Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác, học để làm người đang là
một trong những vấn đề then chốt của giáo dục hiện nay. Xu hướng giáo dục thế giới đang quan tâm đến việc trang bị cho thế hệ trẻ kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, ứng xử hiệu quả trước những nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày, để trẻ biết tự bảo vệ mình, biết giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời hướng tới một môi trường giáo dục hài hòa, thân thiện cho trẻ trên cơ sở các giá trị cuộc sống.Khi mới sinh ra đứa trẻ nào cũng nhận được sự bao bọc kỹ
càng của bố mẹ và những người thân yêu nhất. Gia đình chính là môi trường an
toàn cho sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, cùng với thời gian trẻ lớn lên cũng
đồng nghĩa với việc tiếp xúc với nhiều môi trường khác nhau ngoài môi trường
gia đình. Trong khi đó bố mẹ không thể lúc nào cũng ở bên trẻ 24/24 giờ được. Vì
vậy, giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho
trẻ ngay từ khi còn nhỏ là việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Cùng với
sự tiến bộ của xã hội hiện nay thì việc đòi hỏi trẻ phải có một sự phát triển
toàn diện. Ngoài những lượng kiến thức được cung
cấp cho trẻ để làm nền tảng thì trẻ còn cần phải có kỹ năng tự bảo vệ bản thân
của riêng mình như: Kỹ năng an toàn khi chơi, kỹ năng xử lý khi bị thất lạc…
cũng chiếm phần lớn đối với sự phát triển của trẻ. Kỹ năng tự bảo vệ bản thân
chính là chìa khóa để giải quyết các vấn đề. Kỹ năng tự bảo vệ bản thân chính
là năng lực của mỗi trẻ giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc
sống một cách có hiệu quả.
Năm học
2018 – 2019 với kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường tiếp tục phát
động phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"
với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của trẻ trong các hoạt
động giáo dục ở nhà trường và ở ngoài xã hội một cách chủ động, sáng tạo. Trong
05 nội dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cụ thể hơn là kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ.
Trong năm học
này tôi được nhà trường phân công là giáo viên chủ nhiệm lớp Chồi 2- Phân hiệu Ea Tung, cùng với việc nắm
bắt tình hình đặc điểm của trẻ trong giai đoạn 4-5 tuổi, lứa tuổi luôn hiếu kì,
ham thích tò mò, khám phá những điều mới lạ và cũng là lứa tuổi mà trẻ dễ gặp
phải nhiều mối nguy hiểm nhất bởi trẻ chưa có kỹ năng để thu thập thông tin,
phán đoán những mối nguy hiểm có thể xảy ra đối với bản thân. Trong suốt một
thời gian dài suy nghĩ làm cách nào để giúp trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân
một cách tốt nhất, tôi đã tìm hiểu và áp dụng một số biện pháp giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ bản thân cho học sinh lớp mình chủ nhiệm phụ trách và đã thu được
những kết quả không nhỏ. Với mong muốn chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy tôi đã mạnh dạn viết SKKN với đề tài “ Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo
bệ bản thân cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm non Ea Tung”
II. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở
nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tìm các biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ
bản thân cho trẻ 4-5 tuổi. Nhằm góp phần vào việc hình thành và rèn luyện các kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ giúp trẻ
có kiến thức cơ bản tự bảo vệ mình tránh khỏi những nguy hại đến bản thân, rèn
luyện kĩ năng ứng phó với những tình huống nguy hại có thể xảy ra đối với trẻ,
giúp trẻ mạnh dạn, tự tin trong cuộc sống đồng thời góp phần nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay
Phần thứ 2: Giải quyết vấn
đề
I. Cơ sở lí luận
Trang bị kỹ năng để trẻ tự bảo vệ
chính mình là hành trang vô cùng cần thiết để giúp trẻ ứng phó với mọi biến đổi
trong cuộc sống. Theo Bộ giáo dục và đào tạo thống nhất quan điểm của UNICEF
thì kỹ năng bảo vệ bản thân là một nội dung quan trọng trong nhóm kỹ năng nhận
thức về bản thân cần giáo dục trẻ trong các trường Mầm non.
Vậy chúng ta hiểu kỹ năng tự bảo vệ bản thân là gì? Kỹ năng
tự bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự việc xung quanh
mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật đó. Trẻ có kỹ năng
bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc
khám phá thế giới trong phạm vi an toàn”.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân giúp trẻ hình thành thói
quen và các kỹ năng ứng phó với nguy hiểm khi trẻ gặp phải trong gia đình,
trường học và ngoài xã hội phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Giúp trẻ cảm thấy tự
tin và sẵn sàng vượt qua những nguy hiểm trong cuộc sống.
II. Thực trạng vấn đề
Trong những năm
gần đây thuật ngữ giáo dục kĩ năng sống- kĩ năng tự bảo vệ bản thân luôn được
nhắc đến nhiều nhất trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, không chỉ riêng ở
các cấp học như Tiểu học, cấp Trung học cơ sở, cấp Trung học phổ thông mà cả ở
cấp học Mầm non.
