PHẦN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.
Lý do chọn
đề tài.
Từ ngàn đời nay, Biển Đông cùng với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là một phần máu thịt thiêng liêng không thể tách rời của mọi người
dân đất Việt. Quyết tâm giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã thôi thúc nhân
dân Việt Nam đoàn kết hơn, chung sức, đồng lòng vì biển đảo thân yêu.
Việt Nam là đất nước trải qua nhiều thăng trầm, đau thương và mất
mát. Có đi dọc những nghĩa trang liệt sỹ ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả
nước; có gặp, nói chuyện với những người đã gửi một phần tuổi trẻ, thanh xuân
cho đất nước; có tận mắt nhìn những nạn nhân bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da
cam..., thì mới thấm thía giá trị của hòa bình, mới quý trọng vô cùng máu xương
của cha anh đã dâng hiến cho Tổ quốc.
Thế hệ trẻ hôm nay chưa đi
qua cuộc chiến, sẽ chưa hiểu hết sự khốc liệt của chiến tranh. Nhưng chúng ta
có thể thấy ở những quốc gia đang hàng ngày phải hứng chịu bom rơi đạn nổ, có
thể gặp các thế hệ đi trước, để biết rằng, không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Đại thắng mùa xuân 1975 trở thành dấu son chói lọi đối với dân tộc và mỗi người
con quê hương đất Việt. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn quyết tâm bảo vệ
chủ quyền, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Với biển đảo quê hương, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán được xác lập tại Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc
tế. Trải qua nhiều mất mát, đau thương nên Việt Nam luôn thực tâm mong mỏi và
quyết tâm gìn giữ hòa bình, ổn định và an ninh trên Biển Đông. Song, Việt Nam
cũng bằng mọi biện pháp để luôn mạnh mẽ đấu tranh không khoan nhượng trước hành
vi xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của mình đã
được công nhận theo luật pháp quốc tế.
Trong bối cảnh
các thế lực thù địch, phản động chưa từ bỏ
âm mưu, thủ đoạn diễn biến
hòa bình, can thiệp
vào công
việc
nội
bộ,
gây mất
ổn định
chính trị -
xã hội,
xâm phạm chủ
quyền lãnh thổ, an ninh biên giới biển đảo
của nước ta thì bảo vệ
chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biên giới quốc gia trên biển là một
nhiệm
vụ đặc
biệt
quan trọng
trong Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thế kỉ XXI bởi
cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, tài nguyên thiên nhiên,
nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt sau vài ba
thập kỉ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, nhất là các nước lớn đều vươn
ra biển, xây dựng chiến lược biển nên các nhà chiến lược xem thế kỉ XXI là “thế kỉ đại dương”. Việt Nam là một quốc gia có biển, biển Việt Nam không chỉ chứa đựng
tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là cửa ngõ để chúng ta mở rộng quan hệ với quốc
tế; Biển còn đóng vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, là địa bàn chiến lược
quan trọng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Môn lịch sử với chức năng giáo dục
của mình đã “...góp phần hình thành thế
giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc,
cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động, thái độ ứng xử đúng đắn
trong đời sống xã hội”. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa ngày càng mở rộng,
việc giáo dục cho thế hệ trẻ những giá trị truyền thống, những phẩm chất cao
quý và những bài học lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng và môn lịch sử ở nhà trường phổ thông đã góp
phần quan trọng trong chiến lược chung của quốc gia về giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
cho học sinh – những người
làm
chủ tương lai của
đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên,
tôi chọn vấn đề “Giáo dục ý thức về chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường
THPT” (chương trình chuẩn) làm đề tài cho sáng
kiến kinh nghiệm của mình, với mong muốn góp phần giáo dục truyền thống yêu
nước, tinh thần dân tộc và khơi dậy trong các em, ý thức đóng góp sức mình vào
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền dân tộc trong đó có chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
2. Điểm mới,
đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm phong phú về mặt lí luận dạy học, khẳng định vai trò, ý nghĩa của giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh Trung
học Phổ thông trong dạy học lịch sử.
Đồng thời, đề tài đề xuất những phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học lịch sử Việt Nam cho học sinh nhằm giáo dục ý
thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
hiệu quả, nâng cao
chất
lượng bộ môn.
Đề tài giúp tôi
trong quá trình dạy học thực tiễn, ngoài ra đề tài là tài tiệu tham khảo đối với các đồng nghiệp, đặc biệt đối với
giáo viên dạy môn lịch sử ở các trường Trung học Phổ thông cũng như những ai
quan tâm tâm và vận dụng nội dung kiến thức về vấn đề chủ
quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT vào quá trình dạy
học, góp phần nâng cao chất lượng và tính hiệu quả trong dạy học bộ môn Lịch sử
ở trường THPT trong cả nước. Đề
tài còn góp phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và tiến tới thay đổi SGK,
thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong những năm tới.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA VIỆC
GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN
BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm “Ý thức”, “Giáo dục ý thức”
Theo từ điển Tiếng Việt:
“Ý thức” là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực
vào trong tư duy; là sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ hành động cần
phải có (ý thức được việc làm của mình).
“Giáo dục” là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần
dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
“Giáo dục ý thức” là sự phản ánh của hiện thực khách quan, hình thức
thông qua quá trình giáo dục con người. Như ý thức về chủ quyền lãnh thổ tổ quốc,
ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc...Giáo dục ý thức chính là quá trình giáo
dục làm khơi dậy sự phản ánh của hiện thực khách quan cho con người.
1.1.1.2. Khái niệm “chủ quyền biển, đảo”
Khái niệm “chủ quyền biển, đảo” nằm trong khái niệm “chủ quyền lãnh thổ quốc gia”.
Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông: “chủ quyền quốc gia” là quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc gia
độc lập, tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự mình quyết định vận mệnh của
mình. Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật mỗi nước, trong văn bản
pháp lý quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân theo.
Vì vậy, “Chủ quyền lãnh thổ quốc gia” là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn toàn
và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình. Quyền tối
cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia đối
với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Quốc gia có quyền đặt
ra quy chế pháp lí đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước có quyền
chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của các cơ
quan nhà nước như các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo Hiến pháp 1992 của nước ta: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và
vùng trời”. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) được
thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca vào ngày 10-12-1982. Công
ước đã có hiệu lực và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước
ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a,
Xin-ga-po và Bru-nây. Công ước quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển
là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính
lãnh hải của quốc gia ven biển. UNCLOS 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của
từng vùng biển.
1.1.2. Nội dung giáo dục chủ quyền
biển, đảo Việt Nam trong dạy học Lịch sử dân tộc ở trường phổ thông
1.1.2.1. Giáo dục ý thức cho HS về vai trò, vị trí
của biển, đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Thông qua bài học lịch sử HS thấy được vai trò của biển, đảo nước ta: Đã bao đời nay gắn với đời sống kinh tế, văn hóa con người
Việt Nam. Biển, đảo đã góp phần tạo nên những thắng lợi hiển hách trong công cuộc
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Biển, đảo có vị trí quốc
phòng an ninh quan trọng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc, biển luôn gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vươn ra biển, khai thác những tiềm năng của biển để làm giàu đất nước cũng chính là bảo vệ Tổ quốc từ phía biển.
1.1.2.2. Giáo dục cho HS ý thức về chủ quyền quốc gia và quá trình chiếm hữu
thật sự, hòa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường
Sa của Việt Nam từ thời phong kiến đến nay.
Đó là quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo -
Trường Sa, Hoàng Sa cũng như Sự khẳng định chủ quyền của Nhà
nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử được thể hiện hết sức mạnh mẽ qua các
hoạt động: Quản lý hành chính liên tục, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, vẽ bản
đồ… Từ thời phong kiến đến Pháp đô hộ
(1884-1954 ), đến giai đoạn Việt Nam tạm thời bị chia cắt (1954 – 1975) và thời kỳ đất nước thống nhất cho đến nay.
1.1.2.3. Giáo dục
cho HS về những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam và vấn đề bảo vệ
tài nguyên, môi trường biển, đảo.
Giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam
hết sức to lớn: Du lịch, nguồn thủy hải sản phong phú không chỉ là nguồn
sống của ngư dân ven biển mà còn là nguồn đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm
kinh tế quốc dân, ịch vụ giao thông biển đang ngày càng được
chú trọng. Nguồn khoáng sản biển hết sức đa dạng: Cát,
sỏi, muối, titan, monazite... với trữ lượng lớn, dễ khai thác. Đáng kể là dầu
thô và khí đốt là những nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú ở khu vực
biển Việt Nam, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đồng thời cũng là mặt
hàng xuất khẩu chiến lược của nền kinh tế. Tuy nhiên tài nguyên, môi trường biển, đảo đang bị đe dọa:
Ô nhiễm nguồn nước, khai thác bừa bãi, mang tính hủy diệt, khai thác chưa đi
đôi với bảo vệ bền vững, việc đánh bắt hải sản bằng các phương tiện “hủy
diệt” như mìn, hóa chất, xung điện, lưới nhỏ hay khai thác san hô để nung vôi,
làm đồ trang trí… vẫn diễn ra ở các vùng biển nước ta. Các tài nguyên khác như khoáng
sản, vận tải biển, du lịch biển, tài nguyên địa chiến lược… chưa được đầu tư
khai thác đúng mức nên chưa phát huy hết tiềm năng vốn có.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc
bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, vì đây là vấn đề sống còn và cấp bách, ảnh
hưởng lâu dài đến sự tồn tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Biện
pháp hữu hiệu nhất hiện nay là phải đưa nội dung bảo vệ tài nguyên và môi trường
biển, đảo vào trong nhà trường. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng
không thể thiếu khi thực hiện mục tiêu giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo
trong dạy học LSDT ở trường THPT.
1.1.2.4. Giáo dục
cho HS về vấn đề
bảo vệ chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hiện nay.
Từ
thời phong kiến cho đến nay, Việt Nam luôn đấu tranh cho hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển của khu vực cũng như của thế giới. Nhà nước Việt Nam luôn khẳng
định chủ trương giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề biển, đảo -
Hoàng Sa và Trường Sa bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với pháp luật quốc tế,
trên cở sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Dựa vào
những bằng chứng lịch sử và pháp lí quốc tế, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng
luôn khẳng định lập trường nhất quán về chủ quyền không thể tranh cãi của nước
ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1.1.3.
Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục cho học sinh về chủ quyền biển, đảo trong dạy
học Lịch sử ở trường THPT
1.1.3.1. Về kiến thức: Thông
qua việc dạy học Lịch sử nhằm giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho HS để HS biết được vị trí địa lí, tầm
quan trọng của biển, đảo, những thành tựu về kinh tế, những mối đe dọa đối với
biển, đảo như tranh chấp chủ quyền, ô nhiễm môi trường…); biết được những nét
chính về quá trình xác lập, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa; biết được những thay đổi mạnh mẽ của kinh tế, xã hội ở các
vùng biển đảo nước ta hiện nay. HS được khắc sâu những kiến thức cơ bản của
bài học Lịch sử, nắm bắt được vai trò của biển, đảo trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc, vai trò của biển, đảo đối với công cuộc phát triển kinh tế
đất nước hiện nay.
1.1.3.2.
Về phẩm chất năng lực: Thông qua việc dạy học Lịch sử dân tộc nói chung, dạy học
về chủ quyền biển, đảo Việt Nam nói riêng nhằm giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, tự hào về lịch sử lâu đời của dân tộc; bồi dưỡng ý thức độc lập dân tộc,
bảo vệ sự thống nhất nước nhà qua nhiều thế kỉ. Giáo dục lòng biết ơn đối với
các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc trong đó có chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Từ đó có trách
nhiệm đối với quê hương, đất nước, xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao
đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ quốc.
Ngoài ra nhằm hình thành và phát triển
cho HS các năng lực tư duy như: Phát hiện, phân tích, khả năng xác định
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, mối quan hệ tác động qua lại giữa biển, đảo với
đời sống con người trong xã hội, rèn luyện cho HS năng lực
đánh giá, nhận xét vai trò của biển, đảo đối với sự vận động và phát triển của
xã hội. Qua đó các em sẽ có khả năng phân biệt, có thái độ ứng xử đúng đắn đối
với vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay
1.2.1. Thực
trạng của việc giáo dục cho học sinh về chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch
sử ở trường THPT
Việt Nam là một quốc gia biển có hơn 3260 km bờ biển và 4000 hòn đảo,
trong đó có 2 quần đảo Hoàng sa, Trường Sa nằm giữa Biển Đông – một giao lộ
hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới. Tài nguyên biển đa dạng: thuỷ-hải sản
(11000 loài sinh vật…); dầu khí, băng cháy, đất hiếm,…tiềm năng du lịch rất lớn
với 125 thắng cảnh. Biển đảo Việt Nam là một bộ phận của lãnh thổ Tổ quốc chúng
ta, có vai trò to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước hiện nay. Đặc
biệt trong thời gian gần đây dư luận
xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng đã dành sự quan tâm rất lớn
đến chủ quyền biển đảo, nhất là khi Trung Quốc
ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép HD 981 trong vùng thềm luc địa nước ta,
bởi vậy việc giáo dục về biển đảo Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong nhà trường
phổ thông hiện nay.
