1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[6].
Để thực hiện được điều đó, các môn học, hoạt động
giáo dục trong nhà trường đều có ý nghĩa, vai trò nhất định. Trong đó, môn học
giáo dục công dân ở trường THCS có ý nghĩa rất quan trọng góp phần vào thực hiện
mục tiêu giáo dục. Môn học nhằm giáo dục cho học sinh các chuẩn mực đạo đức và
pháp luật của người công dân, phù hợp với lứa tuổi; trên cơ sở đó góp phần hình
thành những phẩm chất nhân cách của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, chuẩn bị cho học sinh đi vào
cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng kiến thức đã học áp dụng vào thực tế
là mục tiêu của môn học. Nhưng thực tế cho thấy phần lớn học sinh học giáo dục
công dân theo quan điểm bắt buộc phải học bởi nó là một môn học để tính điểm
trung bình các môn. Sau khi kiểm tra hứng thú môn học thì phần lớn học sinh
không hứng thú học môn học này do nhiều nguyên nhân như: nhận thức của học sinh,
phụ huynh học sinh, của một số giáo viên,… xem là môn học phụ, không cần thiết
cho tương lai, học đối phó để lấy điểm mà thôi. Vai trò của môn Giáo dục công
dân chưa được coi trọng đúng mức theo đúng tên gọi của nó: GIÁO DỤC CÔNG DÂN.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng phải
đứng trước những thách thức lớn. Đất nước đang trên đường đổi mới, nền kinh tế
thị trường đã tác đô ̣ng không nhỏ tới nhận thức của nhân dân. Đặc biệt, sự
tác động của chúng ảnh hưởng đến lối sống, đạo đức của một bộ phận không nhỏ
thế hệ trẻ của Việt Nam, nhất là các em học sinh.
Một thực tế hiện nay, có rất nhiều vụ án xảy ra
mà người phạm tội còn rất trẻ, trong đó có không ít những người còn đang ngồi
trên ghế nhà trường. Học sinh rơi vào tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, không
hiếu thảo với ông bà cha mẹ, không kính trọng thầy cô, các em mê games bỏ học…Từ
đó làm suy thoái những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.Vì vậy việc giáo dục
đạo đức con người điều rất cấp thiết để thúc đẩy sự hoàn thiện con người nói
riêng và đẩy nhanh sự phát triển của đất nước nói chung.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Bộ Chính trị đã phát động cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấ gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Mục đích của cuộc vận động là làm
cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị
to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người;
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng [3].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm
giáo dục thế hệ trẻ, nh giáo dục cho họ có “cái nền” đạo đức cách mạng để họ trở
thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đạo đức luôn là vấn đề được Người
quan tâm hàng đầu, Người luôn nhấn mạnh vai trò của đạo đức như từ ngàn xưa ông
cha ta vẫn luôn căn dặn: “ Tiên học lễ, hậu học văn”. Chính vì vậy, để cho
thanh niên nói chung và học sinh nói riêng thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh để học tập và làm theo Người, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa nội dung tích
hợp tư 2 tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giảng dạy ở một số môn trong trường phổ
thông, trong đó có môn Giáo dục công dân (GDCD).
Bản thân tôi là một giáo viên dạy GDCD, trước
yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học và đặc trưng bộ môn tôi nhận thức
được rằng: Bên cạnh việc dạy học kiến thức còn phải hết sức chú ý đến việc phát
triển kĩ năng cho học sinh, đặc biệt là kĩ năng thực hành, kĩ năng phát hiện và
ứng xử tích cực trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Tôi mạnh dạn lựa chọn nôi dung: “Tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở” làm đề
tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân
cách cho học sinh và hiê ̣u quả môn học.Trang bị cho học sinh những hiểu biết cần
thiết, cơ bản về đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó các em có nhận thức, thái độ
và hành vi tích cực theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Giáo dục ý thức quan tâm tới việc học tập, làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; làm cho việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh trở thành thói quen và nếp sống của học sinh.
Góp phần giáo dục cho học sinh trở thành người
công dân tốt, biết sống và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hình thành
nên những con người Viê ̣t Nam mới: phát triển cao về trí tuê ̣, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức và có trách nhiệm với đất
nước.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Học sinh các khối 6, 7, 8 và 9 ở trường THCS.