Là một giáo
viên Mầm non tôi luôn nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề giáo dục kĩ năng
sống từ khi trẻ còn bé. Chính vì vậy, trong những năm qua trong mọi hoạt động
giáo dục trẻ tôi luôn tìm tòi nhiều biện pháp để lồng ghép giáo dục kĩ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ như công tác xây dựng môi trường trong và ngoài lớp,
trang trí bảng tuyên truyền, trò chuyện với trẻ về kĩ năng tự bảo vệ bản thân
mọi lúc mọi nơi Mặc dù đã đưa ra nhiều biện pháp nhưng hiệu quả đạt được trên
trẻ khiến tôi chưa hài lòng, chưa thật sự hình
thành ở trẻ ý thức tự bảo vệ chính bản thân mình, khả năng nhận biết các kĩ
năng cơ bản như: Kĩ năng an toàn khi chơi, kỹ năng an toàn khi tham gia giao
thông; kỹ năng ứng xử khi bị lạc, kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể còn nhiều hạn
chế. Sau đây là bảng số liệu tôi đã thực hiện khảo sát trên trẻ
Đối
tượng khảo sát: Trẻ 4-5 tuổi
Số lượng
trẻ khảo sát: 30 trẻ ( Nữ: 18,
Thời gian khảo sát: 12/2017
sTT |
Nội dung khảo sát |
Đạt |
Chưa đạt |
||
Số trẻ |
Tỉ lệ % |
Số trẻ |
Tỉ lệ% |
||
1 |
Không chơi với
những đồ vật nguy hiểm, chơi ở nơi nguy hiểm |
20 |
67% |
10 |
33% |
2 |
Không đi theo và nhận quà của người lạ |
19 |
63% |
11 |
37% |
3 |
Biết kêu người
lớn giúp đỡ khi bị lạc hoặc gặp nguy hiểm |
15 |
63% |
11 |
37% |
4 |
Biết đội mũ
bảo hiểm đúng cách |
20 |
67% |
10 |
33% |
5 |
Biết các hành
vi xâm hại cơ thể |
14 |
47% |
18 |
53% |
Qua khảo sát tôi nhận thấy kĩ năng tự bảo vệ ở trẻ chưa
đồng đều, phần nhiều trẻ còn rất thụ động, chưa nhận biết được mối nguy hiểm có
thể xảy ra đối với mình, chưa có khả năng ứng phó kịp thời với những tình huống
nguy cấp, chưa biết cách bảo vệ bản thân trước nguy hiểm...Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này, trong đó việc ba mẹ trong gia đình thường xuyên yêu
thương, chìu chuộng, bao bọc trẻ, luôn có thói quen làm thay trẻ trong tất cả
mọi việc vì sợ con gặp nguy hiểm hay sợ con làm hỏng việc. Trong khi đó đến
trường, tâm lý của cô giáo lại mong con
có kết quả nhanh lại hay dùng mệnh lệnh mà quên đi giải thích cho trẻ hiểu vì sao
lại làm như vậy. Chính vì thế, rất khó hình thành ý thức và kỹ năng trong đầu
trẻ.
Từ những tồn tại được đưa ra trong quá trình giáo dục kĩ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ, tôi đã ghi chép cẩn thận từng vấn đề tồn tại.
từ những vấn đề này tôi suy nghĩ để đưa ra biện pháp nào hiệu quả nhất, thiết
thực nhất và dễ dàng thực hiện với thực tế của trường, lớp để mang lại hiệu quả
cao trong việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
Một số biện pháp tôi đã nghiên cứu và ứng dụng như sau: Đối
với giáo viên trong quá trình lập kế hoạch giáo dục cần chọn lựa nội dung giáo
dục kĩ năng tự bảo vệ nào phù hợp nhất đối với trẻ; chú trọng xây dựng các tiết
dạy có chủ đích về giáo dục kĩ năng tự bảo vệ; thường xuyên đưa nội dung giáo
dục kĩ năng tránh xâm hại cơ thể vào cho trẻ tìm hiểu; phát huy hơn nữa vai trò
phối hợp với phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải
quyết vấn đề
Giải pháp 1: Lựa chọn nội dung giáo dục kĩ
năng tự bảo vệ bản thân vào từng chủ đề cụ thể
Trong
thực tế có rất nhiều kỹ năng tự bảo vệ khác nhau, khó có thể liệt kê một cách đầy
đủ những kỹ năng con người cần có trong cuộc sống. Tuy nhiên dựa vào đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ Mẫu giáo nhỡ cùng với các hoạt động đặc thù của trẻ trong
trường Mầm non đó là “học mà chơi, chơi mà học” bên cạnh đó dựa vào chương
trình giáo dục Mầm non và tình hình cụ thể của trường, lớp vào đầu năm học tôi đã
cùng các đồng chí giáo viên trong tổ lên kế hoạch lựa chọn các kỹ năng tự bảo
vệ phù hợp với trẻ 4 – 5 tuổi để đưa vào giáo dục trẻ nhằm đạt hiệu quả cao.