Bên cạnh đó toàn ngành giáo dục
đang ra sức thực hiện công tác đổi mới phương pháp dạy học để mang lại hiệu quả
cao. Riêng bộ môn lịch sử trong thời gian gần đây cũng thường xuyên bị “đưa lên
bàn cân” vì sự thờ ơ của học sinh, vì kết quả thấp trong các kỳ thi hàng năm, ý
thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc của thế hệ trẻ nói chung và học sinh THPT
nói riêng đang có chiều hướng đi xuống, thế hệ trẻ hôm nay khi nhắc đến vấn đề
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc thì rất “mơ hồ” vậy nên nhiệm vụ của GV môn lịch sử
phải giáo dục HS đế các em nhận thức được quá trình xác lập chủ quyền biển đảo,
tầm quan trọng của việc khai thác chủ quyền biển đảo, chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước về chủ quyền biển đảo, cũng như thấy được vai trò, trách nhiệm
của bản thân trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay.
Để hiểu rõ thực tiễn việc giáo dục
ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử ở nhà
trường phổ thông, tôi tiến hành điều tra, khảo sát một số trường THPT trên địa
bàn huyện (Phụ lục 1, 2).
1.2.1.1.
Về nội dung điều tra:
Đối với Giáo viên: Tôi tập trung làm rõ một số vấn đề chủ
yếu như: Sự cần
thiết phải giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT những nội dung về vấn đề biển, đảo trong SGK Lịch sử hiện
nay, phương pháp dạy học những nội dung về biển, đảo
trong các bài học LSDT, những ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học bộ môn cũng như nâng cao hiệu quả dạy học về vấn đề biển, đảo trong
các bài học LSDT ở trường THPT..
Đối
với Học sinh: Tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản như sau:
Tìm hiểu sự hứng thú của HS đối với vấn đề chủ quyền biển,
đảo Việt Nam,
nhận thức của HS về vấn đề chủ quyền
biển, đảo thông qua các môn học, các hình thức giáo dục chủ quyền biển, đảo được tổ chức
trong nhà trường, sự hiểu biết của các em
về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, khó khăn của HS trong học tập nội dung giáo dục chủ
quyền biển, đảo.
1.2.1.2. Về phương pháp điều tra
Tôi tiến hành các
phương pháp như dùng phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp với GV, HS, quan sát,
dự giờ... Sau khi xử lý các nguồn thông tin điều tra, kết quả điều tra thực
tiễn đã cho phép tôi rút ra
một số kết luận về các vấn đề đã đặt ra như sau:
Về phía Giáo viên:
Khi hỏi về sự cần
thiết phải giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT: có 90% GV được hỏi đều cho rằng đây là việc làm
rất cần thiết, 100% cho rằng cần thiết, không có ý kiến nào cho rằng đây là
việc làm không cần thiết.
Về bộ môn có ưu thế
trong việc giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong nhà trường phổ thông:
có đến 90% GV cho rằng môn Lịch sử có ưu thế nhất, có 50% ý kiến GV cho rằng
môn Địa lý, 50% ý kiến cho rằng môn Giáo dục công dân và môn Giáo dục quốc
phòng là 25%.
Về sử dụng Phương
pháp dạy học đối với môn Lịch sử khi dạy phần LSDT nói chung và dạy học về nội
dung chủ quyền biển, đảo nói riêng: Có đến 90% ý kiến cho rằng cần sử dụng linh
hoạt, hiệu quả các phương pháp dạy học kết hợp giữa dạy học hiện đại và truyền
thống nhằm phát huy được tính tích cực, độc lập của HS. Tuy nhiên vẫn còn một số
ít GV (10%) có ý kiến không muốn đổi mới phương pháp dạy, vẫn muốn sử dụng
phương pháp truyền thống.
Về thực trạng của
việc giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong nhà trường phổ thông hiện
nay: Có đến 75% ý kiến cho rằng có đề cập tới vấn đề giáo dục chủ quyền biển,
đảo cho HS trong nhà trường, 25% GV có dạy lồng ghép nội dung chủ quyền biển,
đảo; 15% ý kiến cho rằng có đưa vấn đề chủ quyền biển, đảo vào dạy lồng ghép
trong các môn như Địa lý, Giáo dục công dân và môn Giáo dục quốc phòng.
Khi hỏi về hình thức
để giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT: có 50% ý kiến GV
cho rằng muốn thực hiện việc giáo dục chủ quyền biển, đảo cho HS trong bài học
nội khóa LSDT và bài LSĐP, 90% ý kiến GV chọn hình thức ngoại khóa để tuyên
truyền giáo dục về vấn đề này; 10% cho rằng HS tự tìm hiểu, tiếp cận, khai thác
trên các kênh thông tin (mạng Internet, tivi, báo, radio…).
Về vấn đề nội dung
chương trình trong SGK, tất cả GV được hổi đều nhấn mạnh: Vấn đề xác lập, thực
thi liên tục chủ quyền biển, đảo của nhà nước ta qua các thời kì lịch sử (từ
thế kỉ XVII đến nay) và cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay của
Việt Nam cần được đưa vào chương trình SGK phần LSDT ở tất cả các khối lớp.
Kết quả thu được từ
phiếu điều tra HS về sự cần thiết của việc đưa nội dung giáo dục chủ quyền
biển, đảo vào chương trình SGK phần LSDT: Có 90% ý kiến HS cho rằng đây là việc làm cần
thiết, chỉ có 10% cho rằng đây là việc làm không cần thiết.
Khi hỏi hiểu biết của
các em về những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến biển, đảo Việt Nam cũng như
những tài liệu chứng minh cho chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa: Chỉ có khoảng 20% HS trả lời đúng, còn lại đa số các em trả lời sai hoặc không trả lời.
Khi đề cập tới các hình
thức giáo dục chủ quyền biển, đảo đã được tổ chức trong nhà trường: Có 70% ý kiến HS cho rằng đã đưa vào chương trình
nội khóa dạy lồng ghép trong một số môn học như Lịch sử, Giáo dục công dân, Địa
lý, Giáo dục quốc phòng; 90% HS cho rằng nhà trường đã tiến hành tổ chức hoạt động ngoại khóa.
Về hình thức giáo dục
chủ quyền biển, đảo gây hứng thú cho HS: Đa số các em cho rằng hình thức tổ
chức ngoại khóa gây nhiều hứng thú cho các em trong học tập (90%), một số ít
(25%) cho rằng bài học nội khóa.
Những khó khăn của
bản thân trong học tập các nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo: 88.9% HS
cho rằng thiếu dụng cụ, tài liệu học tập; 61.1% cho rằng GV lên lớp chưa thực
sự hấp dẫn; 52.8% HS cho rằng đó là những kiến thức khô khan, nhàm chán.
Nhận xét: thông qua việc
khảo sát, điều tra nhỏ tôi rút ra được một số nhận xét như sau:
Về phía Giáo viên: Hầu hết GV
đều nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc dạy học nội dung về chủ quyền
biển, đảo trong chương trình LSDT. 100% GV cho rằng nên đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào chương
trình SGK để dạy học cho HS. Tuy nhiên, vấn đề còn dừng lại ở nhận thức lý
luận. Nhiều GV còn tỏ ra khá lúng túng khi khai thác các vấn đề về chủ quyền
biển, đảo trong chương trình giảng dạy, nhất là việc lựa chọn và vận dụng
phương pháp dạy học phù hợp với nội dung yêu cầu.
Đa số GV chỉ sử dụng
một phương pháp dạy học duy nhất đó là trình bày miệng, chưa kết hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học trong một bài học Lịch sử, do đó dẫn đến sự nhàm
chán, đơn điệu, không khai thác hết nội dung và yêu cầu bài học. Một số GV còn
lạm dụng khi sử dụng tài liệu tham khảo nên dẫn đến tình trạng "quá
tải", làm cho giờ học trở nên nặng nề, hoặc làm loãng nội dung, làm mất
tính đặc trưng của bài học Lịch sử. Sự kết hợp linh hoạt các hình thức tổ chức
dạy học của một bộ phận GV còn nhiều hạn chế, các hình thức ngoại khóa chưa
thật phong phú.
Về phía Học sinh: Hầu hết HS THPT về cơ bản đều quan tâm đến vấn đề chủ quyền biển, đảo -
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, nhưng ở mức độ khác nhau. Đa số HS đều cho
rằng cần phải đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào trong nhà trường
phổ thông. Tuy nhiên, vẫn còn một tỉ lệ không ít những HS không quan tâm hoặc
thờ ơ với vấn đề này. Điều đó cho thấy ý thức về trách nhiệm công dân của HS chưa
cao, chưa được uốn nắn, giáo dục một cách kịp thời và nghiêm túc.
Về phương pháp và
hình thức tổ chức hoạt động giáo dục về nội dung chủ quyền biển đảo: Đa số các
em cho rằng nên kết hợp cả hình thức nội khóa và ngoại khóa, bên cạnh đó GV cần
đổi mới phương pháp dạy học để tiết học thoải mái và đạt kết quả cao hơn.
Tuy vậy, nhận thức
của HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam còn rất hạn chế, nhiều vấn đề
các em nhận thức còn theo cảm tính. Khi đề cập tới hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam, tôi hỏi những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này
hay tên các đảo ở Trường Sa... thì vẫn còn nhiều HS không đưa ra được câu trả
lời đúng. Đây thực sự là vấn đề thực tế và cũng là vấn đề cấp thiết được đặt ra
trong nhận thức của HS. Hay nói một cách khác là kiến thức của HS nói riêng và
của mọi người dân Việt Nam nói chung về vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay
đang yếu cần được giáo dục một cách nghiêm túc và cẩn thận.
1.2.2. Những
vấn đề đặt ra cần giải quyết
Thứ nhất, về chương trình và sách giáo khoa, những vấn đề cần thiết
thực tiễn như vấn đề xác lập chủ quyền biển, đảo của các nhà nước trong lịch sử
dân tộc, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo chưa được đưa vào chương
trình sách giáo khoa.
Thứ hai, về phương pháp dạy học. Trong đổi mới phương pháp dạy học
Lịch sử hiện nay, hứng thú học tập là “chìa
khóa vàng” cần thiết để học sinh vượt khỏi tính áp đặt của cách học truyền
thống, hướng đến cách học tích cực. Cùng với chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp giảng dạy của giáo viên hết sức quan trọng.
Dĩ nhiên, dạy và học môn Lịch sử không chỉ giới hạn trong sách giáo khoa, trong
bốn bức tường của lớp học mà cần được mở rộng với những hình thức như tham quan
bảo tàng, nhà lưu niệm, ngoại khóa… Giáo dục lịch sử trong trường phổ thông còn
cần sự kết hợp với cả môi trường giáo dục của gia đình, xã hội, của các phương
tiện thông tin đại chúng.
Thứ ba, quan niệm “Môn chính”, “Môn phụ” trong trường phổ thông đã chi
phối và ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy học Lịch sử. Tâm lí đó đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều cán bộ
quản lí, GV, phụ huynh và HS dẫn đến những ứng xử lệch chuẩn làm cho bộ môn
Lịch sử không được nhìn nhận và đánh giá đúng vị thế của nó. Nhiều HS vốn không
thích học Lịch sử, nên càng không hứng thú với các nội dung cần sự tư duy, phân
tích và vận dụng như môn Lịch sử. Nhất là thời lượng dành cho bộ môn này còn
quá ít. Vì vậy, GV càng khó khăn trong việc nâng cao chất lượng và phát huy ưu
thế giáo dục thế hệ trẻ của bộ môn.
Thứ tư, vấn đề giáo dục chủ quyền biển, đảo trong trường phổ thông hiện nay chưa đồng bộ, còn mang tính hình thức, phong trào và hầu như được quan niệm là của riêng môn Lịch sử. Điều này dẫn tới việc tiếp thu của HS có phần phiến diện. Bên cạnh đó, trong hoạt động ngoại khóa, nhiều trường chỉ giao cho một số ít GV trong trường thực hiện. Cách làm này có chiều rộng về phong trào hơn là chiều sâu về kiến thức, hiệu quả giáo dục mang lại chưa cao.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN
PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC
CHO HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Vị trí, mục tiêu của chương trình Lịch sử Việt Nam ở trường
THPT.
Trong chương trình Lịch sử hiện nay, phần
LSVN được dạy ở cả ba khối lớp 10, 11, 12 như
sau:
Khối
lớp 10: Khái quát LSVN từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ
XIX (từ bài 13 đến bài 28).
Khối 11: LSVN từ năm 1858 đến kết thúc cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất (1918) (từ bài 19 đến bài 24).
Khối 12: LSVN từ năm 1919 đến năm 2000 ( từ bài 12 đến bài 27).
Lịch
sử xã hội loài người là quá trình thống nhất, hợp quy luật, đầy mâu thuẫn và đa
dạng. LSVN là một bộ phận của lịch sử thế giới, nó vừa
thể hiện những quy luật chung của loài người vừa có những quy luật riêng đặc
thù của từng dân tộc. Nói cách khác, lịch sử của mỗi quốc gia nằm trong dòng chảy
của lịch sử nhân loại. Do vậy, LSDT Việt Nam có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển chung của lịch sử loài người.
2.1.2. Mục tiêu
2.1.2.1. Về kiến thức:
Học xong phần Lịch sử
Việt Nam, HS phải nắm được:
Những kiến thức đầu tiên về sự ra đời, cuộc sống vật chất
và tinh thần của người nguyên thủy ở Việt Nam. Những chính sách đô hộ của các
triều đại phong kiến phương Bắc ở nước ta dẫn đến những chuyển biến về kinh tế,
văn hóa, xã hội nước ta thời kì này. Quá trình hình thành và phát triển của nhà
nước phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X - XV. Trải
qua 5 thế kỉ độc lập, nhân dân Việt Nam đã xây dựng được cho mình một nền kinh
tế phát triển, một nền văn hóa dân tộc tiên tiến và củng cố chính quyền ngày
càng vững chắc.
