1. Lời giới thiệu.
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI thế kỷ của nền văn minh hiện đại, thế kỷ của khoa học công nghệ thông tin. Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển lấy nền kinh
tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người cho CNH và HĐH đất nước. Để tồn tại và phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo kịp các nước phát triển đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các tành tựu tiên tiến nhất. Nhằm đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước văn minh giàu mạnh.Bởi
vậy hệ thống các môn học trong nhà trường hiện nay là hướng tới những vấn đề
cốt lõi thiết thực đó. Bộ môn Tiếng Anh tuy đưa vào phổ biến muộn hơn so với
các môn học khác ở nhà trường nói chung và Trường tiểu học Chấn Hưng nói riêng,
nhưng nó là chìa khóa mở ra kho tàng tri
thức nhân loại. Nó là người hướng đạo đưa ta tới với Thế giới bắt tay với bạn
bè năm châu, tiếp thu và lĩnh hội những tinh hoa nhân loại.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Trên
cơ sở đó, Bộ GD- ĐT đã có định hướng chiến lược cho việc tổ chức dạy học môn
tiếng anh trong trường tiểu học nhằm tạo điều kiện, mô trường cho học sinh được
tiếp xúc với môn học này, tạo tiền đềcho việc học lên các cấp học trên được
vững chắc. Điều này được thể hiện rõ qua mục tiêu của đề án ngoại ngữ quốc gia
2020: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc
dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ
đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực
sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến
năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung câp, cao đẳng và đại học có
đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm
việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở
thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”.
1.1
Cơ sở thực tiễn
Hoạt động dạy học cần được tổ chức
thông qua môi trường giao tiếp đa dạng, phong phú với các hoạt động tương tác
(trò chơi, bài hát, đóng vai, kể chuyện, câu đố…) và dưới các hoạt động cá
nhân, theo cặp và theo nhóm. Các hoạt động giao tiếp cần được thông qua các chủ
điểm và chủ đề, tình huống giao tiếp hấp dẫn cả về nội dung và hình thức. Học
sinh cần được tham gia hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động sáng tạo và có ý
thức dưới sự hướng dẫn cuả giáo viên. Hiện nay sử dụng tiếng Anh
giao tiếp là hết sức quan trọng và cần thiết. Cũng như đứa trẻ khi biết đọc
biết viết thì phải nói trước tiên.“Nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng
trong việc dạy tiếng Anh để học sinh có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và
đạt hiệu quả cao nhất.
Kỹ năng nói giúp cho học
sinh có điều kiện rèn luyện nhiều hơn trong một tiết học. Thực hiện được nguyên
tắc trong mỗi giờ học ngoại ngữ: Ôn cũ - luyện mới. Mọi kiến thức mới đều được
gợi mở dần dần từ những kiến thức đã được học ở bài trước làm cho học sinh
không sợ bài mới.“Học thầy không tày học bạn”, trong khi luyện nói học sinh có
thể học hỏi lẫn nhau, sửa lỗi cho nhau, tự do nói theo ý của mình mà không ngại
thầy cô giáo.
Thông qua thực hành nói,
học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, khắc phục được sự ức chế khi
trong lớp chỉ có một số học sinh giỏi tham gia phát biểu, do vậy sẽ lôi cuốn
được toàn thể học sinh trong lớp tham gia hoạt động kể cả các em học trung bình
hoặc yếu.
Tăng cường khả năng ứng
xử của học sinh trong các tình huống khác nhau, gây hứng thú, tự tin mạnh dạn
cho học sinh khi đã thực hành giao tiếp bằng
tiếng Anh, giờ học sẽ trở lên vui vẻ, sôi nổi và đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên việc học Tiếng Anh ở các
trường tiểu học nói chung và Trường TH Chấn Hưng nói riêng còn gặp nhiều khó
khăn đặc biệt là trong việc nói, giao tiếp bằng tiếng anh. Vì vậy rèn luyện cho
học sinh có thể tự tin giao tiếp, là một yêu cầu rất cần thiết trong việc học
Tiếng Anh đặc biệt là với những học sinh mới làm quen với môn học Tiếng Anh.
Làm thế nào để các em tham gia các
hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động sang tạo và có ý thức dưới sự hướng dẫn
của giáo viên một cách hiệu quả nhất. Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của bản
thân và các kiến thức có được qua tài liệu tham khảo, tôi xin trình bày đề tài
“ Một số phương pháp luyện kỹ năng nói tiếng anh cho học sinh 4, 5” nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn, đổi mới phương pháp dạy và học.
2. Tên sáng kiến:
“Một
số phương pháp luyện kỹ năng nói tiếng anh cho học sinh 4, 5”.
