăn:
Vào đầu năm trẻ chưa biết cách
bê ghế, chưa có thói quen tự bê ghế vào bàn ngồi ăn mà thường cô phải lấy hộ
trẻ, nhưng qua một thời gian tôi áp dụng vào thực tế cho trẻ tự bê ghế vào bàn,
cứ như vậy hàng ngày trẻ đã có thói quen rất tốt, qua nhiều lần trẻ có nề nếp
tự bê ghế vào bàn ngồi ăn mà giáo viên không cần phải làm hộ trẻ. Qua việc làm
này tôi thấy trẻ rất thích được làm công việc tự phục vụ cho mình, trẻ tự tin
hơn,mạnh dạn, khéo léo hơn trong các hoạt động khác.
Trong giờ ăn cô thường xuyên
nhắc nhở trẻ khi ăn không nói chuyện, khi ho biết dùng tay che miệng, ăn hết
xuất, nhai kỹ gọn miệng, biết nhặt cơm rơi vào đĩa, lau tay bằng khăn ẩm, ăn
xong để bát thìa đúng nơi quy định. Biết bê ghế cất đúng nơi và tập lau miệng,
lấy nước uống sau khi ăn.
Cứ như vậy qua các hoạt động
tôi uốn nắn giáo dục rèn kỹ năng tự phục vụ
cho và trẻ thói quen hành vi tốt trẻ rất thích và phấn khởi làm một số
công việc tự phục vụ , tạo cho trẻ hình thành phát triển kỹ năng sống trong
giai đoạn sau.
Giải pháp 6: Phối kết hợp với phụ huynh trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ
Thời gian trẻ đến lớp với cô
nhiều xong còn hơn một nửa thời gian trẻ ở nhà với ông bà cha mẹ. Chính vì vậy
việc phối hợp với phụ huynh để rèn một số kỹ năng tự phục vụ và thói quen hành
vi đạo đức cho trẻ là việc làm hết sức quan trọng vì sự phối hợp giưa gia đình
và nhà trường có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau.
Ngay từ đầu buổi họp phụ huynh
đầu năm tôi đã đưa ra yêu cầu chỉ tiêu cần đạt đối với trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
cho phụ huynh nắm bắt về cân nặng chiều cao, những kiến thức cơ bản trẻ đạt
được và một số kỹ năng tự phục vụ đối với trẻ 24-36 tháng.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về kết quả
học tập thái độ hành vi và một số kỹ
năng tự phục vụ của từng trẻ đến phụ huynh trong các giờ đón trả trẻ.
Với trẻ có biểu hiện tốt về
hành vi thói quen như cháu: Bình, Bảo ..để phụ huynh động viên trẻ phát huy thói quen tốt cho trẻ .
Lớp tôi có cháu Long, Thịnh,
Giang.. chưa biết tự cất dép đúng quy định mà mẹ hay làm hộ con vì vậy vào buổi
chiều trả trẻ hoặc giờ đón tôi phối hợp với phụ huynh uốn nắn trẻ cùng giáo
viên giúp trẻ có thói quen kỹ năng tự phục vụ tốt hơn.
Trong lớp tôi xây dựng góc tuyên truyền cập
nhật các nội dung giáo dục hành vi tốt qua hình ảnh nội dung bài thơ, câu
chuyện và một số nội dung mời phụ huynh tham gia chương trình học của trẻ để
phụ huynh biết cùng cô giáo dục trẻ thêm. Mời phụ huynh tham dự các tiết học
của trẻ.
+ Về khả
năng áp dụng của sáng kiến:
Do sáng kiến kinh nghiệm đã đưa
ra được một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ phù hợp
với tình hình thực tế của lớp, của nhà trường và của địa phương. Giải quyết
được vấn đề tồn tại trong quá trình hình thành, rèn luyện kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ. Vì vậy, đã thu hút được trẻ tham gia vào hoạt động, đáp ứng được yêu
cầu của chương trình giáo dục mầm non theo kịp sự phát triển của xã hội.
-
Lợi ích thiết thực:
Trước khi thực hiện đề tài này tôi thấy trẻ khoảng 90 % chưa có kĩ
năng tự phục vụ, các công việc hầu như giáo viên phải giúp trẻ trực tiếp.
Qua
việc áp dụng các giải pháp trên vào hoạt động sinh hoạt hàng ngày, tôi thấy trẻ đã có kĩ năng tự phục vụ đạt
trên 80%. Trẻ đã biết tự xúc ăn, ăn gọn gàng, biết tự rửa tay bằng xà phòng
sạch sẽ, biết lấy khăn và rửa mặt khi mặt bẩn, biết tự lấy cất gối, ngủ đúng
giờ, biết cất xếp ghế gọn gàng, đi vệ sinh đúng nơi quy định theo nhu cầu.