Bảng nội dụng giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ
TT |
Chủ
đề |
Kĩ
năng tự bảo vệ bản thân |
Tháng thực
hiện |
1 |
Trường Mầm non |
Kĩ năng chơi
an toàn với đồ chơi ngoài trời, tránh xa nơi nguy hiểm |
Tháng 09 |
2 |
Bản thân |
Không đi theo
và nhận quà của người lạ Tránh bị xâm
hại cơ thể |
Tháng 09 |
3 |
Gia đình |
Không chơi với
những đồ vật gây nguy hiểm, nơi nguy hiểm Biết kêu người
khác giúp đỡ khi bị lạc |
Tháng 10 |
4 |
Nghề nghiệp |
Không chơi với
1 số dụng cụ nghề gây nguy hiểm, |
Tháng 11 |
5 |
Động vật |
Tránh xa 1 số
con vật gây nguy hiểm |
Tháng 12 |
6 |
Thực vật |
Đảm bảo an
toàn, không leo trèo lên cây |
Tháng 01 |
7 |
Tết và mùa
xuân |
Ăn uống vệ
sinh trong ngày tết |
Tháng 02 |
8 |
Phương tiện
giao thông |
Biết chấp hành
và thực hiện theo quy định của một số biển báo giao thông cơ bản. Biết cách
đội và tháo mũ bảo hiểm |
Tháng 03 |
9 |
Hiện tượng tự
nhiên |
Không chơi
những nơi nguy hiểm: ao, hồ, sông, suối... |
Tháng 04 |
10 |
Quê hương- đất
nước- Bác Hồ |
An toàn khi đi
du lịch |
Tháng 05 |
Thông
qua bảng kế hoạch xây dựng các nội dung giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho
trẻ, tôi đã đưa ra một số kỹ năng cần thiết để giáo dục trẻ trong những hoạt
động cụ thể giúp trẻ nhận thức sâu sắc hơn vấn đề, và hình thành kỹ năng ứng
phó khi gặp vấn đề nguy hiểm trong quá trình sống của trẻ, các nội dụng được cụ
thể hóa, không chồng chéo và được tích hợp vào từng chủ đề quen thuộc xuyên
suốt cả năm học. Điều này giúp giáo viên dễ dàng trong việc lên kế hoạch năm
học, kế hoạch giáo dục tháng, tuần, kế hoạch ngày và thực hiện giáo dục trẻ một
cách có hiệu quả.
Giải
pháp 2: Xây dựng các tiết học dạy trẻ những kĩ năng cơ bản
Trẻ ở
lứa tuổi mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi hầu hết trẻ chưa phân biệt được những gì là
nguy hiểm hay không nguy hiểm đối với mình. Chính vì vậy nên việc giúp
trẻ phân biệt những mối nguy hiểm luôn được tôi quan tâm, lồng ghép vào để giáo
dục trẻ qua hoạt động học, hay hoạt động vui chơi, hoạt động lao động, mọi lúc
mọi nơi...Để việc giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ được tốt, tôi đã lựa chọn ra
những mối nguy hiểm thường xảy ra trong gia đình, trường học như: Ổ điện, quạt
điện, bếp ga, phích nước nóng, bàn là…tôi thường tận dụng thời gian đón trẻ,
hoặc trong giờ hoạt động chiều để trò chuyện giáo dục trẻ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng ở việc cô nhắc nhở trẻ không được
lại gần, không được sử dụng những đồ dùng đó thì trẻ sẽ không hiểu vì sao phải
như vậy, trẻ sẽ dễ dàng màu quên. Chính vì vậy tôi đã chủ động đưa các nội dung
giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân thành nội dung trọng tâm của một hoạt động
học để giáo dục trẻ.
Những kỹ năng mà tôi đã áp dụng vào để xây dựng thành hoạt
động học như: Dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy hiểm (dao, kéo, chất tẩy
rửa, đinh, ổ điện, nước sôi, bật lửa, kim tiêm, quạt, cách chơi cầu trượt...);
dạy trẻ cách đội và tháo mũ bảo hiểm
Ví dụ 1: Đối với kỹ năng “Dạy trẻ không
chơi với những đồ vật nguy hiểm” tôi tiến hành dạy trẻ ở chủ đề “ Gia đình” tôi
đã xây dựng thành hoạt động học cụ thể như sau:
- Đầu
tiên tối sẽ phân loại ra các nội dung, đồ dùng cần cung cấp cho trẻ trong tiết
dạy (dưới dạng tranh ảnh) và chia lớp làm 02 nhóm để thảo luận:
+ Nhóm
thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế.
+ Nhóm
thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm
nước sôi, ổ điện, bếp ga, bật lửa.
Trẻ thảo luận xong tôi mời đại diện các nhóm lên
giới thiệu trình bày những hiểu biết về các đồ dùng, cách xử lý của nhóm mình
cho các nhóm còn lại xem.
Sau mỗi
lần giới thiệu tôi sẽ đăt hệ thống các câu hỏi để cả lớp khám phá:
-
Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh,
cạnh bàn, cạnh ghế.
+ Các
con có nhận xét gì về các đồ dùng này?
+ Điều
gì sẽ xảy ra nếu các con tự ý dùng dao, kéo?
+ Khi
nào thì các con được dùng kéo? Và phải dùng như thế nào?
+ Các
con phải làm gì khi chơi gần cạnh bàn, cạnh ghế?...
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
-
Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi,
ổ điện, bếp ga.
+ Đối
với những đồ dùng này thì các con phải làm sao? (Tránh xa)
+ Vì sao
lại phải tránh xa?
+ Điều
gì sẽ xảy ra khi các con nghịch ấm nước sôi hay cho tay vào ổ điện ?
+ Ai sẽ
là người được dùng những đồ vật này?