- Các bài học môn Giáo dục công dân trong trường
THCS có tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tuy nhiên, với đề tài này, tôi xin tích hợp
thông qua các bài dạy trong chương trình môn GDCD lớp 8 và lớp 9 về các chuẩn mực
đạo đức và pháp luật có những nội dung cần lồng ghép tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh hoặc những nội dung không có trong quy định nhưng có thể tiến hành lồng
ghép, giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp
chủ yếu là:
- Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết;
- So sánh đối chiếu;
- Điều tra khảo sát thực tế;
- Thu thập thông tin, thống kê...
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học
sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng
cơ bản nhằm hình 3 thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân [6].
Để hình thành và phát triển những con người như
vậy, nhà trường phải có chương trình, nội dung giáo dục phù hợp với yêu cầu của
đất nước, con người Việt Nam, phù hợp với thời đại. Yêu cầu khách quan đó được
quán triệt trong tất cả chương trình và nội dung học tập của toàn bộ các môn học
trong nhà trường. Từ năm học 1990 - 1991, chúng ta đã xác định môn GDCD là môn
khoa học xã hội trong nhà trường. Điều này nói lên vị trí quan trọng của môn
GDCD, cùng với các môn khoa học khác, nó góp phần đào tạo những người lao động
mới có tri thức khoa học; vừa có đạo đức, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn;
vừa có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm với cộng đồng;
vừa có trách nhiệm với gia đình và đối với chính bản thân mình. Không thể đào tạo
những con người lao động mới, phát triển toàn diện khi chỉ chú ý đến việc giáo
dục trí dục, mà bỏ qua hoặc xem nhẹ giáo dục các mặt khác. Hơn nữa, môn GDCD
không chỉ cung cấp cho những công dân tương lai những tri thức vừa khái quát
hóa, mà còn thông qua môn học giúp cho người học hình thành và phát triển kĩ
năng thực hành, phát hiện và ứng xử phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội loài người.
Cùng với các môn Ngữ văn, Lịch sử, …giáo dục đạo
đức cho học sinh qua tiết học GDCD là rất quan trọng. Vì GDCD là môn học sẽ
trang bị cho học sinh thế giới quan và phương pháp luận khoa học đúng đắn, định
hướng cho mọi hoạt động trong học tập cũng như trong cuộc sống; trang bị cho
các em những hiểu biết cần thiết và những kĩ năng sống cơ bản; hình thành những
thói quen, phẩm chất của một công dân tốt, có ích cho xã hội.
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là
tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người
Việt Nam học tập và noi theo.
Thực hiện Chỉ thị số 06/CT-TW, ngày 07 tháng 11
năm 2007 của Bộ chính trị về tổ chức thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo việc
tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy môn GDCD.
Là giáo viên dạy học môn GDCD, qua các năm giảng
dạy, tôi nhận thấy, việc lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong
các bài giảng là vô cùng cần thiết nhằm bồi dưỡng, nâng cao lí tưởng sống, lí
tưởng cách mạng, hình thành nhân cách, lối sống tốt đẹp cho học sinh.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” thực sự đã lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, có tác động rất
tích cực đến học sinh - sinh viên. Điều này được thể hiện qua việc học sinh có
điều kiện tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí
Minh nói chung và tư tưởng đạo đức của Người nói riêng thông qua việc tích hợp
tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số môn học, qua hoạt động ngoại khóa…đã có tác dụng
nhất định 4 trong việc nâng cao nhận thức về đạo đức nói chung và đạo đức Hồ
Chí Minh nói riêng.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, những biểu hiện
về suy thoái đạo đức cũng như tình trạng vi phạm pháp luật của một bộ phận
không nhỏ thế hệ trẻ, đã gióng lên hồi chuông báo động cho gia đình, nhà trường
và xã hội. Điều đáng nói là, ý thức đạo đức, pháp luật của học sinh ở những cấp
học càng cao càng có chiều hướng đi xuống.