Các
hoạt động giáo dục kĩ năng tự phục vụ này cũng có thể dùng cho trẻ lớp lớn hơn
nhằm củng cố và rèn luyện thường xuyên cho trẻ.
Sáng kiến kinh
nghiệm có thể áp dụng đại trà trong các cơ sở giáo dục mầm non nói chung và
trong các trường Mầm non trên địa bàn huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc nói
riêng đều rất hiệu quả.
Các hình thức tổ chức rèn luyện kĩ năng tự
phục vụ này rất phù hợp để các cơ sở giáo dục mầm non và các cô giáo mầm non
tham khảo, giúp trẻ của lớp, của trường mình có các kĩ năng cơ bản và phát
triển tốt nhất. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, trẻ còn nhỏ nên tôi
chưa thiết kế được nhiều các hoạt động và các hoạt động còn ở mức đơn giản, rất
mong các bạn đồng nghiệp tham khảo và cho ý kiến đóng góp để đề tài của tôi
được hoàn thiện hơn.
- Đánh giá
lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp trong đơn
theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
+ So sánh
lợi ích kinh tế, xã hội thu được khi áp dụng sáng kiến.
Một là: Kết quả trên học sinh
Do sáng kiến kinh nghiệm đã đưa
ra được một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ phù hợp
với tình hình thực tế của lớp, của nhà trường và của địa phương. Giải quyết
được vấn đề tồn tại trong quá trình hình thành, rèn luyện kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ. Vì vậy, đã thu hút được trẻ tham gia vào hoạt động, đáp ứng được yêu
cầu của chương trình giáo dục mầm non theo kịp sự phát triển của xã hội.
Trước khi thực hiện đề tài này tôi thấy trẻ khoảng 90 % chưa có kĩ năng tự phục vụ, các công việc hầu như giáo
viên phải giúp trẻ trực tiếp.
Qua một năm cho trẻ rèn luyện
kỹ năng tự phục vụ theo giải pháp trên tôi nhận thấy trẻ trở nên thông minh
nhanh nhẹn rõ rệt, cháu tích cực và chủ động trong mọi hoạt động tìm tòi và
khám phá thế giới xung quanh, có nề nếp thói quen hành vi đạo đức tốt, có kỹ
năng tự phục vụ đơn giản phù hợp theo độ tuổi đạt được mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó ngôn ngữ trẻ trở nên mạch lạc hơn,
trẻ mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp rất nhiều, thói quen lao động tự
phục vụ ở trẻ tốt hơn. Không những thế ở trẻ còn hình thành những phẩm chất tốt
như khả năng phối hợp hoạt động tốt với các bạn, khả năng tự kiềm chế, nhường
nhịn bạn, biết chơi cùng bạn và giúp đỡ bạn. Đó là niềm vui không chỉ dành cho
các bậc cha mẹ mà còn là niền vui lớn của cô giáo mầm non, của những người làm
công tác giáo dục.
*So sánh
một số kết quả trước và sau khi áp dụng:
TT |
Nội dung khảo sát |
Trước khi áp dụng |
Sau khi áp dụng |
So sánh |
||||||||
SL |
Đạt |
% |
CĐ |
% |
Đạt |
% |
CĐ |
% |
Tăng |
Giảm |
||
1 |
- Thói quen vệ sinh (Nói với người
lớn khi có nhu cầu ăn, ngủ, vệ sinh…. Đi vệ sinh đúng nơi qui định ) |
15 |
5 |
33 |
10 |
67 |
14 |
93 |
1 |
7 |
60 |
0 |
2 |
- Thói quen trong ăn uống (Tự xúc
cơm ăn, tự lấy nước uống..) |
15 |
6 |
40 |
9 |
60 |
13 |
87 |
2 |
13 |
47 |
0 |
3 |
- Tự cất đồ dùng cá nhân (Cất ba
lô, cất dép..) |
15 |
5 |
33 |
10 |
76 |
14 |
93 |
1 |
7 |
60 |
0 |
4 |
- Tự cởi, tháo dép.. |
15 |
3 |
20 |
12 |
80 |
13 |
87 |
1 |
13 |
67 |
0 |
5 |
- Lấy ghế, bê ghế ngồi vào bàn và
cất ghế đúng nơi quy định. |
15 |
7 |
47 |
8 |
53 |
15 |
100 |
0 |
0 |
53 |
0 |
Từ những kết quả nêu trên cho thấy rằng tỷ
lệ trẻ có thói quen vệ sinh,thói quen trong ăn uống, thói quen trong việc tự
phục vụ tăng
lên đáng kể. Như vậy, Giáo dục kĩ năng
tự phục vụ cho trẻ ở trường Mầm Non là việc làm hết sức quan trọng vì nó sẽ
giúp cho trẻ hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức và tính tự lập sau này
đồng thời hình thành những yếu tố đầu
tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Về giáo
viên.