Tiếp
theo tôi sử dụng các trò chơi để nhằm khắc sâu hơn cho trẻ những gì vừa được
học như trò chơi “Gạch bỏ các hành vi sai”; “ Chọn đồ chơi an toàn, không an
toàn”.
Ví dụ 2: Đối với kỹ năng dạy trẻ đội mũ
bảo hiểm đúng cách, đây là một trong những kỹ năng mà tôi cho rằng rất là quan
trọng phải chú tâm nhiều, tôi muốn hình thành cho trẻ của mình thói quen chấp
hành đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông từ khi còn rất nhỏ đây là một điều
đặc biệt cần thiết khi tham gia giao thông để đảm bảo an toàn cho chính bản
thân mình.Với kỹ năng này tôi tiến hành dạy trẻ như sau:
-
Đầu tiên tôi sẽ cho trẻ xem 1 số hình ảnh khi bé ngồi trên xe máy: bé đội mũ
bảo hiểm, bé không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm bị ngược, đội mũ bảo hiểm
nhưng không cài dây quai sau đó đàm thoại cùng trẻ:
+ Các con vừa nhìn thấy những gì?
+
Theo các con hành vi nào đúng? Hành vi nào sai khi tham gia giao thông?
+
Vì sao không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm bị ngược, không cài dây quai mũ
bảo hiểm là hành vi sai?
+
Để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông các con phải làm gì?
+
Vậy làm thế nào để đội mũ bảo hiểm đúng cách?
-
Bước tiếp theo tôi chia lớp thành 3 đội chọn qui trình các bước đội mũ bảo hiểm
vào băng cài theo suy nghĩ của trẻ
+B1: Cầm mũ bảo hiểm và xác định phía trước,
phía sau của mũ bảo hiểm
+B2: Lật ngửa mũ bảo hiểm và kéo dây quai sang
2 bên
+B3:
Đội mũ bảo hiểm lên đầu
+B4: Cài chặt 2 dây quai cho vừa khít với cằm
-
Mời đại diện 3 đội lên nói trình tự các bước đội mũ bảo hiểm đồng thời tôi giáo
dục trẻ: Khi các con được người lớn chở đi học, đi chơi các con nhớ phải đội mũ
bảo hiểm và phải đội đúng cách để bảo vệ an toan cho bản thân
Đối với
các tiết học tôi đã xây dựng, hầu hết việc đưa ra hệ thống câu hỏi trong quá
trình tổ chức cho trẻ tìm hiểu được tôi hết sức chú trọng. Các câu hỏi phải thật sự ngắn gọn dễ hiểu đối
với trẻ, câu hỏi mang tính gợi mở, giúp trẻ suy nghĩ để trả lời. Đồng thời để
tiết dạy mang lại hiệu quả tôi đã sử dụng hình thức làm việc nhóm nhằm giúp trẻ
có được sự tự tin mạnh dạn trong quá trình học tập. Sau mỗi bài học tôi thường
chọn nhiều trò chơi ôn luyện để giúp trẻ nhớ lâu những kiến thức đã học
Giải pháp 3: Thường
xuyên sử dụng các tình huống giả định để dạy trẻ các kỹ năng tự bảo vệ bản
thân.
Có rất nhiều tình huống xảy ra có thể đe dọa đến sự an toàn
của trẻ, vì thế trẻ cần hiểu được trong tình huống nào thì phải làm gì để tránh
sự nguy hiểm. Tôi đã đưa ra nhiều tình huống cụ thể, chia lớp thành nhiều nhóm
nhỏ, tôi hướng dẫn phân tích, giải thích và cùng trẻ tìm ra cách giải quyết tốt
nhất.
Theo các
nhà nghiên cứu chỉ rõ: Trẻ hiểu được 10% những gì trẻ nghe; 40% những gì nhìn
thấy; 60% những gì trẻ nhắc lại (nói) và khoảng 90% những gì trẻ nói và làm.
Chính vậy sau mỗi tình huống mà giáo viên đưa ra, trẻ sẽ được nhập vai và thể
hiện cách xử lý trong từng tình huống từ đó trẻ sẽ có biểu tượng về các hành vi
chuẩn mực làm giàu vốn sống, vốn kinh nghiệm giúp trẻ biết lựa chọn những hành
vi tích cực để áp dụng vào cuộc sống của mình. Tình huống mà giáo viên cần dạy
trẻ phải thật gần gũi, thực tế, dễ hiểu phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Sau đây là một số tình huồng tôi đã áp dụng.
Tình huống thứ nhất: Nếu có người lạ cho con bánh, kẹo và rủ con đi
chơi thì con làm như thế nào?
Cho trẻ suy
nghĩ, cho trẻ đưa ra ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi.
Tiếp theo phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải
quyết đó là: biết cách từ chối nhưng vẫn thể hiện sự lễ phép,
ngoan ngoãn “ Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Tôi đặt giả thiết nếu con từ chối nhưng họ vẫn một mực dúi quà vào
tay con và có ý lôi kéo con thì lúc đó con làm gì?. Với giả thiết này tôi muốn
trẻ có phản ứng thật nhanh như hét to, cáu thật mạnh vào tay người lạ và chạy
nhanh đến người thân gần đó hoặc chỗ đông người
Mời trẻ lên đóng vai, một cô giáo khác đóng vai người lạ. Thông
qua vai trẻ đóng trẻ sẽ ứng phó với tình huống theo sự hiểu biết của bản thân,
từ đó giúp trẻ khắc sâu hơn những kinh nghiệm mà trẻ có được
Tình huống thứ 2: Bị lạc bố mẹ khi đi xem lễ hội, siêu thị, khu vui
chơi.