Bước sang thời cận đại, đứng trước những khó khăn và thử thách của dân tộc, và tình hình chung của thế giới, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản đã liên tục đấu tranh và liên tiếp giành được những thắng lợi to
lớn, lật đổ chế độ phong kiến, giải phóng đất nước thoát khỏi quân phát xít,
thành lập chính quyền mới do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Đến thời
kì hiện đại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản,
đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên
cường, bất khuất nhân dân ta đã đánh đổ hai thế lực xâm lược hùng mạnh là thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc về mặt địa lí cũng như hành chính. Từ năm 1975 đến
nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn thực hiện những hành động nhằm củng cố,
bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung và chủ quyền biển, đảo của
dân tộc nói riêng.
2.1.2.2. Về phẩm chất, năng lực.
Qua dạy học phần Lịch sử dân tộc nói chung, dạy học những
nội dung về chủ quyền biển, đảo nói riêng, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước,
tự hào về lịch sử lâu đời của đất nước. Bồi dưỡng ý thức tinh thần lao động sáng tạo, ý thức về
văn hóa dân tộc, về chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc. Giáo dục lòng biết ơn đối với
các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc trong đó có ý thức về chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó
HS phải có trách nhiệm đối với quê hương, đất nước, xác định được động cơ học tập
vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc.
Rèn luyện cho HS tinh thần chủ động, tích cực trong học
tâp, các kĩ năng học tập và thực hành bộ môn (sử dụng SGK, tài liệu tham khảo,
tranh ảnh, bản đồ, lập niên biểu, thống kê…), phát triển các thao tác của tư duy HS: quan sát, đối chiếu
các sự kiện, hiện tượng lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, hình dung… góp
phần phát huy năng lực nhận thức, năng lực thực hành, kỹ năng, kỹ xảo của HS. Biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống cũng
như trong học tập như: làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết vấn đề, biết ứng
phó trước vấn đề hiện tại đặt ra, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.
2.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử Việt Nam nhằm giáo dục về chủ quyền biển,
đảo cho HS THPT.
2.2.1. Ý thức về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên biển.
Nhiều
chứng cứ lịch sử cho thấy, từ thời
các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII) cho đến nay, ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển luôn
được các chính quyền Nhà nước đề cao. Điều đó được thể hiện bằng nhiều hoạt động, trong đó có ý thức tiến hành việc đo đạc vẽ bản đồ, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền… Có nhiều tư liệu lịch sử đã ghi lại như: Phủ biên
tạp lục, Đại Nam thực lục…Bên cạnh đó, nhiều tấm bản đồ được vẽ trong khoảng thời
gian này như: Vương quốc An Nam (1650);
“Bãi Cát vàng” (Hoàng Sa – 1686; Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, cùng với
các chiến dịch giải phóng trên đất liền, chiến dịch giải phóng Trường Sa và các
đảo ven bờ đã nổ ra thắng lợi (4-1975), giang sơn thu về một mối.
GV có thể dạy lồng
ghép nội dung trên trong các bài: Bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị,
kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX), mục 1 - Xây dựng và củng
cố bộ máy nhà nước - Chính sách ngoại giao.
Bài 23, lớp 12: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn
toàn miền Nam (1973 - 1975), mục III. 2 - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1975.
2.2.2. Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc một cách hòa bình và liên tục qua các triều đại phong kiến Việt
Nam.
Trải qua các triều đại phong kiến Việt
Nam, con đường mở mang bờ cõi xuống phía Nam của người Việt cũng đồng thời là
con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ
khi giành quyền tự chủ lâu dài đã xác định hải giới và chú trọng bảo vệ chủ quyền
trên biển được thể hiện qua các nội dung: quá trình mở rộng lãnh thổ, tổ chức
quân đội, chính sách đối nội và đối ngoại của các triều đại phong kiến
GV có thể dạy lồng ghép nội dung trên trong các bài: Bài 17, lớp 10: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỷ X đến
thế kỷ XV, Bài 22, lớp
11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ
nhất của thực dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế; Bài 24, lớp
12: Việt Nam trong năm đầu sau thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước năm 1975, mục III - Hoàn thành thống
nhất đất nước về mặt nhà nước (1975-1976); Bài
26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 -
2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng.
2.2.3. Vai trò của
biển, đảo góp phần tạo nên những thắng lợi hiển hách trong công cuộc đấu tranh
bảo vệ Tổ quốc
Từ thế kỉ X đến thế kỉ
XVIII, thủy quân Việt Nam đã biết dựa vào thế mạnh của sông, biển chiến thắng
nhiều trận oanh liệt như: chiến thắng Bạch Đằng các năm (938, 981, 1288); thắng
lợi ở Rạch Gầm – Xoài Mút của nghĩa quân Tây Sơn, thắng lợi trước hạm đội của thực dân Anh năm 1702 tại đảo
Côn Lôn (nay là Côn Đảo)… Bước sang thế kỉ XIX và XX, phát huy truyền thống
đánh giặc của cha ông trong lịch sử, nhân dân Việt Nam tiếp tục chiến đấu và
giành thắng lợi trước hai thế lực lớn mạnh đến từ phương Tây là Pháp và Mỹ. Nhiều
trận thắng đã đi vào lịch sử như: thắng lợi trước liên quân Pháp và Tây Ban Nha
tại cửa biển Đà Nẵng (9 -
1858) làm thất bại bước đầu kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của quân Pháp;
thắng lợi trong Cuộc tiến công và giải phóng Trường Sa (từ 9
- 4 đến 29 – 4
- 1975)...
GV có thể chọn một số
kiến thức để giáo dục cho HS qua một số bài sau: Bài 19, lớp 10: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ
X - XV, mục I và II; Bài 19, lớp 11:
Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm
1873), mục I - 3: Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858; ; Bài 23, lớp 12: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc,
giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975), mục III - 2: Cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân 1975…
2.2.4. Những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam trong công
cuộc xây dựng đất nước hiện nay và vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo.
Biển, đảo nước ta có giá trị,
tiềm năng kinh tế hết sức to lớn như: Du lịch biển, đảo; nguồn thủy hải sản phong
phú; giao thông đường biển thuận lợi; nguồn khoáng sản biển đa dạng… Chính
vì vậy, ngay sau ngày đất nước được thống nhất, Nhà nước ta rất chú trọng đến
việc phát triển nền kinh tế biển thông qua việc ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị…
phấn đấu mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển. Tuy
nhiên, trước thực trạng về tài nguyên, môi trường biển, đảo đang bị đe dọa
nghiêm trọng, vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo cũng được chú trọng thông qua việc kí
kết các công ước quốc tế và ra nhiều văn bản liên quan đến vấn đề biển, đảo
như: Công ước Luật Biển 1982, Luật Biên giới
quốc gia 2013...
Ở phần này, GV có thể
chọn một số kiến thức tiêu biểu để giáo dục cho HS qua một số bài sau: Bài 18, lớp 10: Công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế trong các thế kỉ X - XV, mục 3 - Mở rộng thương nghiệp; Bài 22, lớp 10: Tình hình kinh tế ở
các thế kỉ XVI - XVIII, mục 3 - Sự phát triển của thương nghiệp; Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi
mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I - 2: Đường lối đổi mới của Đảng.
2.2.5. Giáo dục cho HS về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển,
đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hiện nay.
Ở nội dung này, GV cần cho HS khai thác nội dung của các văn bản
mang tính pháp lí quốc tế như: Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982;
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002; quá trình thúc đẩy
việc hướng tới kí kết COC; để giáo dục cho HS thấy, Việt Nam là một thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, luôn tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc
tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng kiên quyết đấu
tranh để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng
pháp luật Việt Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hòa bình, an ninh
trên biển; trên cơ sở đó khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên biển, đảo
phục vụ công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước.
GV có thể lựa chọn những
kiến thức trên để dạy lồng ghép trong các bài:
Bài 24, lớp 12: Việt Nam trong năm đầu
sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước năm 1975, mục III - Hoàn
thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975-1976); Bài 26, lớp 12:
Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 -
Đường lối đổi mới của Đảng.
2.3.1. Phải
xác định đúng kiến thức cơ bản cần giáo dục
Đây là yêu cầu quan
trọng để dạy học bộ môn Lịch sử nói chung và dạy học về vấn đề chủ quyền biển,
đảo nói riêng. Vì có xác định đúng kiến thức cơ bản mới có biện pháp giáo dục
phù hợp. Việc xác định đúng kiến thức cơ bản của bài học sẽ định hướng cho GV
biết cần phải dạy cái gì và dạy như thế nào, HS học tập và lĩnh hội kiến thức
gì và bằng cách nào. Như vậy mới có thể giúp GV thực hiện được mục tiêu của bộ
môn và bài học hướng tới, giúp HS nhận thức đúng vấn đề cần giáo dục, mang lại
hiệu quả bài học cao.
2.3.2. Đảm
bảo tính khoa học, chính xác về nội dung và tính tư tưởng
Tính
khoa học được thể hiện qua việc lựa chọn những kiến thức cơ bản nhất, chính xác
nhất để hình thành những kiến thức lịch sử cho học sinh, từ đó giáo dục cho các
em về thế giới quan khoa học, đúng đắn, xây dựng cho các niềm tin, ý thức trách
nhiệm đối với những vấn đề của quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi dạy học lịch
sử nói chung, dạy về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc nói riêng, phải cung cấp cho học
sinh những tư liệu lịch sử khoa học, chính xác làm bằng chứng về việc xác lập
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử, của bao thế hệ người Việt
Nam. Từ đó hình thành cho thế hệ trẻ ý thức, trách nhiệm để bảo vệ những thành
quả mà cha ông ta đã dựng xây, bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc nói chung, biển đảo nói
riêng.
Bên cạnh đó GV cần phải
tôn trọng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong vấn đề biển, đảo
và giáo dục chủ quyền biển đảo, tránh những kích động không cần thiết đối với
HS. Từ việc giáo dục chủ quyền biển, đảo hình thành cho HS ý thức trách nhiệm
trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung, chủ quyền biển, đảo
nói riêng, bảo vệ những thành quả mà cha ông ta đã xây dựng để có được
2.3.3. Đảm
bảo tính cụ thể, trực quan sinh động, giàu biểu tượng lịch sử
Thực trạng giáo dục Lịch
sử hiện nay cho thấy, HS chán học Lịch sử một phần do các bài giảng khô cứng,
thiếu tính thực tế, thiếu sự liên hệ thực tiễn của GV. Do vậy, trong dạy học Lịch
sử, đặc biệt là việc giáo dục vấn đề chủ quyền biển, đảo, lời nói của GV cần phải
sinh động, hấp dẫn, giàu tính hình ảnh và cần sử dụng các tư liệu, đồ dùng trực
quan sinh động như: bản đồ, sơ đồ, phim tư liệu, tranh, ảnh, hiện vật lich sử,…
hướng dẫn HS phát hiện ra vấn đề, xử lí và thẩm thấu vấn đề bằng nhãn quan Lịch
sử của HS.
Mặt khác GV cần phải phát huy
tối đa tính tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình nhận thức của HS. Muốn vậy GV cần đa dạng hóa các hình thức tiến hành (bài học nội
khóa, bài học ngoại khóa, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về vấn đề chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc) để vấn đề biển, đảo trở nên hấp dẫn, hứng
thú, dễ hiểu, dễ tiếp thu và lĩnh hội sâu sắc vấn đề đối với đối tượng HS.
2.3.4. Cần
đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với tâm lí, lứa tuổi HS
Có thể nói, đây là
nguyên tắc cơ bản, quan trọng hang đầu cần phải tuân thủ khi tiến hành các biện
pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường
phổ thông. Vì đây là đối tượng rất phù hợp để giáo dục và định hướng. Đây là
giai đoạn HS phổ thông đang có những chuyển biến và thay đổi lớn về tâm sinh lý
đặc biệt là tâm lý, là giai đoạn quan trọng, quyết định đến việc hình thành
nhân cách cho HS. Chính vì vậy, việc đưa vấn đề biển, đảo vào trường PTTH là
phù hợp, vừa sức và mang tính kịp thời. Đối với HS lớp 10 và lớp 11 cần chú trọng
đến việc giáo dục ý thức cho HS về nội dung những chứng cứ lịch sử để chứng
minh được chủ quyền các quần đảo của Việt Nam được xác lập ngay từ thời phong
kiến (thế kỷ XVII) đến nay. Đối với HS lớp 12, đây là những HS đã đủ tuổi công
dân, tự chịu trách nhiệm trước hành vi của mình cần phải giáo dục một cách sâu
sắc và kĩ lưỡng hơn về tình hình Biển Đông nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa nói riêng; đặc biệt chú trọng đến việc định hướng cho HS thái độ đối
với việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở hai quần đảo Trường sa và Hoàng Sa hiện
nay theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của
nhân dân Việt Nam.