Hiện nay, tình trạng đạo đức, lối sống của một
bộ phận giới trẻ có nhiều bất ổn, từ thái độ học tập, ý thức chấp hành nội quy,
kỷ luật của nhà trường, chấp hành pháp luật đến những hành vi tiêu cực trong học
tập, thi cử của học sinh và sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào học đường. Lối
sống buông thả của một bộ phận thanh thiếu niên không chỉ gây ra mối lo về sự
xuống cấp của đạo đức xã hội mà còn là mối nguy về sức khỏe và sự phát triển của
giống nòi. Với mặt trái của cơ chế thị trường, nhận thức về chính trị, đạo đức,
lối sống… của một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ Việt Nam bị tác động tiêu cực bởi
những gì họ tiếp nhận được. Do đó, nếu không có sự định hướng tích cực, kịp thời,
đúng mực thì những biểu hiện đó sẽ tác động tiêu cực đến nhận thức, lý tưởng,
tình cảm của thế hệ trẻ đối với đất nước, cộng đồng xã hội, gia đình.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn
chế trong việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp
tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Bộ Chính trị
đã ra chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 về đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục làm cho tư tưởng,
đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Bộ Chính trị chỉ đạo tiếp tục giảng dạy về tư tưởng, đạo đức,
tác phong Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đối với học sinh học về
đạo đức, phong cách Hồ chí Minh gắn với giáo dục công dân [4].
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất
tích cực đối với việc nâng cao lý tưởng và nhận thức của thế hệ trẻ hiện nay. Đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ giúp cho các bạn trẻ nâng cao thế giới
quan, nhân sinh quan mà còn có lý tưởng, nhận thức, lối sống phù hợp. Với học
sinh - những người đang hoàn thiện nhân cách, thì đạo đức Hồ Chí Minh là chuẩn
mực để các em học tập và noi theo. Do đó, việc tích hợp giáo dục tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn,
thuyết phục hơn trong nhà trường càng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng
Chương trình sách giáo khoa:
Chương trình sách giáo khoa vốn mang nặng tính
lí thuyết, chưa chú trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Do đó việc tiếp
thu bài học, ghi nhớ và khắc sâu kiến thức của học sinh gặp rất nhiều khó khăn.
Vì vậy, đa số học sinh cảm thấy không hứng thú với môn học này.
Về phía học sinh:
Do đây là môn học không nằm trong danh mục những
môn thi vào lớp 10. Vì vậy, phần đông học sinh ngại học hay nói đúng hơn là
không muốn học môn học này. Nếu có cũng chỉ là học mang tính đối phó, chiếu lệ.
Việc đầu tư thời gian cũng như trí tuệ cho môn học này còn quá ít so với các
môn cơ bản. Hệ quả là học sinh nhàm chán, không yêu thích bộ môn.
Về phía giáo viên:
Cũng xuất phát từ tâm lí môn giáo dục công dân
là môn không cơ bản, giáo viên không bị ràng buộc nhiều bởi chất lượng giáo dục.
Do đó, một số giáo viên ngại đầu tư thời gian, tâm huyết cho việc soạn giảng.
Giáo viên giảng dạy làm sao cho đảm bảo đi hết nội dung bài học, chứ chưa chú ý
đến chất lượng của bài dạy. Nhiều tiết dạy còn mang nặng phương pháp giảng dạy
truyền thống, chưa có sự đổi mới về phương pháp. Vì thế, chưa tạo được hứng
thú, say mê học tập ở học sinh. Nhiều em học môn GDCD khá, giỏi nhưng khi giáo
viên lấy vào đội tuyển học sinh giỏi thì các em không tham gia với lí do không
thích học môn học này.
Trong các nhà trường vẫn còn tồn tại ý thức coi
môn GDCD là môn học bổ trợ. Chính vì quan niệm đó nên một số trường vẫn còn bố
trí cho giáo viên dạy kiêm nhiệm cho đủ số tiết. Điều này đã dẫn đến tình trạng
giáo viên không đầu tư nhiều cho tiết dạy, trong quá trình giảng dạy giáo viên
còn sử dụng phương pháp truyền thống là chủ yếu. Học sinh chỉ tập trung trả lời
các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa nên đã tạo cho tiết học trở nên khô
khan, đơn điệu. Học sinh luôn thụ động nên trong giờ học, học sinh ít hoạt động.
Do đó chất lượng bộ môn chưa được cao.
Chính vì những lí do nêu trên, việc lồng ghép
giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong môn GDCD hiện nay là vô cùng cần
thiết, là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và của ngành giáo dục nước nhà.