3. Tác giả sáng kiến:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng
kiến:
- Tìm phương pháp phù hợp
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh, thông qua đó để đề ra các
phương pháp có hiệu quả hơn giúp các em rèn luyện tốt kỹ năng nói Tiếng Anh.
- Rèn luyện kỹ năng nói.
Phát huy khả năng học môn tiếng Anh và trên hết là các em có thể trang bị cho
bản thân mình một số kiến thức cho những bậc học tiếp theo cũng như trong tương
lai các em về sau.
- Nâng cao nghiệp vụ sư phạm của bản thân.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc dùng thử:
Ngày 01 tháng 10 năm
2019. Năm học 2019 - 2020
7.
Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Cơ sở lý luận
Chương trình thí điểm Tiếng Anh tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành theo Quyết định số 3321/QĐ-BGDĐT, trong đó Tiếng Anh được dạy từ lớp 3 đến
lớp 5. Sách được biên soạn theo đường hướng giao tiếp, giúp học sinh bước đầu
hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng Tiếng Anh, thông qua bốn kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó ưu tiên phát triển hai kĩ năng nghe và nói.
Học sinh là chủ thể của quá trình dạy học trong môi trường văn hóa và điều kiện
học tập phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, có tính đến sự giao lưu quốc tế. Ngày nay
việc học ngoại ngữ rất phong phú và đang dạng song bất kỳ đối tượng và hình
thức nào thì việc học tiếng Anh theo 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết. Trong
mỗi đơn vị bài học cụ thể thì 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đều được rèn luyện
phát triển nhằm mục đích giúp học sinh nói tiếng Anh tốt. Và học sinh có đủ tự
tin nói Tiếng Anh trong đời sống hằng ngày không? Câu hỏi này chắc chắn giáo
viên nào cũng luôn đặt trong đầu và tìm tòi nghiên cứu câu trả lời cho phù hợp
và mục đích cuối cùng của người học cũng như người dạy là tiến tới khả năng
giao tiếp tốt.
Trong bất kỳ tiết học
nào của môn Tiếng Anh cũng có phần dạy kỹ năng nói, vì vậy kỹ năng nói đóng vai
trò rất quan trọng. Vì vậy, giáo viên cần có phương pháp phù hợp và các kỹ năng cũng như cách truyền đạt để học sinh
có thể lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả nhất.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
7.2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi
- Tình hình kinh tế ngày
càng đi lên. Đời sống nhân dân được cải thiện, nhận thức của phần lớn phụ huynh
học sinh đã thấy được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. Do đó nhu cầu học tập,
nâng cao kiến thức của học sinh ngày càng tăng
- Có sự quan tâm của Ban giám hiệu, Phụ huynh
và các đồng nghiệp trong trường.
- Học sinh đang dần có
cái nhìn tích cực hơn với môn học này và đa số các em rất ham học.
*
Khó khăn
- Các em học sinh tiểu học mới làm
quen với bộ môn Tiếng Anh vì thế các em còn rất bỡ ngỡ và lạ lẫm với môn học
này.
- Thời lượng dành cho môn học thì quá ít trong
khi mức độ tiếp thu của các em còn hạn chế; hơn nữa hầu hết lớp học
còn quá đông học sinh nên việc tập trung chú ý cũng như việc luyện tập còn hạn chế.
- Bên cạnh một số em có
thái độ học tích cực, nghiêm túc thì cũng có không ít em chỉ học vẹt, không ghi
nhớ từ vựng, không tập đọc, tập viết, không thuộc nghĩa của từ mà học chỉ để
đối phó khi giáo viên kiểm tra vì vậy các em nhanh quên từ. Các em chưa nhận
thấy tầm quan trọng của việc học môn Tiếng Anh vẫn còn lơ là.
- Hơn nữa môn Tiếng Anh
không phải phụ huynh nào cũng biết nên giáo viên cũng gặp không ít khó khăn
trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà.
- Một số phụ huynh
còn chưa quan tâm đến việc học tiếng Anh của con em mình. Do đó mà ảnh hưởng
không ít đến việc học tập của các em.
Học sinh tiểu học ở địa
phương còn yếu cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Nhất là các em rất ngại nói
tiếng Anh trong giờ học do nhiều nguyên nhân khác nhau như: tâm lý ngượng
ngùng, dè dặt, ngại các bạn cười khi mình nói sai; do lớp học đông, giáo viên
ít có thời gian rèn luyện kỹ năng cho mỗi học sinh. Tổ chức luyện nói tốt sẽ giúp khắc phục những hạn chế trên.
b.
Thành công và hạn chế
*
Thành công
- Kích thích tính ham học của học sinh, học sinh
tích cực, chủ động trong học tập.
- Tiết học sinh động và thú vị hơn, các em ngày
càng ham học tiếng Anh, và đặc biệt các em khá thích thú với tranh ảnh và vật
thật...