Tôi cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ sẽ đưa ra cách giải quyết của riêng
trẻ. Gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi: Theo con làm vậy có được không?, tạo sao?
Sau đó, cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất:
Khi bị lạc bé hãy bình tĩnh, không khóc hay la hét và chạy lung
tung mà hãy đứng yên một chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ có thể quay lại chỗ đó để tìm
bé. Hoặc bé có thể tìm đến những người mặc đồng phục giống nhau có đeo bảng
tên, hoặc nhờ bảo vệ, cô bán hàng để giúp đỡ gọi điện thoại, hoặc thông báo lên
loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về
với bố mẹ, vì có thể đó là người xấu lợi dụng và sẽ bắt cóc con.
Tình huống thứ 3: Con làm gì khi bạn rủ
chơi đá bóng ngoài lề đường, vỉa hè
Cho trẻ suy nghĩ là đưa ra cách giải quyết của mình. Trong khi trẻ
thảo luận, tôi đưa ra giả thiết: nếu chơi bóng ngoài đường thì sẽ nguy hiểm như
thế nào?. Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ hiểu vấn đề đó là:
Tuyệt đối không chơi chơi đá bóng ngoài lề đường vỉa hè vì sẽ dễ gây ra tai nạn
xe cộ dẫn đến nguy hiểm đến bản thân.
Khi gặp tình huống này các bé chỉ cần nói với bạn mình: Mình không
chơi đâu vì mẹ nói chơi gần đường giao thông rất nguy hiểm
Thông qua nhiều tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra trong cuộc sống
hàng ngày, bằng cách cho trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ vận dụng kinh
nghiệm của bản thân để giải quyết tình
huống có vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án hiệu quả nhất, đó
cũng chính là kinh nghiệm ta cần dạy trẻ. Những tình huống có vấn đề được giáo
viên đưa vào trong các hoạt động giáo dục trẻ đã giúp trẻ có sự tư duy logic,
biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong
cuộc sống
Giải pháp 4: Thường xuyên
đưa nội dung giáo dục kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể vào dạy cho trẻ
Xâm hại
trẻ em là bất kỳ hành động nào có chủ ý và làm tổn thương hoặc gây nguy hại đến
trẻ như: Ôm, hôn. Đụng chạm vào vùng kín của trẻ. Xâm hại trẻ em gây ra những
tổn thương nghiêm trọng và lâu dài cả về thể xác và tâm lý đối với nạn nhân.
Những hậu quả đó cũng ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng và toàn xã hội.
Để đảm
bảo cho trẻ có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân thể cũng như cách
phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể. Với chủ đề "bản thân" tôi dạy trẻ nhận
biết các bộ phận trên cơ thể, giáo dục trẻ những bộ phận không ai được đụng đến
ngoài bố, mẹ, anh chị em trong gia đình, y tá hay bác sỹ khi đi khám bệnh có bố
mẹ ở đấy.
Đối với
trẻ 4-5 tuổi các cháu chưa thể hiểu được tên gọi các bộ phận thể hiện giới
tính, giáo viên cũng không thể sử dụng tên gọi bộ phận sinh dục nam- nữ trong y
khoa để nói với trẻ. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng búp
bê trai , búp bê gái mặc đồ bơi, những bộ phận cơ thể được đồ bơi che là các bộ
phận riêng tư, vùng kín là nơi con nên tôn trọng, giữ gìn vệ sinh không nên để
mọi người thấy bộ phận riêng tư của mình và đặc biệt tuyệt đối không cho bất cứ
ai động vào cũng như không được đụng chạm vào, bộ phận riêng tư, vùng kín của
bất cứ ai, của bất cứ bạn nào trong lớp.
Bên cạnh
đó tôi luôn quan tâm đến việc gần gũi, trò chuyện cùng trẻ giúp trẻ chia sẻ
cách cháu giữ gìn vệ sinh thân thể vệ sinh bộ phận riêng tư( thường xuyên tắm
rửa) cũng như mạnh dạn chia sẻ với cô về những hành động không nên của bạn cùng
lớp đối với cơ thể mình( đặc biệt một số hành động của bé trai đối với bé gái
khi ở lớp). Điều này trong quá trình giảng dạy đã có rất nhiều giáo viên từng gặp
phải, mặc dù người lớn chúng ta thường quan niệm rằng trẻ nhỏ như tờ giấy
trắng, trẻ chưa biết gì. Tuy nhiên với bản thân là một giáo viên cũng là một
người mẹ tôi thiết nghĩ, nếu chúng ta không ngăn chặn những hành động này thì
vô hình dung giáo viên chúng ta đã giúp trẻ nghĩ rằng hành động xâm hại cơ thể của
bạn cùng giới hay khác giới là không có gì sai.