Là một giáo viên trực tiếp dạy môn GDCD, trong
quá trình giảng dạy bằng sự tìm tòi học hỏi của bản thân, sự giúp đỡ của đồng
nghiệp và qua các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, tôi nhận thấy cần phải
có một phương pháp tối ưu, phù hợp với từng bộ môn. Muốn cho học sinh cảm thấy
thích và thấy thực sự cần phải học thì giáo viên ngoài việc tích cực đổi mới
phương pháp dạy học còn phải làm gương sáng cho học sinh noi theo, cần phải
tích hợp giáo dục đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong bài dạy để học sinh
tiếp thu, lĩnh hội kiến thức dễ dàng hơn. Từ đó các em sẽ dần yêu thích môn học
này. Giúp các em tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào
các giá trị chân, thiện, mỹ.
2.2.2. Kết quả của thực trạng
Từ thực tế đó nên trong nhiều năm nay việc học
GDCD ở trường THCS không quan tâm nhiều, không được coi trọng nhiều, học sinh
chưa tích cực tham 6 gia học. Để khắc phục tình trạng trên, tôi mạnh dạn áp dụng
sử dụng phương pháp học bằng việc “Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở ”.
Bắt đầu vào nghiên cứu đề tài, tôi tiến hành khảo
sát, điều tra ở trường sở tại, bản thân tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh có hứng
thú và yêu thích môn học này rất thấp.
Được phân công dạy giáo dục công dân khối 6, 7,
8, 9 năm học 2015 2016 và năm học 2016 - 2017 tôi đã cố gắng theo dõi, điều tra
thực tế từ đầu năm học thì cho thấy chất lượng học tập môn GDCD còn rất thấp.
Cụ thể qua điều tra về mức độ hứng thú học tập
của học sinh và thống kê kết quả đầu năm học 2016 - 2017 khi chưa tích hợp tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong môn giáo dục công dân như sau:
Kết quả khảo sát hứng
thú
Khối |
Sĩ số |
Mức độ hứng thú học tập |
|||||
Có |
Bình thường |
Không |
|||||
SL |
Tỉ lệ |
SL |
Tỉ lệ |
SL |
Tỉ lệ |
||
9 |
40 |
5 |
12,5% |
13 |
32,5% |
22 |
55,0% |
8 |
43 |
6 |
14,0% |
14 |
32,5% |
23 |
53,5% |
Kết
quả thi khảo sát chất lượng đầu năm
Khối |
Sĩ số |
Kết quả chất lượng đầu năm học 2015 - 2016 |
|||||||||
Giỏi |
Khá |
Trung bình |
Yếu |
Kém |
|||||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9 |
35 |
2 |
2,9 |
4 |
11,4 |
20 |
57,1 |
7 |
17,5 |
0 |
0 |
8 |
42 |
0 |
0 |
6 |
14,3 |
28 |
66,7 |
7 |
16,3 |
0 |
0 |
Khối |
Sĩ số |
Kết quả chất lượng đầu
năm học 2016 - 2017 |
|||||||||
Giỏi |
Khá |
Trung bình |
Yếu |
Kém |
|||||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9 |
40 |
2 |
5,0 |
5 |
12,5 |
26 |
65,0 |
7 |
17,5 |
0 |
0 |
8 |
43 |
2 |
4,7 |
5 |
11,6 |
29 |
67,4 |
7 |
16,3 |
0 |
0 |
2.3. Giải
pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Các giải pháp thực hiện
a. Xác định mục tiêu trong bài dạy có tích hợp
Đối với những bài dạy có nội dung lồng ghép,
giáo viên cần xác định đầy đủ, đúng mục tiêu cần đạt là gì? (kiến thức, kĩ
năng, thái độ) có như vậy thì trong suốt quá trình từ thiết kế bài dạy đến khi
thực hành trên lớp mới đảm bảo yêu cầu nội dung đề ra, bài dạy sẽ đi đúng hướng,
chất lượng tiết dạy sẽ được nâng cao.
b. Xác định mức độ tích hợp
Tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài dạy môn
GDCD là rất quan trọng. Nhưng tùy theo nội dung, đặc điểm và khả năng thực hiện
việc tích hợp giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của từng đơn vị bài học
để lựa chọn mức độ tích hợp thích hợp.