*
Hạn chế
- Thời gian học sinh học tiếng Anh trên lớp còn
ít
- Trang thiết bị dạy học của nhà trường chưa đáp
ứng, giáo viên phải mất nhiều thời gian để làm đồ dùng dạy học. Còn thiếu
trang thiết bị phục vụ cho bộ môn: phòn Lab, sách tham khảo…
c. Mặt mạnh, mặt yếu.
*
Mặt mạnh
- Được
sựđồng thuận của ban giám hiệu nhà trường và sựphối hợp có hiệu quả giữa giáo
viên và học sinh.
* Mặt yếu
- Giáo
viên phải đầu tư nhiều về thời gian và
dụng cụ dạy học.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố
tác động
*Nguyên nhân từ phía giáo viên:
- Phương tiện giảng dạy còn thiếu.
- Thời gian trên lớp còn hạn chế.
- Đa số giáo viên đều chủ quan, chưa chú ý tìm
hiểu cách học và cách dùng từ vựng của học sinh, phần lớn các giáo viên chỉ
kiểm tra một vài em bằng cách đọc to từ đó hoặc ghi lên bảng. Vì vậy dẫn đến
học sinh chỉ học đối phó.
*Nguyên nhân từ phía học sinh:
- Học sinh chưa chú trọng đến môn tiếng Anh vì nó
còn là môn học tự chọn.
- Một số học sinh có thái độ thụ động khi học, chưa thật sự tích cực.
Một số khác lại quá rụt rè, e ngại khi nhờ giáo viên giúp đỡ.
- Nhiều học sinh cho rằng học nói tiếng Anh khó phát âm và mất nhiều thời gian, hầu hết các em
ngại nói và lười đọc và giao tiêp bằng tiếng Anh.
- Còn một số học sinh gặp khó khăn trong việc
tiếp cận và nắm bắt ngôn ngữ mới. Từ đó có ảnh hưởng không ít đến hoạt động
dạy- học.
- Hầu hết học sinh vùng nông thôn phát âm tiếng
địa phương nên khi đọc tiếng anh không chuẩn, thường có xu hướng phát âm Tiếng
Anh theo cách Việt hóa.
-
Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc- nói tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìmhiểu bài học.
- Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp học dễ ồn ào mất trật tự. Giáo viên không bao quát hết được tất cả học sinh nên một số em cá biệt lợi dụng cơ hội nói chuyện bằng Tiếng Việt hay làm việc riêng.Giáo viên không thể phát hiện và sửa hết
lỗi của các em học sinh.
- Do vậy đòi hỏi giáo viên có phương pháp sư phạm tốt, chủ động
sáng tạo, luôn cải tiến phương pháp luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhiều dạng bài tập khác nhau phù hợp cho từng nội dung bài học để gây hứng thú
và động viên tất cả học sinh nhiệt tình luyện tập
e.Nguyên nhân
từ phía phụ huynh:
- Nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc
học tập của con em mình.
8. Mục
tiêu- Phương pháp nghiên cứu
a.
Mục tiêu
Là giáo viên giảng dạy bộ môn Tiếng
Anh trường Tiểu học, chúng tôi không ngừng nghiên cứu, trau dồi phương pháp
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Chúng tôi viết đề tài này nhằm chia sẻ
kinh nghiệm của mình đã góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Anh.
b.
Phương pháp nghiên cứu chuyên đề:
Để thực hiện các biện pháp của mình một
cách hiệu quả, tôi đã kết hợp sử dụng các biện pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
khai thác thông tin khoa học về phương pháp giảng dạy có hiệu quả qua sách, tài
liệu có lien quan… đạc biệt qua các khóa học bồi dưỡng thường xuyên của Bộ Giáo
Dục và Đào Tạo, Sở Giáo Dục và Đào Tạo, Phòng GD-ĐT đã tổ chức.
- Phương pháp quan sát: trực
tiếp thực hiện giờ dạy ở các lớp được phân công đảm nhiệm.
- Phương pháp đàm thoại: Trực
tiếp trao đổi với học sinh trong lớp, ngoài lớp để tìm hiểu thông tin.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
Thông qua kết quả nói ở cuối học kì và cả quá trình làm việc đội - nhóm của học
sinh trong các hoạt động trên lớp.
9.
Nội dung
- Chúng ta biết rằng Nghe- Nói- Đọc-
Viết là bốn kĩ năng ngôn ngữ cần phải được rèn luyện và diễn ra một cách đồng
thời trong quá trình dạy và học ngoại ngữ. Chúng vừa là phương tiện và cũng là
mục đích của việc học bộ môn này.