2.3.5. Cần
định hướng thường xuyên và cập nhật
Chủ quyền biển, đảo
trong tiến trình lịch sử của dân tộc không phải là vấn đề mới nhưng lại là mới
đối với thực trạng dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Việc
giáo dục như thế nào cho có hiệu quả về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là vấn đề
tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vấn đề rất “nhạy
cảm”, diễn tiến rất phức tạp với những thay đổi không ngừng do nhiều yếu tố
khách quan khác nhau. GV cũng phải thường xuyên tự cập nhật những thông tin mới
qua nhiều kênh thông tin khác nhau để định hướng cho HS kịp thời, qua đó giúp
HS nhận thức được vấn đề đúng đắn về tình hình hiện tại, nhất là trong bối cảnh
Biển Đông thường xuyên “nổi sóng” như
hiện nay.
2.4. Bảng thống kê những nội dung vận dụng nhằm giáo dục
cho ý thức chủ quyền
biển, đảo cho HS trong dạy
học LSVN ở trường
THPT.
STT |
Lớp, Tên, bài |
Địa chỉ |
Nội dung |
1 |
Lớp
10 – Bài 14: Các
quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam |
Mục
1: Quốc gia Văn Lang, Âu Lạc Mục
2: Quốc gia Chăm Pa Mục
3: Quốc gia Phù Nam |
Ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia,
giá trị tiềm năng của kinh tế biển. |
2 |
Lớp
10 - Bài 16: Thời
bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc |
Mục
II: Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu |
Biển
đảo góp phần tạo nên những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc |
3 |
Lớp
10 - Bài 17: Qúa
trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến từ thế kỉ X - XV |
Mục
II: Luật pháp và quân đội |
Các
triều đại phong kiến luôn ý thức sâu sắc về chủ quyền đất nước trong đó có biển
đảo. |
4 |
Lớp
10 - Bài 18: Công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV. |
Mục
3: Mở rộng thương nghiệp |
Giá
trị tiềm năng kinh tế của biển trong phát triển kinh tế đất nước |
5 |
Lớp
10 - Bài 19: Những
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ X - XV |
Mục
I: Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống. Mục
II: Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên ở thế kỉ XIII |
Biển đảo góp phần tạo nên những chiến công
hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. |
6 |
Lớp
10 - Bài 22: Tình
hình kinh tế trong các thế kỉ XVI - XVIII |
Mục
3: Sự phát triển thương nghiệp |
Vai trò của biển, đảo trong sự phát triển
kinh tế đất nước. |
7 |
Lớp
10 - Bài 23: Phong
trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ
XVIII |
Mục
II (1): Kháng chiến chống quân Xiêm Mục
III: Vương triều Tây Sơn |
Biển đảo góp phần tạo nên những chiến
công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Qúa trình chiếm hữu và thực thi liên tục
chủ quyền biển, đảo của ta thời kỳ Tây Sơn. |
8 |
Lớp
10 - Bài 24: Tình
hình văn hóa ở các thế kỉ XVI – XVIII |
Mục
I: Tư tưởng, tôn giáo Mục
III: Nghệ thuật và khoa học kĩ thuật |
Vai trò của biển, đảo trong đời sống
văn hóa con người Việt Nam và quá trình chiếm hữu thực sự hòa bình, thực thi
chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam |
9 |
Lớp
10 - Bài 25: Tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX |
Mục
1: Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước – Chính sách ngoại giao |
Ý thức chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên
biển của ta có từ rất sớm và quá trình xác lập, chiếm hữu và thực thi chủ quyền
biển đảo với Hoàng Sa và Trường Sa thời nhà Nguyễn. |
10 |
Lớp
11 – Bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858
đến trước 1873) |
Mục
I – 3: Chiến sự ở Đà Nẵng 1858 |
Biển đảo góp phần tạo nên những chiến
công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc |
11 |
Lớp
11 – Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước, cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ
1873 – 1884 nhà Nguyễn đầu hàng |
Mục
III – 2: Hai bản hiệp ước 1883 và 1884, nhà nước phong kiến Nguyễn đầu hàng. |
Pháp đã thực hiện chủ quyền ở hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa |
12 |
Lớp
11 – Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp |
Mục
1: Những chuyển biến về kinh tế |
Pháp đã thực hiện chủ quyền ở hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. |
13 |
Lớp
12 – Bài 12: Phong
trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 1925. |
Mục
I – 1: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp |
Pháp đã thực hiện chủ quyền ở hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. |
14 |
Lớp
12 – Bài 21: Xây
dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền
Nam 91954 – 1965) |
Mục
I: Tình hình và nhiệm vụ của cách mạng nước ta sau hiệp định Giơ ne vơ Mục
IV – 2: Miền Bắc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 – 1965) |
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thực
hiện chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vai trò của biển, đảo trong sự phát triển
kinh tế đất nước. |
15 |
Lớp
12 – Bài 22: Nhân
dân hai miền trực tiếp chiến đấu chóng đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc
vùa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973) |
Mục
II – 2: Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc |
Chủ quyền biển đảo đã bị kẻ thù lợi dụng
để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng. |
16 |
Lớp
12 – Bài 23: Khôi
phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam
(1973 – 1975) |
Mục
III – 2: Cuộc tổng tiến công và nôi dậy mùa xuân 1975 |
Ý
thức về chủ quyền quốc gia trên biển của ta. Biển đảo góp phần tạo nên những chiến
công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc |
17 |
Lớp
12 – Bài 24: Việt
Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước 1975 |
Mục
III: Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975 – 1976) |
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta
hiện nay |
18 |
Lớp
12 – Bài 26: Đất
nước trên con đường đổi mới đi lên xây dựng CNXH (1986 – 2000) |
Mục
I – 2: Đường lối đổi mới của Đảng |
Vai trò của biển, đảo trong sự phát triển
kinh tế đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta
hiện nay |
2.5. Một số biện pháp
giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSVN ở trường THPT.
2.5.1. Khai thác triệt để các sự kiện trong bài học
lịch sửu nội khóa để giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Trong chương trình môn lịch sử ở
trường THPT hiện hành không có bài học nào trực tiếp đề cập đến chủ quyền biển
đảo nói chung và Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, vì vậy khi dạy học GV có thể sử
dụng tài liệu, lồng ghép, nhằm cụ thể hóa một số sự kiện trong các bài học lịch
sử nội khóa có liên quan để liên hệ giáo dục ý thức về CQBĐ cho HS cụ thể:
2.5.1.1.
Khai thác triệt để những nội dung lịch sử có khả năng giáo dục cho HS về vấn đề
chủ quyền biển, đảo.
Muốn
dạy tốt phần LSVN cho HS trong chương trình của bộ môn ở trường
THPT nói chung và giáo dục về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa
nói riêng đạt kết quả cao nhất, GV cần khai thác triệt để những sự kiện, hiện
tượng lịch sử có khả năng giáo dục.
Tuy nhiên, để thực hiện
được điều này, GV cần nắm vững nội dung chương trình SGK để phân biệt được sự
kiện thể hiện trực tiếp nội dung về chủ quyền biển, đảo hay sự kiện liên quan đến
vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam để tìm phương pháp giáo dục thích hợp
và hiệu quả nhất.
Thứ nhất, khai thác những sự kiện, tài liệu lịch sử thể hiện trực
tiếp về chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ cổ đến đương
đại như: Các văn bản nhà nước (Châu bản…), sách điển chế, chính sử, sách địa
chí, bản đồ lịch sử, tư liệu và bản đồ của phương Tây.
Khi tiến hành khai
thác, GV tiến hành theo 3 bước như sau:
- Bước 1: Xác định tài liệu khai thác là tài liệu nào? Phục
vụ cho việc dạy học bài nào, mục nào?
- Bước 2: GV chọn phương pháp hướng dẫn HS khai thác và
lĩnh hội tài liệu, sự kiện.
- Bước 3: Ý nghĩa của việc khai thác tài liệu, sự kiện.
Trong chương trình LSVN khối THPT, chúng ta có thể khai thác được nhiều tài liệu
gốc trực tiếp thể hiện chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam để
giáo dục cho HS như: Phủ biên tạp lục - 1776 của Lê Qúy Đôn, lịch
triều hiến chương loại chí - 1821, hoàng Việt dư địa chí - 1833 của Lê Huy Chú), đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh
Mạng; bản đồ lịch sử như: An Nam quốc đồ được thực hiện vào thời Hồng Đức (1490)… đặc biệt là Bộ Atlas
bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, trong đó có tấm bản
đồ Partiedela
Cochinechine (106) có giá trị quan trọng khẳng định chủ quyền Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Phụ lục 5).
Ví dụ 1: Khi dạy bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn
(Nửa sau thế kỉ XIX), mục 1- Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách
ngoại giao, GV khai thác các tài liệu gốc như: Các Tờ lệnh; tư liệu trong cuốn
Lịch triều hiến chương loại chí của Lê Huy Chú; các tấm bản đồ lịch sử như: Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh Mạng...GV hướng dẫn
HS khai thác những tài liệu nói
trên và đặt câu hỏi: Em hãy nhận xét ý
nghĩa của các loại tài liệu nói
trên đối với cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo hiện nay của Việt Nam?
Những nguồn tài liệu nói trên cho thấy, Việt
Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lí quốc tế khẳng định chủ quyền ở hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xác lập từ thời phong kiến, ít nhất là thời các
chúa Nguyễn (thế kỉ XVII).
Ví dụ 2: Bài 20, lớp 11: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng, mục
III. 2 - Hai bản Hiệp ước 1883 và 1884. Nhà nước phong kiến Nguyễn đầu hàng, phần
nội dung Hiệp ước Hác măng. GV khai thác tài liệu gốc như: Nghị định số 4702-CP
ngày 21-12-1933 của Thống đốc Nam Kì ra sắc lệnh sáp nhập đảo Trường Sa vào tỉnh
Bà Rịa; Dụ số 10 ban hành ngày 29-2-1938 tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh
Nam Ngãi, đặt vào tỉnh Thừa Thiên; hình ảnh về bia chủ quyền, trạm khí tượng,
ngọn hải đăng được dựng ở Hoàng Sa (1838)…
GV hướng dẫn HS tìm
hiểu những tài liệu nói trên và đặt câu hỏi: Những hành động nói trên của chính quyền
thực dân Pháp có ý nghĩa gì đối với cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo
hiện nay của Việt Nam?
Những hành động nói trên của chính quyền Pháp cho thấy, trong thời
kì này, chính quyền thực dân đã rất quan tâm đến chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam, tích cực có những hành động nhằm thực thi chủ quyền ở
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa quan trọng,
tạo thêm những cơ sở lịch sử và pháp lí vững chắc trong cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
hiện nay.
Như vậy, việc sử dụng
những tài liệu lịch sử gốc trực tiếp thể hiện chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa,
Trường Sa của Việt Nam nói trên nhằm giáo dục cho HS nắm vững, hiểu sâu kiến thức
cơ bản của bài học. Rèn luyện cho HS các kĩ năng về bộ môn như phân tích, khai
thác và sử dụng tài liệu gốc, khả năng tư duy, giải quyết vấn đề độc lập. Đồng
thời giáo dục cho HS lòng yêu nước, dũng cảm, ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ Tổ quốc, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh hiện
nay.
Thứ hai, khai thác những sự kiện, tài liệu liên quan hoặc là hệ quả
của vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Trong
quá trình thiết kế bài giảng, GV trình bày bài giảng của mình theo nội dung SGK
hoặc có thể sắp xếp lại cấu trúc các mục cho phù hợp với nội dung giáo dục. Điều
quan trọng là GV phải xác định được những sự kiện cơ bản, hiểu được nội dung, bản
chất của sự kiện đó thể hiện sự liên quan như thế nào đến việc giáo dục cho HS
về vấn đề chủ quyền biển, đảo, từ đó GV lựa chọn các phương pháp bộ môn phù hợp
với sự kiện và nội dung bài học.
Ví dụ: Khi
dạy bài 26, lớp 12:
Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 -
Đường lối đổi mới của Đảng. GV có thể
khai thác nội dung các văn bản liên quan đến chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam ở Biển Đông như: Công
ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
biển Đông (DOC - 2002); Luật Biển Việt Nam năm 2012. Việc cho HS tìm hiểu nội dung của các văn bản nói trên, một mặt giáo
dục cho HS hiểu, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt cơ sở pháp lý
và kế thừa các chính quyền trước, tiếp tục thực thi chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi kí kết các văn bản mang tính pháp lý như trên, mặt
khác HS cũng thấy được Nhà nước Việt Nam
luôn khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề biển,
đảo - Hoàng Sa và Trường Sa bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với pháp luật
quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng kiên quyết đấu
tranh để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng
pháp luật Việt Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hòa bình, an ninh
trên biển.
2.5.1.2. Sử
dụng tài liệu lịch sử để liên hệ kiến thức
cần giáo dục cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam.
Hiện
nay, việc dạy học và giáo dục cho HS ở trường THPT được tiến hành trong giờ học
nội khóa là chủ yếu. Do đặc trưng của việc học tập bộ môn Lịch sử, các loại tài
liệu tham khảo ngoài SGK có ý nghĩa quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện lại
hình ảnh quá khứ và đặc biệt là làm rõ những nội dung, vấn đề mới như vấn đề biển,
đảo. Việc GV sử dụng tài liệu lịch sử trong bài học nội khóa khi tiến hành dạy
lồng ghép vấn đề chủ quyền biển, đảo vào nội dung chương trình LSVN khối THPT
là rất phù hợp. Vì đây là nguồn tài liệu tin cậy, loại tài liệu này dùng để làm
dẫn chứng, minh họa cho các sự kiện đang trình bày trong nội dung bài học. Khai
thác nguồn tài liệu này không chỉ cung cấp thêm tư liệu lịch sử phong phú, bổ
sung thêm phần nội dung chưa có trong SGK mà còn làm sáng rõ hơn những kiến thức
cơ bản của bài học.