- Liên hệ ( mức độ thấp nhất): chỉ khai thác nội
dung bài học và liên hệ với kiến thức về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tích hợp bộ phận ( mức độ trung bình): chỉ một
phần của bài học lồng ghép hoạt động thực hiện nội dung giáo dục về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
- Tích hợp toàn phần ( mức độ cao nhất): cả một
bài có nội dung trùng khớp với nội dung giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Với những bài cần thiết tích hợp phải chọn đơn
vị kiến thức phù hợp với nội dung bài dạy, không áp đặt, phải có tác dụng giáo
dục cao, tránh sự nhàm chán, lặp đi lặp lại.
Trong điều kiện về thời gian, tôi chỉ trao đổi
được một vài kinh nghiệm khi thực hiện đưa nội dung tích hợp tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh vào các bài dạy của khối 8 và 9 về các chuẩn mực đạo đức và pháp luật
có những nội dung cần lồng ghép tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
c. Chuẩn bị
Trong bất cứ tình huống nào, bất cứ một vấn đề
nào nếu có đủ thông tin cần tìm hiểu thì chúng ta sẽ quyết định đúng đắn, chính
xác hơn, tác dụng giáo dục sẽ hiệu quả hơn. Cho nên phải chuẩn bị tốt các yêu cầu
cần thiết, từ thiết kế bài dạy, tư liệu cho đến việc sử dụng công nghệ thông
tin.
Về phía học sinh:
Việc chuẩn bị của học sinh là một hình thức
nghiên cứu trước bài mới, từ đó các em sẽ nắm bài mới có chất lượng.Các em tìm
những hình ảnh, tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và suy ngẫm về những hình ảnh
tìm được.
Về phía giáo viên:
Giáo viên không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, tích cực tìm hiểu tài liệu để tích lũy kiến thức, đặc biệt chịu
khó sưu tầm, tìm hiểu những mẩu chuyện, câu chuyện, những câu nói, bài thơ, đoạn
thơ về Bác, về cuộc đời, sự nghiệp, những đức tính quý báu của Người.
Tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Chủ động
dự giờ đồng nghiệp, đặc biệt những môn cũng có tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh trong môn học như: Ngữ văn, Lịch sử…
Cần có sự đầu tư ngay ở khâu soạn bài. Cái
“tâm” của người thầy thể hiện ngay ở sự chuẩn bị bài học. Một tiết học có thành
công hay không phụ huộc rất nhiều vào việc giáo viên soạn bài như thế nào. Tuy
nhiên, việc soạn bài luôn phải bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng mà Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành; bám vào văn bản mà Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn việc
tích hợp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở từng bài, từng phần.
Việc tổ chức trên lớp cần phát huy tính chủ động,
sáng tạo ở học sinh, tránh lối áp đặt. Việc đưa những câu chuyện, bài thơ về
Bác phải mềm mại, 8 tránh cứng nhắc, dập khuôn. Giáo viên phải biết khơi gợi
cho học sinh biết cách tự rút ra bài học kinh nghiệm và giáo viên là người cuối
cùng chốt lại vấn đề.
Để bài học thêm sinh động, giáo viên nên yêu cầu
học sinh về nhà chuẩn bị trước những câu chuyện, những bài thơ, đoạn thơ hoặc
câu nói của Bác có liên quan đến nội dung bài học. Như thế, học sinh được tự
mình tìm hiểu về Bác, tiết học lại thêm sinh động bởi kho tư liệu mà học sinh
sưu tầm được.
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện
Giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - tấm
gương thực hành đạo đức cách mạng cho học sinh trong dạy học Giáo dục công dân
cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Tấm gương trọn đời phấn đấu, hi sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và vì nhân
loại.
- Tấm gương của ý chí và nghị lực, tinh thần to
lớn vượt qua mọi khó khăn thử thách để đạt mực tiêu cách mạng.
- Tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của
nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
- Tấm gương của một con người nhân ái, vị tha,
khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người.
- Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Tùy
theo lứa tuổi học sinh, chất lượng học tập ở các khối lớp, điều kiện của giáo
viên (phương tiện, đồ dùng dạy học,...) mà các nội dung này được cung cấp cho học
sinh ở các mức độ khác nhau.
a. Tấm gương trọn đời phấn đấu, hi sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và vì nhân
loại.
Khi dạy bài 10, lớp 9: Lý tưởng sống của
thanh niên, để giáo dục tư tưởng: Suốt cuộc đời hoạt động của Bác là giải
phóng giai cấp, giải phóng loài người xây dựng một xã hội tốt đẹp không còn người
bóc lột người.