- Trong những năm qua, bước đầu chúng
đã áp dụng phương pháp đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Anh nhằm giúp học sinh
nắm được cách học một cách chủ động, tích cực và đáp ứng yêu cầu là học sinh
phải sử dụng được ngữ liệu đã học vào cá hoạt động giao tiếp một cách có hiệu
quả hơn.
- Do vậy, trong chương trình giảng dạy
tiếng anh ở trường tiểu học hiện nay, các giáo trình đang được sử dụng ở các
nhà trường đã nhấn mạnh vào khả năng giao tiếp theo một hệ thống ngữ pháp có
kiểm soát. Học sinh được lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với
nhau.
- Trong quá
trình hướng dẫn học sinh học, giáo viên quan sát chú ý xem các em nói như thế
nào, cái gì được và cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và phương pháp giảng
dạy thích hợp cho từng bài học.
9.1. Tập cho học
sinh cách phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh
- Đối với
học sinh ở vùng nông thôn như chúng ta các em chưa có vốn từ vựng nếu có thì
rất hạn chế dù vậy nhưng giáo viên vẫn tăng cường nói Tiếng Anh trên lớp,
thường thường là các câu mệnh lệnh đơn giản, áp dụng các câu mệnh lệnh hoặc
những câu hỏi theo bài học kết hợp với động tác, điệu bộ. Nhìn chung, lúc đầu
học sinh còn ngơ ngác nhưng dần dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm
theo đúng mệnh lệnh của giáo viên. Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì
chúng ta nên sử dụng thường xuyên trương lớp học để các em có điều kiện phản xạ
tốt như những câu hỏi về bản thân:
What’s your name?, How are you?; những câu hỏi về đồ vật, sử dụng các đồ vật
thật có trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở... )
như các mẫu câu: What’s
this?, What are these? ...
- Thay thế từ không
biết bằng một cụn từ khác đã biết, không sợ xấu hổ khi nói sai.
- Không nên ngầm
hiểu sang tiếng Việt rồ mới dịch sang Tiếng anh.
VD: Khi được hỏi: Where do you go? Thì học sinh phải hiểu rồi trả
lời ngay: I go to… chứ không nên ngầm dịch sang tiếng việt rồi mới trả lời.
9.2. Rèn luyện cách phát âm cho học sinh
- Trong quá trình giao tiếp bằng tiếng Anh, muốn
người khác hiểu nội dung mình nói gì học sinh cần phải phát âm từ và câu một
cách rõ ràng. Với học sinh vùng nông thôn do không có điều kiện tiếp xúc với
người nước ngoài, nên có xu hướng phát âm tiếng anh theo cách việt hóa. Vì vậy
khi giới thiệu ngữ liệu, mẫu câu giáo viên cần phải đọc chuẩn về cả ngữ âm, ngữ
điệu có trọng âm để các em bắt chước vì đây là yếu tố cơ bản trong việc dạy
nghe-nói. Tất nhiên không thể chuẩn như người bản xứ nói Tiếng Anh nhưng để có
một kết quả phát âm chuẩn xác nhất thi chúng ta nên chịu khó nghe băng đĩa của
người bản địa. Giáo viên nên kiên trì luyện phát âm cho học sinh để tạo cho các
em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, các em mới bước đầu
học Tiếng Anh nhưng phát âm không đúng sẽ thành thói quen ảnh hưởng không tốt
trong quá trình học và giao tiếp sau này.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
- Cần chú ý luyện tập cho hs phát âm có các âm
cuối như:
+ bag /bæg/
+ book /buk/ ....
- Tập cho học sinh có thói quen đọc nối.
Ví dụ : stand-up /’stænd^p/ , look-at /lukæt/
It’s a pencil. /itsəpensl/
It is a desk. /itizədesk/
- Đối với hình thức số nhiều cần luyện tập cho
học sinh cách phát âm trong việc nhấn
mạnh đuôi số nhiều :
+ Phát âm /s/ đứng sau phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/, /f/,
/θ/
Ví dụ: cassettes, books,
....
+ Phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh /b/, /d/,
/g/, /v/, /ð/, /m/, /n/, /Ŋ/, /l/, /r/.
Ví dụ: crayons, tables, markers ...
+ Phát âm là /iz/ khi đứng sau những phụ âm rít cụ thể các phụ âm
như:
/z/, /s/, /ʤ/, / t /, /
/, / /ʃʃʓ
Ví dụ : pencil cases, oranges, nurses...
- Ngoài ra một số âm rất khó phát âm, ngay cả với
học sinh nhỏ bản ngữ
+ Âm /r/ là âm khó, học sinh chủ ý môi thầy cô, chu môi ra sau đó
mở tròn miệng: r r r.
+ Âm /th/ chỉ cho học sinh đăt lưỡi giữa hai hàm răng. Chú ý cắn
nhẹ đầu lưỡi khi đọc âm này.