Chính vì
vậy song song việc giúp trẻ hiểu về giới tính của bản thân, về vùng riêng tư của
trẻ, tôi còn đề ra một số qui định ở lớp như
Đi vệ
sinh đúng nơi qui định( phòng vệ sinh nam-nữ riêng)
Bạn trai
không được nhìn bạn gái khi đi vệ sinh, khi thay đồ và ngược lại
Không
được nghịch, chơi đùa với bộ phận riêng tư của mình
Ngoài
ra, tôi còn dạy trẻ học cách tự bảo vệ bản thân theo quy tắc "Năm ngón
tay" . Các nội dung trong quy tắc được viết thành bài hát “ Năm ngón tay
xinh” do Tổng đài Quốc gia trẻ em phát hành năm 2017. Trong quá trình dạy trẻ
tôi thường xuyên sử dụng bài hát này cho trẻ nghe, hiểu và thực hiện một cách
nhanh hơn.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
- Quy
tắc 5 ngón tay như sau:
Ngón cái - gần mình nhất tượng trưng cho những
người thân ruột thịt trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột. Bé có
thể ôm hôn những người này hoặc đồng ý để cho thành viên trong gia đình ôm hôn
để thể hiện tình yêu, tắm rửa cho bé khi bé còn nhỏ. Nhưng khi đã lớn thì bé sẽ
tự tắm và thay quần áo trong phòng.
Ngón trỏ
- tượng trưng cho thầy cô, bạn bè trong trường, lớp hoặc họ hàng trong gia đình
những người này có thể nắm tay hoặc chơi đùa song chỉ dừng lại ở đó nhưng chạm
vào "vùng đồ bơi" bé sẽ hét to và gọi mẹ.
Ngón
giữa - người quen biết nhưng ít khi gặp
như hàng xóm bạn bè của cha mẹ, những người này bé chỉ cần bắt tay, cười, chào
hỏi.
Ngón áp
út - người quen của gia đình mà bé gặp lần đầu với những người này bé chỉ cần
dừng lại ở mức độ vẫy tay chào.
Ngón út
- ngón tay xa bé nhất thể hiện những người hoàn toàn xa lạ hoặc người có cử chỉ
thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an đối với những người này bé hoàn toàn có
thể bỏ chạy hét to để thông báo với người xung quanh.
Bên cạnh
đó tôi xây dựng các bước phòng tránh xâm hại cơ thể giúp trẻ ghi nhớ và thực hiện
bằng cách đưa ra tình huống nếu ai đó cố tình nhìn, nói, đụng chạm vào vùng kín
của con hoặc yêu cầu con nhìn và đụng chạm vùng kín của họ thì các con sẽ làm
gì?
Bước 1: Phản
đối nói “Không”, xua tay, cắn thật mạnh tay, vai kẻ xấu
Bước 2: Bỏ
chạy (chạy thật nhanh đến nơi đông người, đồng thời hô to để mọi người chú ý
đến mình).
Bước 3: Kể lại tất cả câu chuyện mà người
xấu đã làm với con với bố mẹ và những người các con tin cậy để người lớn kịp
thời can thiệp và bảo vệ các con được an toàn hơn.
Giải pháp 5: Tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ
kỹ năng tự bảo vệ bản thân.
Ngoài việc giáo dục
kĩ năng tự bảo vệ trên lớp, tôi còn kết hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ nhằm giúp
các cháu có được kỹ năng tự bảo vệ tốt nhất, đảm bảo sự an toàn cho trẻ ở
trường cũng như ở nhà, ở ngoài xã hội. Những giờ học về kĩ năng sống tôi đều
mời phụ huynh tham gia, vừa để lắng nghe, quan sát phản ứng của con mình trước
các tình huống vừa có thể tạo điều kiện để phụ huynh gặp gỡ trao đổi vơi giáo
viên về tính cách đặc điểm của con em mình cho giáo viên nắm bắt dễ dàng hơn
Ngoài
ra tôi còn dành thời gian phù hợp trong giờ đón, trả trẻ để trao đổi những
thông tin, hoặc cung cấp thông tin cho một số phụ huynh không có điều kiện cập
nhật thông tin liên quan đến sự an toàn của trẻ hàng ngày. Một số thông tin có
tính thời sự được tôi hết sức lưu tâm, tôi thu thập thông tin quà đài báo in ấn
cẩn thận trang trí lên bảng tuyên truyền
Ngoài ra, tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ
con, phải dậy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách
tự lập, tự bảo vệ bản thân, nhận biết những mối nguy hiểm từ
xung quanh và cách xử lí thì trẻ sẽ vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều đó được
chứng minh rõ ràng từ thức tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính
là dạy trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân.
Thông qua các cuộc họp đầu năm, cuối
kì tôi trao đổi thẳng thắn và đưa ra một số yêu cầu đối với phụ huynh như sau:
Không để đồ vật, dụng cụ nguy hiểm gần
nơi sinh hoạt của trẻ
Không rời mắt khỏi trẻ khi cho các
cháu đến những nơi đông đúc, tuyệt đối không cho trẻ chơi một mình ở những nơi
nguy hiểm: ngoài đường, ao, hồ, công trình xây dựng...
Hạn chế việc nhờ người quen, hàng xóm
láng giềng đưa đón trẻ đi học
Tập cho trẻ gái có thói quen mặc quần
lót khi còn bé
Cha mẹ hạn chế thể hiện tình cảm thái
quá đối với con như thường xuyên nựng nịu bộ phận riêng tư của trẻ
Tuyệt đối không để cho con chứng kiến(
nhìn thấy, nghe thấy) vấn đề riêng tư, tế nhị của cha mẹ.