Ví dụ 1: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS
về vai trò, vị trí của biển, đảo Việt Nam. Cụ thể:
Biển, đảo có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa con người Việt.
Ở bài 24, lớp 10: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục I - Về tư
tưởng, tôn giáo và mục III - Nghệ thuật và Khoa học - Kĩ thuật, GV có thể dạy lồng
ghép như sau:
Từ lâu, biển, đảo đã là chủ đề để con người sáng tạo nên
các giá trị văn hóa có giá trị còn lưu lại qua hàng nghìn năm lịch sử như: các cổ vật (Trống
đồng Đông Sơn), các tác phẩm văn học, các công trình kiến
trúc… Ở các thế kỉ XVI - XVIII, biển có vai trò quan trọng trong việc là cầu nối
đưa những giá trị văn hóa của phương Tây đến với Việt Nam như: Đạo Thiên Chúa giáo, chữ Quốc ngữ. Biển còn là nguồn cảm hứng cho các ngư dân sáng tác ra
những điệu hò Bá Trạo được thực hiện khi ra khơi và trong Lễ cầu ngư của
cư dân ven biển.
Trong lĩnh vực khoa học, các công trình nghiên cứu có nội
dung về biển, đảo được xuất bản có ý nghĩa quan trọng là những chứng cứ lịch sử
và pháp lí vững chắc cho Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa như: Phủ biên tạp lục
(1776) của Lê Quý Đôn, Thiên Nam Tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá
(1686)…
Ví dụ 2: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS
về quá trình chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo
- Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thời phong kiến đến nay. Cụ thể:
Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền trong
thời Phong kiến
Bài 25, lớp 10:
Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn nửa sau thế kỉ XIX, mục
1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách ngoại giao. GV phân tích
cho HS hiểu, cùng với việc củng cố về mặt chính quyền, các ông vua triều Nguyễn
tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động nhằm xác lập, chiếm hữu và thực thi
chủ quyền biển, đảo đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: đo đạc vẽ bản
đồ, cắm cột mốc chủ quyền, xây miếu, trồng cây trên đảo…
Dưới thời Minh Mạng,
việc đo đạc để vẽ bản đồ về Hoàng Sa được tiến hành mạnh mẽ, thường xuyên bằng
việc hàng năm sai lính đi thuyền ra các đảo cắm cột mốc, bên cạnh đó nhà vua
cho vẽ bản đồ, dựng bia chủ quyền, xây miếu trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Trong cuốn Đại Nam thực lục chính biên có ghi: “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai xuất đội thủy quân Phạm
Hữu Nhật điều binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ( mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng
5 tấc, dày 1 tấc) dựng bàn dấu mốc”. “ Năm
Giáp Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 15(1834) sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc
Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi
vẽ bản đồ”.
Quá trình
thực thi chủ quyền trong thời Pháp thuộc
Ở bài 22, lớp 11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực
dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế. GV trích dẫn tư liệu: Từ năm
1927, thực dân Pháp bắt đầu nghiên cứu sâu quá trình xác lập chủ quyền của
“vương quốc An Nam” tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong bức thư của Khâm sứ Trung
kì Le Fol viết ngày 22-1-1929 gửi Toàn quyền Đông Dương có đoạn viết “…các tài liệu trong kho lưu trữ của chính
phủ An Nam cung cấp cho chúng ta những chi tiết về hoạt động của đội Hoàng Sa
và đội Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của đội Hoàng Sa”.
Bên cạnh đó, thực dân
Pháp tiến hành các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa (1925), Trường Sa (1927); dựng bia
chủ quyền, ngọn hải đăng, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa (1938)…Như vậy, với việc cho HS tìm hiểu những tư liệu lịch sử nói trên
nhằm giáo dục cho HS hiểu quá trình chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi
liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thời các
chúa Nguyễn (thế kỉ XVII), sang thời Pháp thuộc cho đến nay.
Ví dụ 3: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS
về những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam. Cụ thể:
Bài 22, lớp 10: Tình hình kinh tế ở các
thế kỉ XVI - XVIII, mục 3 - Sự phát triển của thương nghiệp. GV dạy lồng ghép nội
dung sau: Trong thời phong kiến, ngay từ thời Lí - Trần đã nhận thấy được vai
trò, giá trị to lớn về kinh tế của biển, đảo. Điều đó được thể hiện bằng việc
cho xây dựng trang Vân Đồn (Quảng Ninh) làm bến cảng để thuyền buôn nước ngoài
vào trao đổi hàng hóa, GV trích dẫn tư liệu: “Kỷ Tỵ, năm thứ 10 (1149)…thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộc Hạc, Xiêm la
vào Hải Đông xin ở lại buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là Vân Đồn
để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương”. Vùng biển Vân Đồn
có nhiều sản vật quý: “Chân châu do giống
trai sinh ra ở bể Vân Đồn”, “vùng biển này không chỉ là huyết mạch giáo thông
trong quân sự, thương mại mà còn đem lại những lợi ích kinh tế”.
Như vậy, những hoạt động trên của chính quyền Nhà nước thời bấy
giờ không chỉ có ý nghĩa nhằm phát triển kinh tế đất nước mà còn là chứng cứ lịch
sử và cơ sở pháp lí để Việt Nam khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2.5.1.3. Sử dụng đồ dùng trực quan trong quá
trình dạy học để giáo dục ý
thức về chủ quyền biển, đảo cho HS.
Đồ dùng trực
quan có vai trò to lớn trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT. Nó góp phần
quan trọng nhằm tạo biểu tượng cho HS về một nhân vật lịch sử, một hiện tượng lịch
sử diễn ra trong quá khứ, giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Đồng
thời, việc sử dụng đồ dùng trực quan còn góp phần phát triển kĩ năng quan sát,
trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập cho HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn.
Đồ dùng trực quan về CQBĐ gồm: Bản đồ, tranh ảnh, hiện vật,
phim tư liệu…rất phong phú đa dạng đòi hỏi thầy và trò phải biết vận dụng
phương pháp và khai thác có hiệu quả đồng thời ngôn ngữ của GV phải sinh động
và hấp dẫn và kết hợp chặt chẽ với tài liệu viết thì việc sử dụng đồ dùng trực
quan mới thực sự hiệu quả
Ví dụ 1: Sử dụng
phim tư liệu lịch sử để giáo dục cho HS về cuộc đấu tranh giữ vững chủ
quyền biển, đảo của Việt Nam. Cụ thể:
Bài 24, lớp 10: Tình hình văn hóa ở các
thế kỉ XVI - XVIII, mục III - Nghệ thuật và khoa học - kĩ thuật. GV cho HS xem
một đoạn phim tư liệu về “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa” nhằm
tái hiện lại việc những hùng binh Hoàng Sa năm xưa trên những chiếc thuyền nan
mỏng manh đã giong buồm vượt trùng dương giữ gìn bờ cõi.
Bài 23, lớp
12: Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền
bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975), mục III - Giải phóng hoàn toàn
miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. GV cho HS xem một đoạn phim
tư liệu về sự kiện quân đội Việt Nam giải phóng Trường Sa (1975)
Qua việc cho HS tìm hiểu những đoạn phim tư liệu lịch
sử như trên nhằm giáo dục cho các em truyền thống uống nước nhớ nguồn, hiểu rõ giá trị của nền
hòa bình, độc lập thống nhất mà chúng ta có được phải đánh đổi bằng sự hi sinh,
mất mát máu xương của bao thế hệ cha anh đã chiến đấu để giữ
vững chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa -
phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Ví dụ 2: Sử dụng
tranh, ảnh, bản đồ lịch sử để giáo dục cho HS về quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo -
Hoàng Sa, Trường Sa qua các thời kỳ lịch sử. Cụ thể:
Bài 25, lớp 10:
Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn nửa sau thế kỉ XIX, mục
1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách ngoại giao. GV cần
sử dụng 2 tấm bản đồ gốc: Đại Nam nhất thống
toàn đồ (1838) vẽ thời Minh Mạng khá hoàn chỉnh,
ghi rõ địa danh hành chính các tỉnh, các đạo, địa danh dọc biển và khối đảo Hoàng Sa và “Vạn lý Trường Sa” nằm ngoài bờ biển từ Quảng Ngãi tới
Khánh Hòa; An Nam đại quốc họa đồ (1838) của Giám mục Taberd đã ghi rõ “Paracels seu Cát Vàng” với tọa
độ rõ ràng như hiện nay. (Phụ lục 5).
Bài 22, lớp
11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ
nhất của thực dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế. GV có thể sử dụng
một số hình ảnh như: bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa (1838), trên bia
có khắc dòng chữ, dịch nghĩa là "Cộng
hòa Pháp - Đế chế An Nam quần đảo Hoàng Sa năm 1816 - Đảo Hoàng Sa năm
1938"; hình ảnh ngọn hải đăng, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa; hình ảnh
Lính bảo an đào giếng nước ngọt trên đảo Hoàng Sa; ảnh về cảnh một buổi chào cờ
trên đảo Hoàng Sa... (Phụ lục 5).
Việc sử dụng các bản đồ lịch
sử, tranh, ảnh nói trên sẽ giúp HS hiểu
rõ hơn về quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường
Sa của Việt Nam được tiến hành liên tục ít nhất từ thời các chúa Nguyễn (thế kỉ
XVII) đến nay. Đây cũng chính là những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí khẳng
định chắc chắn về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Ví dụ 3: Sử dụng đồ
dùng trực quan hiện vật để tạo biểu tượng lịch sử về quá trình chiếm hữu thật
sự, hòa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của
Việt Nam.
Trong dạy
học Lịch sử, việc sử dụng đồ dùng trực quan hiện vật để giáo dục cho HS rất
quan trọng, đặc biệt là giáo dục về vấn đề chủ quyền biển, đảo. Để thực hiện một cách hiệu quả phương pháp này, GV nên tiến hành
các tiết học tại thực địa như: bảo tàng, nhà lưu niệm, khu triển lãm những hiện
vật, hình ảnh về biển, đảo. Tuy nhiên hình thức
này phụ thuộc vào điều kiện của từng trường, địa phương để áp dụng.
Ví như, khi dạy bài 14:
Các quốc gia cổ đại
trên đất nước Việt Nam.
Để cung cấp cho học sinh một cách chân thực về văn hóa vật chất và
tinh thần
của người Việt Cổ, giáo viên sử dụng tư liệu Trống đồng Đông Sơn
kết hợp
với miêu tả có phân tích, giúp cho học sinh hiểu được về đời sống
vật chất và
tinh thần, về kĩ thuật đúc đồng của người Việt cổ. Đặc biệt để
giáo dục ý thức
về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, giáo viên khai thác hình thuyền khắc trên
trống đồng Đông Sơn đã khẳng định từ lâu dân tộc ta đã gắn bó với
sông nước
lấy thuyền làm phương tiện làm ăn sinh sống
2.5.1.4. Giao bài tập nhận thức trong quá
trình dạy học để giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo.
Do những nội dung về chủ quyền biển đảo được đề cập trong chương
trình chưa nhiều, nên hình thức giao bài tập nhận thức cho HS có ý nghĩa rất lớn
và phù hợp với xu hướng phát triển của phương pháp dạy học hiện nay. BTNT vừa để
rèn luyện cho HS kĩ năng tự học một cách hợp lí và cũng là cách giúp HS củng cố
kiến thức cơ bản đồng thời gắn học đi đôi với hành, đồng thời giúp các em hình
thành năng lực học tập bộ môn, phat triển khả năng nhận thức để các sự kiện, hiện
tượng lịch sử trở nên sâu sắc và ấn tượng hơn, từ đó khơi gợi ở HS những cảm
xúc lịch sử làm cho kiến thức lịch sử trở nên “có hồn” và khắc sâu.
Để
thiết kế một CHNT, BTNT, trước hết, chúng ta phải xác định được mục đích, yêu
cầu và nội dung chính của bài học hoặc của một chương, một khóa trình lịch sử
và phải gắn với mục tiêu giáo dục đã được đặt ra. Qua đó, cho phép chúng ta có
thể thiết kế được một BTNT phù hợp với đối tượng, với chủ thể nhận thức là các
em HS.
Ví dụ: - Bài 23, lớp 12:
Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền bắc, giải phóng hoàn toàn miền
Nam (1973-1975). Có thể
thiết kế BTNT sau khi học xong bài này như sau:
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Thông
qua việc tìm hiểu những sự kiện như: Quân đội
Việt Nam giải phóng Trường Sa (1975) và sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 ở vùng biển
của Việt Nam (1/5/2014) em hãy:
1.
Viết một bài luận, trình bày cảm nhận của em về sự hi sinh của quân đội Việt
Nam (1975) và suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay trong việc
bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển, đảo Tổ quốc?
2.
Đánh giá của em về cách ứng xử của Trung Quốc ở Biển Đông nói chung và ở vùng
biển của Việt Nam nói riêng? Là một HS em phải làm gì để bảo vệ và giữ vững chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc phù hợp với Luật pháp quốc tế cũng như Luật pháp
của Việt Nam?
Để HS có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, GV có thể gợi ý về
cách giải quyết vấn đề và cung cấp cho HS những trang mạng hoặc những cuốn sách
có nội dung liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo. (GV yêu cầu HS làm tại
nhà).