VD: this, they, these.
+ Âm /l/ bắt đầu đặt đầu lưỡi đằng sau răng trên
- Cần chú ý: dấu nhấn (stress), nhịp điệu
(rhythm), ngữ âm, ngữ điệu (intonation) là những yếu tố quan trọng trong khi
nói tiếng anh. Nó giúp người nghe dễ hiểu nội dung cuộc nói chuyện.
+ Có ba mức độ nhấn: Nhấn chính (The Primary Stress), nhấn phụ
(The Secondary Stress), không nhấn (The None- Stress). Thông thường trong tiếng
anh, dấu nhấn chính thường đặt vào những từ mang ý nghĩa nội dung quan trọng
trong câu.
+ Âm điệu, ngữ điệu: Thường lên giọng ở cuối câu hỏi Yes- No
questions và hạ giọng ở câu hỏi Wh- questions.
- Trong quá trình dạy học, nếu học sinh gặp khó
khăn khi phát âm một yếu tố nào đó, GV không nên bắt HS đó đứng dậy đọc đi đọc
lại nhiều lần mà nên yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó học
sinh tiếp tục luyện đôi và khi đó giáo viên có thể tiếp tục giúp đỡ những học
sinh khó khăn.
9.3. Rèn cho học sinh sử dụng ngữ điệu :
Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự
lên và xuống của giọng nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn
ý của người nói nếu như người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so
sánh như là hồn của câu.
*Ngữ điệu xuống được thể hiện bằng cách hạ âm
điệu giọng nói xuống thấp
ở trong các trường hợp sau:
- Dùng trong câu chào hỏi:
Good morning! ↓
- Dùng trong câu đề nghị:
Come here! ↓
- Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi
(who, whose, whom, which,
what, when, where, why, và how)
What are these? ↓
- Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh: Open your
book ↓
*Ngữ điệu lên được thể hiện bằng cách tăng âm
điệu giọng nói lên cao ở
trong các trường hợp sau:
- Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “có…không”
Is this a book ?↑
- Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi:
You are Mai? ↑
9.4. Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ
- Kiểm soát tầm
nhìn (nhìn xa, gần, nhìn vào người đang đối thoại, cần thể hiện ánh mắt linh
hoạt, tập trung…) tránh kiểu nhìn lơ đễnh, mông lung khi đang nói.
- Chú trọng đến yếu tố cử chỉ, điệu bộ
(khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười, body language, gật đầu, lắc đầu…)
- Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp (tóc,
quần áo…)
- Giáo viên cần phải nhắc nhở học sinh
rèn luyện những kĩ năng trên mỗi ngày. Cần chú ý rằng cung cấp cho HS ngữ liệu
không khó bằng việc sử dụng ngữ liệu đó vào giao tiếp. Vì vậy giáo viên cần tạo
điều kiện cho học sinh có thời gian thực hành nói thường xuyên giúp các em tự
tin, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình và cũng giúp HS phat hiện những hạn chế và
tự sửa sai.
9.5. Luyện tín hiệu ngôn ngữ
- Phù hợp với cuộc nói chuyện, thể hiện
sắc thái biểu cảm (vui, buồn, ngạc nhiên, tò mò…)
- Đủ âm lượng (cường độ, cao độ…)
giọng điệu gây sự chú ý, gây cảm tình với người đối diện.
- Bỏ thói quen xấu thông thường trong
khi nói (ờ…à…)
9.6. Tổ chức hoạt động theo cặp, nhóm
- Đây là hoạt động đắc lực và lý tưởng
nhất trong quá trình luyện nói.
- Tất cả học sinh sẽ được làm việc cùng
một thời gian.
- Học sinh học tập lẫn nhau trong quá
trinh luyện tập, đó là cơ hội để chia sẻ thôn tin và hỏi những điều mình chưa
rõ, đồng thời GV cũn dễ dàng kiểm soát học sinh bằng cách đi lại trong lớp,
lắng nghe và hỗ trợ khi cần thiết.
* Chú ý: Vấn đề được đặt
ra là các cặp hoặc nhóm phải có tŕnh độ tương đồng nhau và việc quản lí của
giáo viên trong quá trình hoạt động nhóm phải thẹc hiện tốt.
* Một số hoạt đông theo cặp- theo
nhóm được áp dụng:
a. Find Someone Who:
Với hoạt động này, sẽ giúp học sinh tự
nhiên trong giao tiếp. Cá em sẽ hỏi bất cứ bạn nào để lấy thông tin.
Ví
dụ: Tiếng anh 5- Unit 5- Lesson 3
Find
someone who will be in the future… |
Name |
a
singer |
|
a
teacher |
|
an
engineer |
|
a
dentist |
|
What
will you be in the future?