Gia đình tránh xem phim ảnh mang tính
chất bạo lực trước mặt trẻ
Cha mẹ nên dành nhiều thời gian trò
chuyện chia sẻ cùng con, không vội vàng phê
phán đúng - sai , luôn tin tưởng vào năng lực của trẻ.
Đối với một số phụ huynh không có thời gian tham gia vào
cuộc họp , đặc biệt là những cháu con em của gia đình khó khăn, người đồng bào
dân tộc thiểu số tôi đã tìm gặp trực tiếp trao đổi thông tin cần thiết đặc biệt
là vấn đề phòng tránh xâm hại trẻ, tôi cẩn thận trao gửi một sô tài liệu liên
quan đến vấn đề này giúp phụ huynh bảo vệ con em mình, và cùng với nhà trường
xã hội nâng cao kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ
IV. Tính mới của
giải pháp
Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ thật sự rất cần
thiết, bởi trong cuộc sống hiện nay luôn bao quanh những mối nguy hiểm bất ngờ
có thể xảy ra với trẻ khi ở trường, ở nhà hay ngoài xã hội. Trang bị cho trẻ kĩ
năng tự bảo vệ bản thân cũng chính là trang bị cho trẻ hành trang để trẻ có thể
sống an toàn, lành mạnh hơn. Ở cấp học Mầm non, giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
chưa được cụ thể hóa thành một bộ môn trong chương trình học của trẻ, mà đơn
thuần chỉ là lồng ghép vào các hoạt động trong ngày: trò chuyện lúc đón trả
trẻ, lồng ghép giáo dục lúc dạo chơi, tham quan trong giờ hoạt động có chủ
đích...Chính vì vậy thời gian cho trẻ nhận thức, rèn luyện, thực hành về kĩ
năng tự bảo vệ bản thân rất ít, trẻ sẽ không hiểu nguyên nhân vì sao phải làm
như vậy, mặc khác còn khiến trẻ mau quên những kĩ năng này. Chính vì vậy để đạt
hiệu quả cao trong việc giáo dục kĩ năng cho trẻ, tôi đã mạnh dạn tổ chức hoạt
động giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ dưới hình thức như một tiết
học. Thông qua các tiết học giáo dục kĩ năng sống trẻ được làm việc nhóm, nói
lên hiểu biết của bản thân, trẻ sẽ nhận thức, một cách rõ ràng các kĩ năng cần
có để bảo vệ bản thân.
Bên cạnh đó việc sử dụng các tình huống giả định được tôi
đặc biệt chú trọng điều này khác hẳn với những năm học trước, trong quá trình
dạy trẻ giáo viên chủ yếu sử dụng tranh ảnh, video minh họa để lồng ghép giáo
dục trẻ, điều này đã hạn chế việc tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện cách xử lý
của mình trước những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của
trẻ, việc thường xuyên đưa ra các tình huống cụ thể đời thật với trẻ đã giúp
mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
Việc giáo dục các kĩ năng cơ bản giúp trẻ biết bảo vệ bản
thân mình là điều mà các giáo viên luôn đặc biệt quan tâm, tuy nhiên việc giúp
trẻ tiếp cận với kĩ năng tránh xâm hại cơ thể( xâm hại trẻ em) thực tế trong
giảng dạy còn rất ít, hầu như trẻ chỉ được học về sự khác biệt về đặc điểm bên
ngoài, sở thích, trang phục của bạn gái- bạn trai. Rất ít giáo viên mạnh dạn
đưa nội dung này vào giáo dục cho trẻ hoặc có đưa vào thì cũng dừng lại ở mức
giúp các cháu tiếp cận vấn đề chứ chưa đi sâu vào giáo dục giới tính cũng như
những kĩ năng phòng tránh xâm hại. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả trong việc
giáo dục kĩ năng phòng tránh xâm hại cơ thể tôi đã đưa nội dung này vào để giáo
dục trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tóm lại việc đưa ra các biện pháp mới dựa trên kết quả của
cách làm cũ đã mang lại sự chuyển biết khá rõ rệt trong giáo dục kĩ năng tự bảo
vệ bản thân cho trẻ. Trong thời gian gần 1 năm thực hiện hiệu quả trên trẻ được
kiểm chứng ở các lớp 4-5 tuổi tại trường MN Ea Tung.
V. Hiệu quả SKKN
Sau khi
thực hiện các biện pháp, tôi thăm dò ý kiến của đồng nghiệp cùng bằng cách đưa
ra một số câu hỏi
Biện
pháp đưa ra đã phù hợp với đặc điểm của trẻ chưa?
Hiệu quả
khi thực hiện các biện pháp như thế nào? ...