Tháng 7- 1920, Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất
luận cương về các dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Ngồi một mình trong phòng
Người sung sướng muốn phát khóc lên, Người nói một mình như đang nói với toàn
thể dân tộc “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta! Đây là con đường giải phóng cho chúng ta. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Như vậy từ một người
yêu nước chân chính Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con đường 9 cứu
nước đúng đắn đã giải phóng cho dân tộc ta khỏi ách áp bức, bóc lột của thực
dân, phong kiến.
Xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự chứng kiến nỗi
thống khổ của người dân lao động, nỗi nhục của người dân bị mất nước. Nguyễn Ái
Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc. Ước mơ giải phóng quê
hương gắn liền với nguyện vọng giải thoát người lao động; tình yêu nước thiết
tha đã hàm chứa tình yêu thương con người, yêu thương nhân dân, mở rộng ra là
tình yêu thương những con người lao động bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới.
Lòng yêu nước, yêu nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã hình thành tinh thần đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, lòng nhân ái.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút được sự ủng
hộ, cổ vũ nhiệt tình của bạn bè quốc tế, Người luôn giáo dục cán bộ, đảng viên,
nhân dân tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc. Chỉ
có tinh thần đoàn kết mới chiến thắng mọi kẻ thù. Người nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết,
Thành công, thành công,
đại thành công”
Khi dạy bài
7, lớp 9: Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bác Hồ
không những tiếp nhận truyền thống đạo đức của dân tộc như: yêu quê hương đất
nước, nhân ái, khoan dung, nhân nghĩa, cần cù lao động, giản dị, tiết kiệm,
liêm khiết, chí công vô tư, khiên tốn…. Mà còn phát huy truyền thống đó bằng
cách thực hiện tốt các giá trị đạo đức dân tộc nên đã trở thành tấm gương đạo đức
trong sáng, cao đẹp tỏa sáng để mọi người neo theo.
Cần cù và sáng tạo là bản chất của người Việt
Nam được Bác kế thừa và phát huy.
b. Tấm gương của ý chí và nghị lực, tinh thần
to lớn vượt qua mọi khó khăn thử thách để đạt mục tiêu cách mạng.
Khi dạy bài 10, lớp 8: Tự lập, để
giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm tìm con đường cứu nước
cho dân tộc. Giáo viên liên hệ câu chuyện Bác đi tìm đường cứu nước. Bác gặp và
quen anh Lê tại Sài GònGia Định. Lúc bấy giờ, muốn có người bạn đồng hành đi
tìm đường cứu nước. Bác nói: " Tôi muốn đi nước ngoài xem họ làm thế nào để
về giúp đồng bào ta". Khi Bác hỏi: " Anh có đi với tôi không?",
anh Lê hỏi: " Tiền đâu?". Bác đưa hai bàn tay trắng và nói: " Tiền
đây!". Anh Lê không nói gì. Thế là ngày hôm sau Bác bước chân xuống tàu
Latusơtơrêvin không thấy anh Lê đi cùng..."[2].
Thông qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng cứu
nước, học sinh càng biết ơn Bác đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
ta để có cuộc sống như ngày nay. Những câu chuyện, hình ảnh về Bác, đặc biệt là
những ngày nơi đất khách quê người, vừa lao động kiếm sống (có thể là cào tuyết
thuê), vừa tự học hỏi, tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tìm con đường cứu nước
cho cách mạng Việt Nam trong điều kiện cuộc sống hết sức khó khăn.
Khi ở Pháp, đêm lạnh, Bác dùng viên gạch nung
đỏ để dưới gầm giường sưởi ấm.
" Người
nhớ chăng gió rét thành Ba lê
Một viên gạch
hồng Bác chống lại cả mùa băng giá
Và sương mù
thành Luân Đôn người còn nhớ.
Giọt mồ hôi
Người nhỏ giữa đêm khuya".
Sự kiên trì rèn luyện của Bác cũng thể hiện qua
việc học ngoại ngữ, trong bộn bề của công việc, việc mưu sinh đã quá khó khăn rồi,
nhưng bác đã vượt qua tất cả. Ngoài các ngoại ngữ phổ biến như Pháp, Anh, Trung
Quốc, Ý, Đức, Nga, Bác Hồ của chúng ta còn có thể sử dụng thông thạo khá nhiều
ngoại ngữ khác.