I’ll
be …..
b. Picture story/ Picture drill
- Với hoạt động này, HS nhìn tranh để
kể lại câu chuyện hoặc một đoạn hội thoại. Nếu thực hành thường xuyên, học sinh
sẽ luyện được tính độc lấp trong giao tiếp và sẽ sắp xếp được ý tứ khi trao
đổi, kể chuyện hoặc giới thiệu về một hoạt động.
A:
Are you reading a comedy?
B:
No, I’m not.
A:
Are you reading a story?
B: Yes, I am. I’m reading a story.
c. Survey
Ở hoạt động này, học sinh sẽ có cơ hội
thể hiện hết khả năng nói Tiếng Anh của mình thông qua hang loạt các câu hỏi
với bạn trong lớp để hoàn thành các thông tin còn thiếu.
Survey:
Tiếng anh 4 – Unit 11- Lesson 3
Name |
get up |
have breakfast |
do homework |
watch TV |
Nga |
5.30 |
6.15 |
7.00 |
8.00 |
Phượng |
|
|
|
|
Kiên |
|
|
|
|
Hưng |
|
|
|
|
Hà |
|
|
|
|
S1:
What time do you get up?
S2:
At 5.30
d. Role play
Hoạt động này sẽ giúp học sinh tự tin
trong khả năng sử dụng Tiếng Anh qua việc hóa thân vào các nhân vật trong những
tình huống có sẵn trong sách giáo khoa.
Ví
dụ:
S1:
This is a pictures of my family.
This
is my father.
S2:
How old is he?
S1:
He’s forty-two years old.
S2:
Oh, he looks young.
……………………….
9.7. Làm thế nào để sửa lỗi sai cho học sinh?
- Việc sửa lỗi ngữ âm, ngữ pháp cho học
sinh trong khi nói là một việc làm quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để sửa lỗ
cho các em, sửa lỗi vào thời điểm nào cho thích hợp là một việc làm đòi hỏi sự
tế nhị và mang tính sư phạm cao.
- Khi học sinh đang thực hành phát âm
một câu nói nào đó cho đúng thì đây là thời điểm thích hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai,
- Đối với trường hợp khi học sinh đang
tập trung suy nghĩ và tìm ý tưởng từ vựng để thể hiện một nội dung nào đó, giáo
viên không nên ngắt lời để sửa lỗi vì điều đó sẽ làm mất đi sự tự tin, tính
hiếu động, thích tham dự vào các hoạt động rèn luyện giao tiếp của các em.
- Giáo viên cần có thái độ tích cực đối
với lỗi ngôn ngữ của học sinh. Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá
trình học ngoại ngữ, giúp học sinh học tập được từ chính lỗi của bản than và
bạn bè.
9.8. Tổ chức “Đôi bạn nói Tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói Tiếng
Anh”.
- Quá trình tìm hiểu địa bàn cư trú của
học sinh, các em ở gần nhà nhau rất nhiều, một xóm luôn có một số em học cùng
lớp. Vì vậy, giáo viên nên tổ chức cho các em thành lập đôi bạn nói Tiếng Anh
hoặc nhóm bạn nói Tiếng Anh ơe nhà hoặc thời gian rảnh rỗi.
- Sau mỗi tiết học trên lớp, giáo viên
gợi ý đề tài, mẫu câu, mẫu hội htoaij. Học sinh về nhà tự tìm ý tưởng và vốn từ
vựng để nói với nhau. Mục đích giáo viên củng cố từ vựng, mẫu câu giúp các em
nói theo hướng “Nói Tiếng Anh tự nhiên”.
- Trước mỗi tiết học giáo viên cho các
đôi bạn hoawch nhóm bạn trình bày trước lớp. Giáo viên có nhiều hình thức khen
thưởng để động viên tinh thần cho các em.
9.9. Các bước luyện nói cho học sinh:
Tùy theo mỗi bài học mà chúng ta áp dụng phương pháp dạy học khác
nhau.Về cơ bản trong quá
trình luyện nói phải tuân thủ theo các qui trình sau:
a. Chuẩn bị nói (Pre-Speaking)
-
Giáo viên giới thiệu ngữ liệu mới, ngữ pháp mới.
-
Luyện đọc cho học sinh (Chú ý cách phát âm)
-
Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để học sinh tự rút ra cách sử dụng từ và cấu trúc
câu.
b. Luyện nói có kiểm soát (Controled Practice)
Hoạt động này học sinh được luyện nói nhiều hơn giáo viên. Phần này học
sinh luyện tập theo nhóm, cá nhân dưới sự điều khiển của giáo viên và học sinh
thấy tự tin hào hứng khi
nói tạo cơ hội cho các em phát triển kỹ năng nói
c) Luyện nói tự do ( Free Practice/ Production)
-
Học sinh sử dụng mẫu câu để nói về những đồ vật xung quanh chúng.