2.5.1.5. Tăng cường hình thức kiểm tra đánh
giá gắn với nội dung biển đảo Tổ quốc.
Việc
kiểm tra đánh gia kết quả học tập của HS trong quá trình dạy học có tầm quan
trọng đặc biệt. Nó là khâu cuối cùng đồng thời khởi đầu cho một chu trình tiếp
theo với một chất lượng cao hơn của quá trình giáo dục. Nên để việc GD cho HS
về CQBĐ đạt được hiệu quả cao, ngoài việc cung cấp cho các em tư liệu lịch sử
khoa học thì GV cần đưa nội dung biển đảo vào hệ thống ngân hàng đề thi, từ đó
HS mới có thể chủ động tìm tòi, nghiên cứu, phát triển khả năng tư duy trong
giải quyết vấn đề, cũng tránh được tình trạng “học gì thi nấy” như hiện nay.
Ví
dụ: Trong các kỳ thi HSG trường, HSG cụm, HSG tỉnh bên cạnh nhwungx câu hỏi
kiến thức chuyên sâu, GV có thể lồng ghép những câu hỏi mang tính mở, để có thể
có thể đánh giá khả năng nhận thức và tư duy vấn đề của HS qua dạng câu hỏi như
sau:
“Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các em cần
có ý thức và trách nhiệm như thế nào trong sự nghiệp bảo vệ CQBĐ của ta ở Biển
Đông?” Hoặc “Trước hành động hung hăng của Trung Quốc khi hạ đặt giàn khoan 981 vào
vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta vào ngày 2/05/2014. Là một thanh nhiên
Việt Nam thời đai mới em có suy nghĩ và hành động như thế nào?”.
Qua
việc suy nghĩ, trả lời các câu hỏi như trên vừa giúp HS phát triển được năng
lực tư duy, giải quyết vấn đề vùa cung cáp thêm những kiến thức về thế mạnh,
tiềm năng của biển đối với sự phát triển kinh tế đất nước, an ninh quốc phòng,
ổn định chính trị quốc gia. Qua đó HS có ý thức hơn trong việc phòng chống các
thế lực thù địch đang có mưu đồ xuyên tạc, chống đối nhà nước ta, đồng thời
giáo dục cho các em tinh thần yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh và có
những hành động cụ thể lên án những việc làm sai trái của Trung Quốc trong
những năm gần đây.
2.5.1.6. Tích hợp nội dung chủ quyền biển, đảo theo
nguyên tắc liên môn hoặc
thiết kế và dạy học các chủ đề tích hợp liên môn.
Trong chương trình môn lịch sử THPT hiện hành, nội dung kiến thức
liên quan trực tiếp đến CQBĐ Việt Nam được đề cập rất ít. Các môn khoa học khác
như: Địa lí, DGCD, Quốc phòng có đề cập nhưng còn rời rạc, nên việc GD HS ý thức
về CQBĐ quốc gia qua nội dung kiến thức SGK còn ờ nhạt. Để khắc phục tình trạng
này GV cần chủ động lồng ghép kiến thức về CQBĐ bằng cách sử dụng kiến thức
liên môn hoặc thiết kế chủ đề liên môn, từ đó hình thành cho các em khả năng tư duy logic, khả
năng liên hệ thực tế để giải quyết vấn đề một cách tích cực và hiệu quả.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 19, lớp 10:
Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV, mục II - các cuộc
kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên ở thế kỉ XIII, GV có thể tích hợp nguồn
tư liệu môn Ngữ văn với việc trích dẫn những câu thơ nói về chiến thắng của
quân và dân nhà Trần trong cuộc chiến đấu chống lại quân giặc: “Bạch Đằng nhất trận hỏa công. Tặc binh đại
phá, huyết hồng mãn giang”; hoặc GV có thể sử dụng tác phẩm văn học “Đại
cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi khi dạy về cuộc kháng chiến chống quân Minh vào đầu
thế kỉ XV: “Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…”. Việc vận dụng kiến thức của môn văn học có
ý nghĩa giáo dục cho HS hiểu rằng: nước ta là một đất nước có nền văn hiến lâu
đời, có lãnh thổ riêng, có chủ quyền đối với lãnh thổ của mình cả trong đất liền
và ngoài biển khơi.
Cùng
với việc vận dụng kiến thức văn học, GV có thể vận dụng kiến thức địa lý kết hợp
mô tả trên lược đồ để phân tích cho HS hiểu được về sự vận dụng quy luật thủy
triều của quan quân nhà Trần để dàn thế trận trên sông Bạch Đằng dụ địch vào
sâu trong cửa sông để tiêu diệt.
Ví dụ 2: Bài 26, lớp
12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa
xã hội (1986 - 2000), mục I - 2: Đường lối đổi mới của Đảng, GV có thể sử dụng
kiến thức liên môn để dạy như: khi nói đến Công ước Luật Biển 1982 qui định quyền, chủ quyền về biển, đảo là nói đến: nội thủy, đường cơ sở, thềm lục địa... là kiến thức của môn Địa lý; nói đến Luật bảo vệ Môi trường, Sách đỏ... cần có kiến thức của môn Sinh học; nói đến chấp
hành Luật là kiến thức của môn
Giáo dục công dân…
Ngược lại, đối với
môn Giáo dục công dân, GV có thể tiến hành nội dung giáo dục về chủ quyền biển,
đảo thông qua một số bài trong SGK của cả ba khối lớp như: bài 14, lớp 10 -
Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; bài 14, lớp 11 - Chính sách
quốc phòng và an ninh; bài 9, lớp 12 - Pháp luật với sự phát triển bền vững của
đất nước. Hoặc môn Địa lý, GV cũng có thể dạy học nội dung về chủ quyền biển, đảo
khi dạy về vị trí, vai trò biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa và Chính sách của
Nhà nước đối với biển, đảo hiện nay.
Ví dụ
3: Trong quá trình dạy môn Lịch sử ở trường THPT, GV có thể thiết kế
chủ đề bảo vệ CQBĐ Việt Nam cho HS lớp 10, lớp 11 hoặc lớp 12 nhằm giúp HS biết
được vị trí của vùng biển, đảo, quần đảo nước ta, hiểu được lịch sử bảo vệ
CQBĐ, đánh giá được vai trò của biển đảo từ xưa tới nay, phát triển năng lực phẩm
chất của HS: Tụ học, hợp tác và giải quyết vấn đề, góp phần bồi dưỡng truyền thống
yêu nước, đoàn kết, tình yêu với biển đảo quê hương, ý thức trách nhiệm trong bảo
vệ biển đảo hiện nay.
Để thiết kế chủ đề này, GV cần sử dụng kiến thức môn Địa lí để xác
định vị trí, vai trò của các vùng biển, đảo, quần đảo. Kiến thức môn Lịch sử để
tìm hiểu quá trình xác lập CQBĐ và quá trình bảo vệ CQBĐ từ trước tới nay, sử dụng
kiến thức môn Công dân và Quốc phòng để hiểu được sâu sắc vai trò của biển đảo
trong công cuộc bảo vệ tổ quốc từ trước tới nay đặc biệt vai trò biển đảo hiện
nay và điều quan trọng nhất là từ kiến thức trong sách vở HS có ý thức trách
nhiêm bản thân và có hành động tích cực góp sức mình trong bảo vệ CQGQ thông
qua các hoạt động thiết thực như: Viết thư, kể truyện về Hoàng Sa, Trường Sa, vẽ
tranh cổ động….
Như
vậy, việc dạy lồng ghép theo nguyên tắc liên môn hay dạy học tích hợp
liên môn theo chủ đề trong nhà trường phổ
thông có ý nghĩa, tác dụng rất lớn nhằm bổ sung, hoàn thiện toàn diện cho HS về
cả các mặt kiến thức, kĩ năng đồng thời có ý thức, trách nhiệm và hành động
trong việc bảo vệ CQBĐ tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra còn củng cố và phát triển kiến
thức lịch sử, phát huy tính tích cực chủ động của HS, gây hứng thú học tập,
nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục của bộ môn.
2.5.2. Tiến hành các
hoạt động ngoại khóa lịch sử nhằm giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo lòng yêu
quê hương đất nước cho HS
Trong khi chương trình giảng dạy hiện nay ở trường
phổ thông, nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo chưa được đưa vào giảng dạy
chính khóa mà chỉ được thực hiện bằng hình thức dạy lồng ghép, có phần gây khó
khăn cho GV khi soạn giảng và thực hiện mục tiêu bài học. Chính vì vậy, hình thức
hoạt động ngoại khóa sẽ hỗ trợ, bổ sung và
củng cố kiến thức HS đã học hoặc chưa có điều kiện học trong bài nội khóa,
ngoài ra góp phần phát huy tính tích cực chủ động và gây hứng thú học tập cho
HS. Mặt khác sẽ cho phép việc giáo dục
về nội dung chủ quyền biển, đảo được tiến hành thuận lợi hơn với hình thức, nội
dung phong phú và hấp dẫn. Giáo dục ý thức cho
HS về chủ quyền biển đảo là chủ đề mở, nên có thể tổ chức nhiều hình thức hoạt
động ngoại khóa sinh động thu hút tham gia tích cực của HS, cụ thể:
2.5.2. 1. Tổ chức tham quan, học tập tại các bảo
tàng, phòng trưng bày. Hình thức ngoại khóa này phù hợp ở địa phương có biển như Nghệ An, tuy bảo tàng của Nghệ An tuy chưa thực
sự phong phú nhưng cũng đã lưu trữ số lượng tài liệu gốc vô cùng phong phú, quý giá như các hình ảnh,
tư liệu viết, bản đồ… có liên quan đến nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo.
Việc dạy học tại thực địa có vai trò quan trọng trong việc tạo biểu tượng một
cách sinh động, chân thực, từ đó phát triển tư duy và nhận thức lịch sử của HS
một cách nhanh chóng, trực tiếp và bền vững.
2.5.2.2. Tổ chức các cuộc thi về biển, đảo như: “Biển đảo quê hương”,” hay “Trường Sa, Hoàng Sa trong trái tim em, “tìm hiểu Biển Đông”, thi vẽ tranh, làm báo tường, viết truyện về
các tấm gương bảo vệ CQBĐ... Ở trường phổ thông có thể tiến hành qua các buổi
ngoại khoá, phát động các cuộc thi tìm hiểu…hình thức chủ yếu là đố kiến thức
HS thông qua các cách thức: Đố vui, hái hoa dân chủ, trắc nghiệm, viết bài phát
biểu cảm tưởng... Đây là một hình thức giáo dục sinh động và hấp dẫn có tính chất tổng hợp, có thể thực hiện
cho tất cả HS toàn trường tham gia và sự phối hợp của các tổ chức, đoàn thể
trong nhà trường.
2.5.2.3. Ngoại khóa chuyên đề tổng hợp
Đây
là hình thức thường tiến hành trong những dịp chào mừng các
hoạt động như: Kỉ niệm ngày 22/12/1944 thành lập QĐNDVN, giải phóng miền nam
30/4/1975…Hình thức rất hấp dẫn, thiết thực với HS và có nhiều trường THPT
hiện nay triển khai rất có hiệu quả.
Ví dụ: Tổ chức ngoại khóa chuyên đề: “Chủ quyền biển đảo quê hương”.
Các
bước tiến hành như sau:
* Bước 1: Chuẩn bị, xây dựng kế hoạch buổi ngoại khóa.
- Thời gian chuẩn bị (phát động trước 2 tuần).
- Dự kiến thời gian tiến hành, địa điểm, thành phần tham
gia (HS toàn trường hoặc khối lớp), khách mời, ban giám khảo…
- Phân công công tác chuẩn bị: Phân
công công việc cụ thể cho các bộ phận, tổ, nhóm như: phụ trách nội dung thi, phụ
trách văn nghệ, phụ trách kĩ thuật, cơ sở vật chất, chuẩn bị nội dung cần kiểm
tra (nếu có)
* Bước 2: Nội dung, tiến trình thực hiện.
1.
Giới thiệu đại biểu khách mời, ban giám khảo, nội dung chương trình, mục tiêu cần
đạt của buổi ngoại khóa đối với HS; hướng dẫn HS tham gia chương trình.
2.
Những nội dung chính thực hiện trong chuyên đề.
* Nội dung 1: Vài nét khái quát về biển, đảo (GV sử dụng phương pháp thuyết trình
kết hợp với việc sử dụng một số hình ảnh trình chiếu trên màn hình Power
Point).
+
Khái niệm về biển, đảo, quần đảo,…
+
Khái quát về biển đảo Việt Nam, biển đảo Nghệ An
Tầm quan trọng của biển, đảo: về kinh tế, văn hóa, an
ninh quốc phòng,…
Tình
hình biển, đảo hiện nay: ô nhiễm môi trường, chủ quyền biển, đảo bị xâm phạm…
+
Quan điểm của Đảng ta đối với phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo:
đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo; chủ
trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng
khác liên quan đến Biển Đông bằng phương pháp hòa bình.
* Nội dung 2: Trường Sa, Hoàng Sa - phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc
Việt Nam.
Lịch
sử chủ quyền Trường Sa - Hoàng Sa.