Giáo
viên có thể giảng giải về đức hi sinh đã của cho Bác, từ lúc còn học thiếu lịch
niên cho đến khi trưởng thành Bác luôn học tập phấn sử, đấu không mết và mỏi
trên khoa học biết xã hội con đường tìm ra con đường cứu nước của dân tộc ngay
Việt Nam.
c. Tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của
nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Khi dạy Bài 16, lớp 9: Quyền tham gia quản
lí Nhà nước, quản lí xã hội của công dân, giáo viên có thể giới thiệu
những hình ảnh của Bác đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa, tham gia lao động sản
xuất, những hình ảnh không chỉ có tính giáo dục đối với các em mà còn đối với mỗi
chúng ta, đặc biệt là đối với những người làm công tác lãnh đạo lấy đó mà tự
soi vào mình, tự đánh giá mình đã phục vụ tốt nhân dân chưa?, hết lòng vì nhân
dân chưa?
Bác Hồ tát nước với
nông dân.
Khi dạy bài 20, lớp 8: Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giáo viên có thể kể chuyện: “Thế các
Chú có biết Văn phòng trung ương xây dựng chỗ nào thì tốt nhất không”
(Trích Kể chuyện Bác Hồ Sđd, T.3), giáo viên phân tích câu nói của Bác: “Xây ở
trong này, trong lòng nhân dân là tốt nhất!” từ đó giáo dục ý thức trách nhiệm
của người cán bộ trong việc phục vụ nhân dân, sự thành công đến từ công việc, từ
cái tâm chứ không phải từ nhà cao cửa lớn.
d. Tấm gương của một con người nhân ái, vị tha,
khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người.
Đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là lòng tin vào nhân dân. Vì vậy, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải
tận tuỵ phục vụ nhân 12 dân, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Lòng nhân ái của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
đặc trưng ở dung lượng mà còn hàm chứa sự kính trọng và lòng biết ơn, tình
nghĩa thuỷ chung, tinh thần đoàn kết sâu sắc. Lòng nhân ái, tình thương yêu của
Người đối với nhân dân dù bận trăm công nghìn việc Bác vẫn dành tình thương yêu
tha thiết cho các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Khi dạy bài 3: Tôn trọng người khác (lớp
8 ), giáo viên có thể kể chuyện: “Những vị khách tí hoan” (Trích Kể
chuyện Bác Hồ Sđd, T.4), sự quan tâm của Bác là không phân biệt tuổi tác, Bác
quan tâm và tôn trọng tất cả mọi người (dù đó là trẻ em), từ đó thấy được Bác
là tấm gương lớn về tấm lòng nhân hậu, hết mực yêu thương con người.
e. Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Khi dạy bài 1: Chí công vô tư (GDCD 9),
Giáo viên có thể phân tích: Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng tuyệt vời về
“Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”. Người sống thanh bạch, đem hết tinh
thần và nghị lực đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân
dân,…Sự gương mẫu của Người có sức mạnh cổ vũ mạnh mẽ cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân noi theo. GV có thể tổ chức cho HS thảo luận về tấm gương Chí công vô
tư của Bác Hồ. Giáo viên có thể nêu câu hỏi thảo luận cho cả lớp:
- Em có suy nghĩ gì về cuộc đời và sự nghiệp
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
- Điều đó có tác động như thế nào đến tình cảm
của nhân dân ta đối với Bác?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên kết luận:
Trong công việc, Bác Hồ luôn công bằng, không thiên vị, Bác luôn đặt lợi ích
chung của đất nước, của nhân dân lên trên lợi ích của bản thân. Bác đó dành trọn
đời mình cho quyền lợi của dân tộc, của đất nước và cho hạnh phúc của nhân dân.
Tình cảm của nhân dân ta đối với Bác : sự tin yêu, kính trọng, khâm phục, tự
hào và sự gắn bó và cũng gần gũi, thân thiết. Bác luôn đặt lợi ích chung của đất
nước của nhân dân lên trên lợi ích của bản thân.