-
Giáo viên không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nên học sinh tự nói,
phát huy khả năng sang tạo của bản thân.
10. Kết luận
10.1. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa
học của vấn đề nghiên cứu
* Kết quả khảo nghiệm
Trước khi chưa áp dụng đề
tài này , kết quả thi nói của học sinh còn nhiều hạn chế, nhiều em còn Phát âmkhông chính xác, ngữ
âm ngữ điệu không có…
Kết quả khảo sát trước
khi thực hiện đề tài ở khối 4,5 với số lượng là 354 em :
|
TS |
Đạt |
Chưa đạt |
||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
||
Khối 4 |
184 |
130 |
70,6 |
54 |
29,4 |
Khối 5 |
170 |
128 |
75,2 |
42 |
24,8 |
Sau một thời gian áp dụng đề tài:
Đối
với giáo viên: Đã tự học tập và có kinh nghiệm trong dạy tiếng anh nói
chung và dạy kỹ năng nói nói riêng, đồng thời giúp cho bản thân nâng cao được
tay nghề và đã áp dụng được các biện pháp rèn luyện cho tất cả các kỹ năng
khác.
Đối với học sinh: Qua thực tế giảng dạy với phương pháp dạy học
mới, trong từng tiết dạy tôi thấy kết quả học tập của học sinh có nhiều tiến
bộ, lớp học sôi nổi, các em thích thú giờ
học ngoại ngữ hơn. Giờ nào, tiết
nào tôi cũng động viên được hầu hết các học sinh trong lớp tham gia hoạt động
.Nhũng lớp tôi dạy theo phương pháp này đều có kết quả tốt, đều là những lớp có
kết quả cao. Bản thân tôi cũng nắm chắc được điểm mạnh, điểm yếu của từng học
sinh, rút ra được những vấn đề cân bổ sung cho các bài sau, bổ sung trong giáo
trình giáo án của mình.
|
TS |
Đạt |
Chưa đạt |
||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
||
Khối 4 |
184 |
160 |
86,9 |
24 |
13,1 |
Khối 5 |
170 |
150 |
88,2 |
20 |
11,8 |
* Giá trị hoa học của
vấn đề nghiên cứu
Qua việc thực hiện đề tài này mà chất
lượng học sinh ở trường tôi đã được nâng lên đáng kể. Tôi hy vọng với chút kinh
nghiệm của mình, tôi không chỉ giúp nâng cao chất lượng dạy và học tại trường
tôi đang công tác mà có thể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho huyện nhà
cũng như cho đất nước.
10.2. Kết luận
Đề tài mà tôi thực hiện chỉ là một
phần trong tiết học song nó đóng vai trò rất quan trọng góp phần làm nên thành
công của một tiết học. Vì vậy để có một tiết dạy nói đạt hiệu quả, giáo viên
không chỉ chuẩn bị bài, các bước lên lớp đầy đủ mà giáo viên cần lựa chọn các
phương pháp, kỹ năng giới thiệu từ các đọc đúng cũng như cách kiểm tra sao cho
phù hợp nhằm gây hứng thú và thu hút sự hợp tác của học sinh để tiết học đạt
hiệu quả cao nhất.
Qua quá trình giảng dạy, áp dụng
những phương pháp trên tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ và kết quả thu
được đáng mừng. Các em học sinh tự tin hơn trong tiết học, các em đọc được từ
và nhớ cách đọc lâu hơn lỗi pháp âm hay đọc sai ngữ điệu đã giảm xuống đáng kể. Tiết học Tiếng Anh sôi
nổi và các em hào hứng hơn.
Đề tài này có ý nghĩa trong công
tác giảng dạy bộ môn Tiếng Anh, giúp cho giáo viên có các kĩ năng giảng dạy,
giúp học sinh tự tin giao tiêp và tạo nền tảng, trang bị cho các em một số kiến thức cho những
bậc học tiếp theo và cũng như trong tương lai các em về sau. Và nêu cao tầm
quan trọng của bộ môn Tiếng Anh trong học sinh và phụ huynh. Tôi hy vọng nó có
thể áp dụng đối với các trường Tiểu học khác trên địa bàn huyện.
10.3. Kiến nghị:
Qua quá trình nghiên cứu
đề tài này tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất
lượng bộ
môn tiếng Anh cho học sinh Tiểu
học đặc biêt học sinh lớp
4,5 như sau:
+ Đối với nhà
trường: Nhà trường kết hợp với phụ huynh
quan tâm chặt chẽ đến việc học tập của học sinh. Cung cấp thêm trang thiết bị
dạy học cho môn học này.