Hầu hết
các câu hỏi thăm dò đều được sự nhất trí của đồng nghiệp và các biện pháp tôi
đưa ra trong đề tài đã được sử dụng và mang lại hiệu quả hết sức bất ngờ tại
các lớp Mẫu giáo 4- 5 tuổi ở trường Mầm non Ea Tung cụ thể như sau: Trẻ đã có
nhận thức khá rõ ràng cụ thể về những nguy hiểm có thể xảy đến với mình, Có ý
thức tốt trong việc tránh xa các đồ vật sắc nhọn, đồ dễ cháy nổ, tránh xa những
nơi nguy hiểm như nước sôi, đường giao thông, công trình, ao hồ...Trẻ ngày càng
mạnh dạn, tự tin hơn nhận thức được giới tính của bản thân, biết bảo vệ bản
thân trước những nguy cơ xâm hại cơ thể
Bảng so
sánh đối chiếu với kết quả khi thực hiện công việc theo cách cũ
Nội dung khảo sát |
Kết quả khảo sát khi thực hiện theo
cách cũ (Tháng 12/2017) |
Kết quả khảo sát sau khi thực hiện
biện pháp mới (Tháng 12/2018) |
Ghi chú |
||||||
Đạt |
Chưa đạt |
Đạt |
Chưa đạt |
||||||
Số lượng |
Tỉ lệ (%) |
Số lượng |
Tỉ lệ (%) |
Số lượng |
Tỉ lệ (%) |
Số lượng |
Tỉ lệ (%) |
||
Không chơi với những đồ vật nguy
hiểm, chơi ở nơi nguy hiểm |
20 |
67% |
10 |
33% |
27 |
90% |
3 |
10% |
23% |
Không đi theo và nhận quà của người lạ |
19 |
63% |
11 |
37% |
28 |
93% |
2 |
6% |
30% |
Biết kêu người lớn giúp đỡ khi bị
lạc hoặc gặp nguy hiểm |
15 |
63% |
11 |
37% |
27 |
90% |
3 |
10% |
27% |
Biết đội mũ bảo hiểm đúng cách |
20 |
67% |
10 |
33% |
28 |
93% |
2 |
6% |
26% |
Biết các hành vi xâm hại cơ thể |
14 |
47% |
18 |
53% |
24 |
80% |
6 |
20% |
33% |
Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I.
Kết luận
Giáo dục
kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ là việc làm cấp bách, thực tế và hoàn toàn
có thể thực hiện lâu dài, nhằm ngay từ đầu hình thành cho trẻ có hiểu biết ban
đầu về quy tắc ứng xử hành vi văn minh trong giao tiếp cũng như, các em cần
biết nguy hiểm để tránh xa, trái với nguy hiểm cho bản thân mình là an toàn. Để đạt hiệu quả trong quá trình
giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ tại trường Mầm non
Trước
hết giáo viên phải luôn học hỏi, tìm hiểu, thường xuyên xem tin tức, thời sự,
báo chí để nắm bắt được các tình huống xảy ra hằng ngày để làm vốn kinh nghiệm
dạy trẻ.
Tạo môi
trường trong và ngoài lớp học thật sinh động, lôi cuốn, hấp dẫn, không gian
rộng rãi để trẻ tham gia vào các hoạt động. Bố trí, sắp xếp các góc chơi phù
hợp với các trò chơi, các tình huống giả định cũng như đồ dùng, đồ chơi phải an
toàn, phong phú, đa dạng để lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động.
Giáo
viên cần phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trẻ để trao đổi những phương
pháp, nội dung cần dạy trẻ tự bảo vệ bản thân. Vì để dạy trẻ được kỹ năng tự
bảo vệ bản thân thì không chỉ được dạy ở trường mà còn phải rèn luyện thực hiện
đều đặn khi ở nhà.
Cha mẹ
hãy bỏ qua những quy định tồn tại trước đó, tự đặt tình huống cùng bàn luận với
trẻ, hãy để trẻ tự nói lên những hiểu biết của mình về các tình huống đó.Thường
xuyên kể chuyện, trò chuyện với trẻ hằng ngày để trẻ ngày càng được mở rộng
những hiểu biết của mình hơn.
Không
tước đoạt của trẻ quyền làm trẻ con hãy để cho trẻ được làm trẻ con thật sự
đừng mong đợi trẻ là một người giống như người lớn hoặc như người lớn mong
muốn. Hãy giúp trẻ lớn lên là chính nó một cách an toàn, tự lập.
II.
Kiến nghị
1. Đối
với nhà trường:
Thường
xuyên tổ chức chuyên đề giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường để giáo viên có
cơ hội trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau
Nhà
trường cần bổ sung các tài liệu, tranh ảnh, truyện, thơ về giáo dục kĩ năng
sống
Tổ chức
nhiều hội thi có sự tham gia của cha mẹ trẻ: Bé thông minh , bé khỏe bé
ngoan...
2. Đối với giáo viên
Giáo
viên cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, ý nghĩa của việc dạy trẻ
kỹ năng tự bảo vệ bản thân để từ đó lựa chọn nội dung giáo dục, hình thức và
biện pháp thực hiện dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho phù hợp, tích cực
nghiên cứu tìm cái mới, sáng tạo để khơi gợi và phát huy sự tham gia tích cực
của trẻ bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên, không nên áp dặt ý kiến hay suy
nghĩ chủ quan của người lớn.
Trên đây là Sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp giáo dục kĩ năng bảo bệ bản thân cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm non Ea Tung”. Rất mong Hội đồng khoa học đánh giá và góp ý để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ Mẫu giáo- Nxb ĐHQG Hà Nội (Lê Bích Ngọc chủ biên)
2. Modun MN 39 BDTX về giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ MN
3. Chương trình GDMN theo
thông tư 28/2016/TT- BGDĐT
4. Cẩm nang an toàn cho con bạn- Nxb
Văn hóa Thông tin.
5. Chương trình
giáo dục mầm non của Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên), Lê Thị Kim Anh, Đinh Văn Vang
(2006)
6. Nguồn internet.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/