( Phần này, GV có thể mời một số GV thuộc các bộ môn: Địa lý, Quốc phòng, giáo dục
công dân…hoặc GV am hiểu về kiến thức biển,
đảo hỗ trợ hoặc tự thực hiện theo các phương pháp khác nhau như: hỏi - đáp cùng
với HS, cho HS hùng biện theo từng vấn đề chuẩn bị trước, cho HS thảo luận nhóm
và trình bày…)
* Nội dung 3: Trường Sa, Hoàng Sa hôm nay (GV sử dụng phương pháp thuyết trình
kết hợp với việc sử dụng màn hình Power Point trình chiếu). Qua hình ảnh thực tế
giúp HS hiểu biết về Trường Sa, Hoàng Sa hiện nay
* Nội dung 4: Thế hệ trẻ với trách nhiệm bảo vệ biển, đảo quê hương (mục kiểm tra nhận thức)
GV
cho HS xem một số hình ảnh gợi ý (bảo vệ môi trường biển, đảo; góp đá xây dựng
Trường Sa; Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 ngày 2 – 5 –
2014; thanh niên Nghệ An tham gia nghĩa vụ quân sự, lên đường ra bảo vệ Trường Sa…), sau đó đặt câu
hỏi như: Em có nhận xét gì về nội dung của những hình ảnh trên? Qua đó giúp HS nhận thức và nêu ra được những hành động cụ
thể về việc:
+ Bảo vệ, khai thác hợp lí tài nguyên biển, đảo
(khai thác đi đôi với bảo vệ)
+ Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
(Có thể thay hình thức trên bằng câu hỏi nhanh
hoặc Phiếu học tập).
3. Kết thúc buổi ngoại khóa: GV nên cho HS phát biểu cảm tưởng; nhận xét tinh thần thái
độ tham gia học tập, có thể kết hợp phát động phong trào ủng hộ Trường Sa,
Hoàng Sa.
Buổi ngoại khóa nên lồng các tiết mục văn nghệ
hát về Trường Sa, Hoàng Sa về biển, đảo quê hương.
2.5.2.4. Công tác công ích xã hội
Tổ
chức cho HS sưu tầm tài liệu, hiện vật liên quan đến chủ quyền biển, đảo sau đó
nhà trường phối hợp với địa phương tổ chức các cuộc triển lãm về biển đảo từ đó
HS có cái nhìn tiệm cận, chính xác hơn về biển đảo, thông qua đó vận động tuyên
truyền HS tham gia bảo vệ môi trường biển như: Thành lập đội xung kích, đội
tình nguyện xanh, đội tuyên truyền bảo vệ môi trường, bảo vệ khu du lịch biển.
Biện pháp này thường được tiến hành ở các điạ phương gắn liền với biển.
Trên
đây là một số hình thức rất phù hợp để thực hiện chuyên đề ngoại khóa
về nội dung chủ quyền biển, đảo ở trường THPT. Thông qua hoạt động ngoại khóa, góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục về nội dung chủ quyền biển, đảo, nâng cao ý thức và trách nhiệm hơn
cho các em HS trong việc đấu tranh và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Qua
đó HS sẽ có những hoạt động ý nghĩa hơn, thiết thực hơn trong việc bảo vệ chủ
quyền biển, đảo cũng như bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo quê hương.
2.5.3. Giáo dục chủ quyền biển, đảo
qua các bài Lịch sử địa phương ở trường THPT.
Để thực
hiện được hình thức này các trường phải có kế hoạch xây dựng các chuyên đề dạy
học lịch sử địa phương theo PPCT đầu năm, các chuyên đề phải có nội dung phối hợp với
Lịch sử dân tộc để nâng cao tính giáo dục truyền thống tốt đẹp của quê hương trong bài học
nội khóa LSĐP
Giáo dục
chủ quyền biển, đảo qua các bài Lịch sử địa phương áp dụng cho
các tỉnh thành có biển, đồng thời tùy thuộc vào PPCT, nội dung tiết LSĐP của
từng đơn vị lựa chọn, tùy theo trình độ khối
lớp để GV chọn nội dung và phương pháp thực hiện.
Ví dụ: Có
thể biên soạn nội dung “Chiến dịch
giải phóng quần đảo Trường Sa trong Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1975” dùng cho việc dạy tiết
Lịch sử địa phương và lồng ghép bài Lịch sử dân tộc cho HS lớp 12.
Bố cục của bài như
sau:
1.
Kế hoạch của ta
a.
Hoàn cảnh:
Sau khi chiến dịch Tây Nguyên, Trị - Thiên Huế,
Đà Nẵng thắng lợi, một loạt vị trí chiến lược quan trọng dọc duyên hải miền
Trung nằm trong tay quân giải phóng, chính quyền và quân đội Sài Gòn lâm vào
tình trạng suy sụp toàn diện. Thời cơ để giải phóng quần đảo Trường Sa đã xuất hiện.
b. Chủ trương, kế hoạch của
ta:
Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương chủ trương nhằm thời cơ có lợi nhất giải phóng các đảo, quần đảo thuộc
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông mà quân đội Sài Gòn đang chốt giữ. Đặc biệt
là với quần đảo Trường Sa ở xa đất liền, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng.
Việc triển khai chiến dịch giải phóng được giữ
bí mật và khẩn trương để không cho các lực lượng nào khác lợi dụng cơ hội chiếm
các đảo từ tay quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Tư tưởng mà những người tham gia chiến dịch giải phóng
Trường Sa được xác định là phải hành động "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ".
2. Diễn biến chiến dịch
a. Diễn biến trận đánh đảo Song
Tử Tây đêm 13 rạng ngày 14-4-1975:
b. Diễn biến trận đánh giải phóng
đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa từ ngày 21 đến ngày 29-4-1975
3.
Kết quả và ý nghĩa lịch sử
a. Kết
quả:
Với cách
đánh táo bạo, bất ngờ và sáng tạo, chỉ trong vòng 20 ngày vừa hành quân vừa chiến đấu (từ 9-4 đến
29-4), lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam đã lần lượt giải phóng các đảo
trọng yếu mà quân đội Sài Gòn đồn trú: Song Tử Tây (14-4); Sơn Ca (25-4); Nam
Yết (27-4); Sinh Tồn (28-4) và Trường Sa lớn (29-4)... Chiến dịch giải phóng
Trường Sa đã hoàn toàn thắng lợi.
b. Ý
nghĩa:
Thắng lợi của chiến dịch giải phóng Trường Sa đã động viên
tinh thần quyết thắng cho quân và dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử; cùng với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tạo nên một thắng lợi trọn vẹn của
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
Quần đảo Trường Sa và
các đảo trên Biển Đông có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt. Do vậy, giải
phóng Trường Sa và các đảo đã mở ra cho ta những khả năng thuận lợi to lớn cho
Việt Nam:
Về quân sự, giải phóng quần đảo Trường Sa, một
phần lãnh thổ quan trọng của Tổ quốc, tạo khả năng cho quốc phòng có điều kiện
phòng thủ từ xa, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Về kinh tế, giải phóng, làm chủ Trường Sa là làm chủ vùng
lãnh hải có tài nguyên phong phú, có khả năng góp phần xây dựng và phát triển đất
nước, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và vị thế đất nước.
Về chính trị, việc giải
phóng Trường Sa thể hiện rõ ý thức về chủ quyền đối với vùng biển và hải đảo
thiêng liêng của nhân dân Việt Nam. Chứng minh sự kế tục chiếm hữu, thực thi chủ
quyền lãnh thổ của các thế hệ người Việt. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp
phần bảo vệ và khẳng định chủ quyền Trường Sa của Việt Nam trên trường quốc tế,
đặc biệt là vùng Châu Á - Thái Bình Dương.
Chiến dịch
giải phóng Trường Sa và làm chủ biển, đảo trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1975 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí giá. Đó là phải nắm bắt tốt tình
hình và có phương án tác chiến hợp lý, cùng với sự mưu trí, sáng tạo trong việc
chọn mục tiêu và hướng đánh cho từng đảo; là giải phóng và bảo vệ biển, đảo
phải bằng sức mạnh của toàn dân, trực tiếp là lực lượng trên biển, trên đảo,
ven bờ, trên bờ; là nghệ thuật quân sự “lấy
nhỏ thắng lớn”, lấy vũ khí thô sơ để đánh lại vũ khí mạnh và hiện đại hơn
của đối phương...
GIẢI
PHÁP MỚI VÀ ỨNG DỤNG
VÀO THỰC
TIỄN CÔNG TÁC GIẢNG DẠY
3.1. Giải
pháp mới
Để
nâng cao hiệu quả giáo dục cho học sinh trong dạy học lịch sử đòi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức chuyên môn vững vàng, thường xuyên phải cập nhật những
kiến thức mới đồng thời phải học hỏi nâng cao kĩ năng nghiệp vụ và thao tác sư
phạm. Tự bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với
chủ quyền biển, đảo bằng những hành động cụ thể như: tham gia các hoạt động tuyền
truyền, các cuộc thi “tìm hiểu về biển, đảo quê hương”…
Giáo
viên phải có lập trường kiên định, biết khai thác những thông tin chính xác, kết
hợp với các phương pháp sư phạm phù hợp tạo hiệu quả cao trong giáo dục ý thức
cho học sinh trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc.
Giáo viên phải đóng vai trò chủ động phối hợp
với nhà trường, Đoàn thanh niên, giáo viên các môn học khác tổ chức các hoạt động
học tập trong giờ nội khóa và ngoại khóa để phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử.
Để
vấn đề giáo dục ý thức biển, đảo Tổ quốc trong dạy học môn Lịch sử thực sự đem
lại kết quả như mong muốn, đòi hỏi người giáo viên phải làm tốt vai trò của người
hướng dẫn và tổ chức. Giáo viên phải thực sự gần gũi với học sinh, nắm bắt được
từng điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh để có sự phân công và điều chỉnh nhiệm
vụ một cách hợp lý, giúp các em có thể hoàn thành tốt nội dung được giao. Việc
hướng dẫn và tổ chức học sinh chỉ đạt kết quả khi giáo viên có sự chuẩn bị kĩ
lưỡng, đầu tư về thời gian, công sức. Giáo dục ý thức biển, đảo Tổ quốc trong dạy
học môn Lịch sử đã được chứng minh là có khả năng phát huy tính sáng tạo và chủ
động của học sinh. Vì vậy việc áp dụng nó vào việc dạy học chính là chúng ta
đang thực hiện đổi mới việc dạy học.
3.2. Ứng
dụng vào thực tiễn công tác giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT
3.2.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm là cơ sở để khẳng định tính đúng đắn, phù hợp hay
không của cơ sở lí luận về giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo cho HS trong dạy
học lịch sử, của những hình thức biện pháp tổ chức giáo dục ý thức chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT được nêu ra
trong đề tài nghiên cứu này.
Thực tiễn khi tiến hành thực nghiệm, từ kết quả kiểm tra và lấy ý
kiến phản hồi từ GV, HS là căn cứ phân tích, xác định tính hiệu quả, khả thi và
mở rộng triển khai những biện pháp tổ chức giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo
Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử cũng như khả năng vận dụng thực tiễn.
Kết quả thực nghiệm là cơ sở đánh giá và kết luận khái quát về vấn
đề giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Qua đó bổ sung, làm phong phú thêm nhận thức của GV và HS về
vấn đề chủ quyền biển, đảo, góp phần làm nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử
trong trường phổ thông.
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm
Căn cứ vào đối tượng
và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi tiến hành lựa chọn đối tượng thực nghiệm
như sau:
- Đối với HS các lớp
thực nghiệm và đối chứng, tôi chọn HS khối 10 và khối 12 của trường.
- Yêu cầu: Để có kết
quả thực nghiệm khách quan, mỗi khối tôi chọn 2 lớp thực nghiệm, 2 lớp đối chứng
có điều kiện học tập, sĩ số, giới tính,
trình độ nhận thức tương đương nhau.
- Lớp thực nghiệm, tôi sử dụng giáo án có vận dụng nội dung và biện pháp giáo dục
chủ quyền biển, đảo mà đề tài đã đưa ra trong quá trình lên lớp. Lớp đối chứng,
tôi dạy bình thường theo nội dung giáo án và phương pháp truyền
thống, không vận dụng nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo trong quá trình lên
lớp.
- Đối tượng thực nghiệm cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Đối tượng thực nghiệm của đề tài
STT |
Thực nghiệm |
Đối chứng |
||
Lớp |
Số lượng HS |
Lớp |
Số lượng HS |
|
1 |
12B1 |
40 |
12B2 |
40 |
2 |
12B3 |
40 |
12B4 |
40 |
3 |
10B1 |
45 |
10B2 |
45 |
4 |
10B3 |
45 |
10B4 |
45 |
3.2.3. Nội dung và phương pháp
thực nghiệm
Tôi chọn hai bài để tiến hành dạy thực nghiệm. Bài 23, lớp 10: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ
quốc cuối thế kỷ XVIII” và Bài 23, lớp 12: “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở
miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975)”.
Để chuẩn bị cho bài thực nghiệm, tôi tiến hành theo
các bước như sau:
Thứ nhất, lựa chọn bài thực nghiệm phù hợp với nội dung, chương trình của các
khối, lớp.
Thứ hai, soạn giáo án thực nghiệm. Trước khi soạn giáo án tôi tìm hiểu tình hình
học tập của HS qua GV bộ môn.
Thứ ba, báo cáo với Ban giám hiệu, Tổ bộ môn của trường mà mình sẽ tiến hành
thực nghiệm về nội dung, mục đích, ý nghĩa để được nhà trường, Tổ giúp đỡ tạo
điều kiện.
Ở lớp đối chứng, giờ học được tiến
hành chủ yếu thông qua thuyết trình, học sinh ghi chép kết hợp với vấn đáp. Khảo
sát ý kiến của học sinh sau giờ học cho thấy học sinh dù nắm được kiến thức cơ
bản, nhưng chưa được khắc sâu và học sinh chưa có hứng thú với bài học vì các
hoạt động học tập còn chưa phong phú.