- Bản thân tôi ngày càng hoàn
thiện hơn về kỹ năng tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.Tiết kiệm được
thời gian, thay đổi được lề lối làm việc,
mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy.
- Nắm chắc nội dung, phương pháp
rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.
- Có nhiều kinh nghiệm trong việc
tổ chức hoạt động và truyền tải thông tin tới trẻ.
- Có ý thức trách nhiệm trong
công việc.
- Giáo viên học hỏi được một số biện pháp hình thành và rèn luyện kỹ năng
tự phục vụ cho trẻ.
Ba là: Về phụ huynh học sinh.
- Phụ
huynh yên tâm gửi con ở trường mà không cần phải mất thêm chi phí để cho trẻ tham gia các
lớp học kỹ năng sống ở các trung tâm thiếu nhi…
+ Lợi ích kinh tế:
Sau khi áp dụng các giải pháp trên đã thu được một số lợi
ích kinh tế như:
- Giảm được số tiền mua vật liệu làm đồ dùng đồ chơi.
- Giảm được thời gian cô phải trực tiếp giảng dạy mà qua
các cách tổ chức trên thì trẻ được tự mình khám phá tìm hiểu ghi nhớ.
- Giảm áp lực qua việc học cho trẻ bởi trẻ học theo cách
“học mà chơi, chơi bằng học”
+ Số tiền làm
lợi:
- Giảm được số tiền đi học thêm, giảm được số tiền phải
đi lại do chi phí cho xăng xe…. bởi:
Qua việc áp dụng giải pháp trên thì trẻ đã hình thành được kỹ
năng tự phục vụ ngay ở trên lớp và được phụ huynh phối hợp rèn luyện thêm ở
nhà.
VD: Chi phí cho 1 lớp học kỹ năng sống là
100.000đ/ trẻ/tháng, mà lớp tôi có 15 học sinh . Vây 15 học sinh x 100.000đ =
1.500.000đ/tháng.
+ Mang lại
hiệu quả kinh tế:
Sáng kiến kinh nghiệm đã giảm chi
phí về đầu tư cơ sở vật chất – trang thiết bị đồng thời vẫn nâng cao hiệu quả
chăm sóc giáo dục trẻ, làm cho tre dần dần hình thành được những thói quen, kỹ
năng tự phục vụ bản thân.
+ Mang lại lợi ích
xã hội:
Giúp cho trẻ hình thành
nhân cách, phẩm chất đạo đức và tính tự lập sau này. Lao động tự phục vụ bản
thân là một trong những kỹ năng quan trọng thúc đẩy trẻ hoàn thiện mình
một cách tốt nhất. Đây là cơ hội giúp trẻ thông minh và trưởng thành hơn trong
cuộc sống.
- Các thông tin cần
được bảo mật (nếu có): Không
Các điều kiện cần
thiết để áp dụng sáng kiến;
- Về cơ sở vật chất - trang thiết bị: Có đủ cơ
sở vật chất - trang thiết bị - Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ hoạt động.
- Có kế hoạch thực hiện phù hợp với độ tuổi,
phù hợp theo chủ đề.
- Tìm tòi đồ dùng, đồ chơi đẹp,
hấp dẫn tạo sự thu hút đối với trẻ.
- Nội dung hoạt động phù hợp
với chủ đề, cụ thể, rõ ràng.
- Biết kích thích động cơ bên
trong của trẻ, gây hứng thú cho trẻ, khen chê đúng mức, động viên khích lệ kịp
thời.
- Về giáo viên: Có kiến thức về
giáo dục Mầm non, biết giải quyết hợp lý các tình huống sư phạm, có trình độ
chuyên môn, yêu nghề, mến trẻ.
- Học sinh: Học sinh có sức
khỏe tốt, đi học chuyên cần.
- Phụ huynh học sinh: Luôn giữ
mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh, nhờ phụ huynh hỗ trợ đồ dùng, đồ chơi để
hoạt động của cô và trẻ ngày càng hấp dẫn, phong phú hơn.
Về khả
năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức nào hoặc những
người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có);
Đề tài giáo dục kỹ năng sống và
đặc biệt là lĩnh vực rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ luôn luôn đồng hành
với mọi hoạt động sống của con người, của trẻ
nên sáng kiến có thể áp dụng trong tất cả các lĩnh vực giáo dục và trong
một số lĩnh vực khác cũng rất hiệu quả.
Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng tại các trường, lớp mầm non trên địa bàn huyện và tỉnh.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/