+ Đối với giáo viên:Phải
có lòng nhiệt huyết, yêu nghề, yêu trẻ, sáng tạo trong việc dạy.Thường xuyên
đổi mới phương pháp dạy học, trau dồi kiến thức, tự học hỏi kinh nghiệm từ các
đồng nhiệp.Chuẩn bị kỹ kiến thức, giáo án trước khi đến lớp.Biết ứng dụng công
nghệ thông tin trong soạn giảng, tạo hứng thú cho học sinh. Biết hướng dẫn học
sinh cách tự học và tự tìm tòi kiến thức.Biết giáo dục trẻ yêu thích việc học
và yêu môn tiếng Anh.Biết tạo môi trường áp dụng tiếng Anh trong trường và
trong cuộc sống.
+ Đối với phụ huynh: Cần
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho con em đi học đầy đủ, động viên khuyến
khích các em có ý thức học tập ở nhà.
+ Phòng giáo dục nên thường
xuyên tổ chức hội thảo chuyên môn theo
từng cụm trường cho giáo viên tiếng Anh trên toàn huyện để chúng tôi có điều
kiện trao đổi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm.
Trên đây là một số
phương pháp mà tôi đã đúc rút được trong
quá trình giảng dạy nhằm giúp học sinh vận dụng được những kiến thức đã học vào
thực tế, giúp các em học môn Tiếng Anh tốt hơn
Và đã đạt được những thành công nhất định. Song cũng không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được
sự góp ý của hội đồng khoa học, quý thầy cô, để tôi có thêm những kinh nghiệm
trong giảng dạy nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
11.Những
thông tin cần được bảo mật (nếu có):
12.
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
*Đối với nhà trường:
Đầu tư cơ sở vật chất thích hợp phục vụ
cho giảng dạy và công tác giáo dục, tạo điều kiện cho giáo viên được đi học
tập, bồi dưỡng.
* Về cán bộ quản lý:
Quán triệt thực hiện thực
hiện nhiệm vụ năm học của PGD&ĐT. Cập nhật thường xuyên kịp thời các văn
bản chỉ đạo của cấp trên về công tác giảng dạy, bồi dưỡng, các phong trào thi
đua. Chỉ đạo có hiệu quả công tác giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục
kiến thức, phẩm chất, năng lực học sinh. Chỉ đạo tốt công tác giảng dạy kiến
thức cơ bản trên cơ sở đó phát huy tốt các khả năng để học sinh tham gia các
cuộc thi giao lưu do phòng giáo dục, sở giáo dục tổ chức.
* Về giáo viên:
Luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp
vụ đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới phương pháp và cách đánh giá học sinh
theo tinh thần đổi mới.
Giáo viên phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của tiến trình giảng dạy, nâng
cao chất lượng dạy học của bộ môn, phải dự giờ trao đổi kinh nghiệm, tham khảo
các bài giảng mẫu để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Giáo viên luôn
tìm tòi những phương dạy học phù hợp với điều kiện thực tiễn, không áp đặt,
không máy móc.
* Về cơ sở vật chất:
Để đảm bảo công tác
GDTC cho học sinh đòi hỏi phải tăng cường các thiết bị dụng cụ phục vụ cho việc
giảng dạy của thầy cô và của việc tập luyện của trò theo hướng:
- Mỗi năm nhà
trường phải mua sắn thêm một số thiết bị dụng cụ. Thường xuyên cải tạo và nâng
cao các sân tập.
- Tiến tới xây dựng
nhà tập đa năng để đảm bảo tập luyện khi thời tiết không thuận lợi.
13.Đánh
giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý
kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng
kiến:
13.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
*Kết quả đạt được cuối
học kỳ I khói 4,5 năm học 2019- 2020:
+ Chất lượng học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng:
Môn Tiếng Anh: Hoàn thành tốt: 190em=53,6%
Hoàn thành: 145em= 40,1%
*Kết quả học sinh đạt giải trong các kỳ thi giao lưu cấp huyện
và cấp tỉnh trong năm học 2019 - 2020 cho đến thời điểm tháng 2/2020:
Học sinh tham gia tự nguyện giải violympic Tiếng Anh cấp trường có 26 em tham
gia trong đó có 12 em đạt giải.
14.Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu:
Sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số phương pháp luyện kĩ năng nói cho học sinh 4,5”. Là một số phương pháp mà tôi đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp học sinh vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tế, giúp các em học môn Tiếng Anh tốt hơn Và đã đạt được những thành công nhất định. Song cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng khoa học, quý thầy cô, để tôi có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT |
Tên tài liệu |
Tác giả |
1 |
Sách
Tiếng Anh 3,4,5 tập 1, 2 |
NXB
giáo dục Việt Nam |
2 |
Teaching
listen and speak english |
NXB
Hà Nội năm 2000 |
3 |
English
language Teachimg Methodology |
Bộ GD & ĐT - 2003 |
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/