Giờ học thực
nghiệm được triển
khai với việc sử dụng đa dạng nhiều phương pháp dạy học khác, trong đó học sinh
là người chủ động lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh
đều hứng thú với bài học. Đặc biệt là với những kiến thức mới mà trong sách
giáo khoa còn đưa vào một cách hạn chế như vấn đề xác lập và thực thi chủ quyền
biển đảo của vương triều Tây Sơn, tôi đã sử dụng đa dạng các phương pháp như: sử dụng tài liệu tham khảo, tường
thuật, miêu tả, đồ dùng trực quan (bản đồ lịch sử, lược đồ, tranh ảnh, bảng biểu),
làm việc nhóm.... (Phụ lục 3).
Thứ tư, để đánh giá kết quả cuối cùng của bài học, tôi tiến
hành bài kiểm tra nhanh vào cuối tiết dạy đó. Câu hỏi kiểm tra hoạt động nhận
thức giữa các lớp có nội dung hoàn toàn giống nhau, bám sát vào nội dung bài học
và có đáp án cụ thể cũng như barem chấm điểm. (Phụ lục 4).
Trên cơ sở trên, tôi lấy kết
quả kiểm tra HS để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá kết quả bài thực nghiệm.
3.2.4. Kết quả thực nghiệm
2.5.4.1. Kết quả
định lượng
Sau khi
chấm bài kiểm tra, xếp loại HS qua các mức giỏi, khá, trung bình, yếu - kém, tôi
thu được kết quả thực nghiệm như sau:
Bảng 2.2: Kết quả kiểm tra của HS lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng
Lớp |
Số HS |
Điểm số (%) |
ĐTB |
|||||||||
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
|||
TN12B1 |
40 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
2 5% |
6 15% |
13 32.5% |
12 30% |
5 12.5% |
2 5% |
7.45 |
ĐC12B2 |
40 |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
3 7.5% |
6 15% |
12 30% |
15 37.5% |
2 5% |
2 5% |
0 0% |
6.4 |
TN12B3 |
40 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
5 12.5% |
7 17.5% |
12 40% |
8 20% |
5 12.5% |
3 7.5% |
7.55 |
ĐC12B4 |
40 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
4 10% |
6 12% |
13 32.5% |
11 27.5% |
3 7.5% |
2 5% |
1 2.5% |
6.5 |
TN10B1 |
45 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
4 10% |
12 30% |
15 37.5% |
3 7.5% |
7 17.5% |
4 10% |
7.4 |
ĐC10B2 |
45 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
6 15% |
8 20% |
7 17.5% |
10 25% |
8 20% |
5 12.5% |
1 2.5% |
6.5 |
TN10B3 |
45 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
1 2.5% |
7 15% |
12 30 % |
11 27.5% |
5 12.5% |
6 15% |
3 5% |
70 |
ĐC10B4 |
45 100% |
0 0% |
0 0% |
0 0% |
8 20% |
7 17.5% |
9 22.5% |
10 25% |
5 12.5% |
4 8% |
1 2.5% |
6.2 |
(Chú giải: TN - Thực
nghiệm ; ĐC - Đối chứng
Số HS - Số học sinh; ĐTB - Điểm trung bình).
Sau khi tiến hành chấm bài của HS, tính điểm, xử lí phần trăm để thấy rõ
sự chênh lệch về kết quả học tập của HS các lớp TN và các lớp ĐC, tôi có được bảng
kết quả như sau:
Qua
bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy rõ mức độ đạt được điểm trung bình giữa
các lớp đối chứng và lớp thực nghiệm, sự chênh lệch giữa điểm của lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng. Kết quả dạy học của lớp thực nghiệm luôn cao hơn lớp đối chứng.
Đây là kết quả hoàn toàn trùng khớp với thực tiễn dạy học. Ở
lớp thực nghiệm (cả 10 và 12), có vận dụng nội dung kiến thức về chủ quyền biển,
đảo và các biện pháp dạy học được đề ra trong đề tài của tác giả, không khí học
tập của HS sôi nổi và rất hào hứng. Ở lớp đối chứng (cả 10 và 12), không vận dụng
nội dung kiến thức về chủ quyền biển, đảo và các biện pháp dạy học được đề ra
trong của tác giả, không khí học tập của HS ít sôi nổi hơn, hiệu quả bài học
không cao. Kết quả trên đã khẳng định tính khả thi của đề tài cũng như các biện
pháp tôi đã đề xuất.
2.5.4.2. Kết quả
định tính
Bên cạnh việc đánh giá định lượng
bằng cách cho điểm số để xem xét mức độ nhận thức của HS, tôi còn kiểm tra
những chuyển biến về mặt thái độ, suy nghĩ của HS bằng cách phân tích phần trả
lời câu hỏi của HS: Em có nhận xét gì về những việc làm của
các vua Quang Trung với chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam?
Thông qua phần trả lời của HS, tôi nhận
thấy:
Hầu hết các em đều trả lời được đáp án
của câu hỏi là: Thể hiện ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung và chủ
quyền biển, đảo nói riêng. Nhằm xác lập thật sự và thực thi chủ quyền biển, đảo
của Việt Nam. Là những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí khẳng định chủ quyền
biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam trước thế giới.
Đề tài này tôi đã nghiên cứu
từ năm học 2018 – 2019 và áp dụng ở lớp 10, sau khi dạy thí điểm tôi có trao đổi
với các GV dạy và nói chuyện với các em HS về bài học. Kết quả tôi nhận được đó
là cả GV và HS đều thấy hứng thú đối với tiết học, sẵn sàng thực hiện tiếp các
tiết học có vận dụng nội dung kiến thức về chủ quyền biển, đảo và các biện pháp dạy
học được đề ra, nên tôi mạnh dạn nghiên cứu tiến hành ở lớp 11, 12, đến năm học 2019 – 2020 tôi
đã áp dụng ở nhiều lớp học ở trường tôi giảng dạy và một số trường THPT trên địa
bàn.
PHẦN
III. KẾT LUẬN
1. Kết
luận chung
Qua
quá trình nghiên cứu nội dung chương trình SGK phần LSVN ở trường THPT hiện
hành, thực tiễn dạy học cũng như vấn đề chủ quyền biển đảo hiện nay ở biển
đông, tôi đã nghiên cứu đề tài “giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS
thông qua dạy học lịch sử Việt Nam trường THPT” theo các bước: Xuất phát từ những nghiên cứu lí luận và thực tiễn là cơ sở đề xuất các biện
pháp, hình thức tổ chức giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho học sinh THPT gồm các biện pháp sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo làm tài liệu
tham khảo để giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh; GV hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng trực quan để giáo dục ý thức về chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc cho học sinh. Đồng thời,
tích hợp kiến thức các bộ môn khoa học xã hội trong dạy học lịch sử theo nguyên
tắc liên môn; giáo viên tổ chức các hoạt động ngoại khóa. Các biện
pháp được lựa chọn, vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện
cơ sở vật chất của nhà trường và trình độ của HS.
Bên
cạnh đó, kết quả thực nghiệm sư phạm là căn cứ bước đầu khẳng định
tính hiệu quả của các biện pháp được nêu ra trong nghiên cứu này. Các biện pháp
sư phạm giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh được nêu ra
trong nghiên cứu vận dụng cho toàn bộ quá trình dạy học môn Lịch sử ở trường phổ
thông với những nội dung khai thác cụ thể phù hợp với từng lớp học, cấp học một
cách linh hoạt, sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
2. Ý
nghĩa của đề tài
Thông
qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm tôi nhận thấy việc giáo dục ý
thức về chủ quyền biển, đảo có ý nghĩa rất lớn. Với HS phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong việc tiếp thu kiến
thức lịch sử và vận dụng vào đời sống thực tế, rèn luyện được kĩ năng tư duy, kĩ
năng thực hành, phát triển trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ và khả năng sáng tạo
ở học sinh, các em có được các năng lực cốt lõi: Phát hiện, giải quyết vấn đề,
bồi dưỡng thế giới quan khoa học và các phẩm chất như: Yêu nước, tự hào dân tộc,
trách nhiệm, đam mê với môn học. Góp phần giáo dục cho HS lòng yêu quê hương, đất nước,
niềm tự hào dân tộc, truyền thống đấu tranh xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ quốc gia.
Ngoài ra còn giúp cho bản thân, đồng nghiệp hiểu và vận dụng nội dung kiến thức về vấn
đề chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT vào quá
trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và tính hiệu quả trong dạy học bộ
môn Lịch sử ở trường THPT tỉnh Nghệ An nói riêng và cả nước
nói chung.
Đề
tài còn góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn thể hiện trên các mặt: giáo dục, giáo dưỡng và phát triển, khắc phục tình trạng chất lượng học tập
bộ môn Lịch sử có phần giảm sút như hiện nay, góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, nâng cao hiệu
quả bài học Lịch sử, đặc biệt là bài học có nội dung về chủ quyền biển, đảo, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú
thêm lý luận dạy học về vấn đề giáo dục chủ quyền biển, đảo cho HS qua phần
LSDT và LSĐP ở trường THPT.
Đối với nghành giáo dục đề tài phù hợp với đối mới phương pháp dạy
học hiện nay ở trường THPT hiện nay, chuẩn bị những nền tảng cần thiết trong việc
thực hiện chương trình GDPT mới sắp tới.
3. Đề xuất, kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả giáo dục nội dung chủ quyền
biển, đảo cho HS trường THPT tỉnh Nghệ An nói riêng, cả nước nói chung, trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn đề tài, tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau đây:
Về việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa môn Lịch sử: Việc đưa nội dung về sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc; kiến thức về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đặc
biệt quan trọng và mang tính cấp thiết. Tuy nhiên, việc chỉnh lý sách giáo khoa
đòi hỏi cần phải có thời gian và sự nghiên cứu của các nhà giáo dục, chuyên
môn, các cấp ngành...Do đó, trước hết, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có công văn
hướng dẫn, phát hành tài liệu lưu hành nội bộ; và Bộ cần yêu cầu Vụ Giáo dục
trung học soạn thảo và ban hành bộ tài liệu hướng dẫn dạy học về chủ quyền biển,
đảo; Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần đầu tư xây dựng một trang mạng riêng nhằm
mục đích hỗ trợ dạy học lịch sử. Với quan điểm “chương trình là pháp lệnh” nên
cần có văn bản bổ sung thay đổi phân phối chương trình trong đó nêu cụ thể tiết
tăng thêm dạy học về biển, đảo hay hướng dẫn ngoại khóa về biển, đảo để giáo
viên có cơ sở pháp lý thực hiện, có thể đưa nội dung chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa,
Trường Sa vào các đề thi, đề kiểm tra cuối học kỳ, cuối năm. Để HS có ý thức học
tập và nâng cao nhận thức về lịch sử chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia nói
chung và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam nói riêng.
Về công tác tập huấn thường xuyên cho giáo viên: Cần đưa nội dung về chủ quyền biển, đảo quốc gia vào công tác tập huấn thường
xuyên cho GV. Điều này rất cần thiết cho GV trong việc cập nhật những kiến thức
mới về chuyên môn, đặc biệt là những kiến thức mới về nội dung biển, đảo của Việt
Nam để nâng cao kĩ năng, nghiệp vụ sư phạm. Bồi dưỡng cho giáo viên những kỹ năng vận dụng các phương
pháp dạy học mới, phù hợp với đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh hiện nay
như: cách thức sử dụng các phần mềm hỗ trợ dạy và học, kiểm tra đánh giá.
Với các trường
THPT: Nên thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại
khoá về vấn đề chủ quyền biển, đảo cho HS, nếu các trường trên đia bàn có biển, đảo tổ chức hướng dẫn HS tham quan, học tập thực địa
tại bảo tàng, nhà trưng bày, đặc biệt nếu có điều
kiện tổ chức cho HS tham quan thực tế. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp của
cơ quan các ban ngành có liên quan với các cấp lãnh đạo của Sở Giáo dục và Đào
tạo cùng nhà trường, có sự đầu tư về kinh phí để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho
HS học tập, tham quan ngoại khoá.
Về phía giáo viên: Giáo viên phải có lập trường kiên định, biết khai thác
những thông tin chính xác, kết hợp với các phương pháp sư phạm phù hợp tạo hiệu
quả cao trong giáo dục ý thức cho học sinh trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với
chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc. Giáo viên phải đóng vai trò chủ động phối hợp với
nhà trường, Đoàn thanh niên, giáo viên các môn học khác tổ chức các hoạt động học
tập trong giờ nội khóa và ngoại khóa để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử.
Đề tài “Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT” (chương
trình chuẩn) có
giá trị thực tiễn rất cao, nếu được nghiên cứu kỹ và áp dụng thì chắc chắn sẽ góp
phần to lớn trong việc thay đổi SGK và thực hiện chương trình GDPT mới trong những
năm tới.
Trên
đây là một số ý kiến của tôi về vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc vào dạy học môn LSVN ở Trường THPT. Với những lí do khách quan và chủ quan
khác nhau nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy tôi rất
mong được sự đóng góp ý kiến chân thành của hội đồng
khoa học, quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp cũng như những ai quan tâm đến vấn đề
này để đề tài của tôi có thể được hoàn thiện hơn nữa.
Xin chân thành cảm
ơn.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/