Khi dạy bài 2, lớp 8: Liêm khiết
giáo viên phân tích : Đức tính khiêm tốn, giản dị, trung thực hoà vào cuộc sống
của Chủ tịch Hồ Chí Minh như ánh sáng mặt trời. Nó trở thành hình mẫu chân lí,
bản thân cuộc sống của Người đã thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, vào trái
tim mỗi người như một biểu tượng của lòng tự hào dân tộc, của sự biết ơn sâu sắc
đối với Người. Người là danh nhân văn hoá thế giới, là vị cha già kính yêu của
dân tộc, song trên ngực Người không có lấy một tấm huân chương, những ngôi sao
của các bậc đại tướng…Người khiêm tốn, sống giản dị như bao người dân Việt Nam
bình thường khác. Cả thế giới, cả dân tộc Việt Nam ai cũng quen với hình ảnh một
cụ già với bộ quần áo kaki, đôi dép cao su, chiếc mũ vải đã bạc màu. Người giản
dị trong cách ăn, mặc, ở và lời nói. Nhưng đằng sau của sự giản dị ấy là một
trái tim lớn chứa đựng tình yêu quê hương đất nước, yêu nhân dân sâu sắc.
Có nhiều hình thức lồng ghép khác nhau tuỳ vào
từng bài học cụ thể: Thông qua những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động
cách mạng của Người, các tác phẩm văn, thơ, các bài phát biểu, qua lá thư, di
chúc, các câu danh ngôn, lời nói, lời nhận định của Người, qua các bài hát, bức
tranh ảnh giúp giáo viên giới thiệu bài mới, dạy một mục bài học, phần củng cố
tiết học….
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình là
phương pháp tối ưu giúp người giáo viên dạy Giáo dục công dân mang đến cho học
sinh những giá trị đạo đức chân thật nhất và càng đúng hơn với trường hợp
nghiên cứu, tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dưới đây là một phần minh hoạ cho một bài dạy (
lớp 8 ) có tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh ( ở mức độ liên hệ)
Tiết 2- Bài 2: Liêm Khiết
A. Mục tiêu bài học:
1. Về kiến thức:
- Hiểu thế nào là liêm khiết.
- Nêu được
một số biểu hiện của liêm khiết.
- Hiểu được ý nghĩa của liêm khiết.
=> Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục
trong bài:
+ Kĩ năng xác định giá trị .
+ Kĩ năng phân tích, so sánh .
+ Kĩ năng tư duy phê phán.
* Tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh: Tấm
gương liêm khiết của Bác Hồ.
2. Về kĩ năng:
- Phân biệt được hành vi liêm khiết với tham
lam, làm giàu bất chính.
- Biết sống liêm khiết, không tham lam.
3. Về thái độ:
- Kính trọng những người sống liêm khiết; phê
phán những hành vi tham ô, tham nhũng.
B. Tài liệu và phương tiện:
- SGK, SGV GDCD 8.
- Chuẩn
kiến thức, kĩ năng môn GDCD.
- Chuyện, danh ngôn,... nói về liêm khiết.
- Những
tấm gương về sống liêm khiết.
C. Phương pháp:
- Nghiên cứu trường hợp điển hình.
- Động não.
- Thảo luận nhóm/ lớp...
D. Các hoạt động dạy học:
1. Kiểm tra bài cũ:
Tôn trọng lẽ phải là gì? Biểu hiện của tôn trọng
lẽ phải?
2. Bài mới:
- GV: Lấy câu nói của Bác Hồ dẫn dắt vào bài mới
"Trời
có bốn mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn
phương : Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn
đức : Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một
mùa không thành trời
Thiếu một
phương không thành đất
Thiếu một đức
không thành người.”
Vậy liêm khiết là gì? Liêm khiết nó biểu hiện
như thế nào? Vì sao cần phải sống liêm khiết? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài học
hôm nay.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Hoạt động của giáo viên |
Hoạt động của học sinh |
Hoạt động 1: Nghiên cứu trường hợp điển hình
về liêm khiết - GV: Tổ chức cho HS thảo luận nhóm + N1: Em xó suy nghĩ gì về cách cư xử của bà
Ma - ri - qui - ri? + N2: Em xó suy nghĩ gì về cách cư xử của
Dương Chấn? + N3: Qua nhận xét của nhà báo - GV: Nhận xét, bổ sung? Em rút ra bài học gì cho bản thân khi tìm hiểu
3 nhân vật trên? - GV: Theo em, trong điều kiện hiện nay, việc
học tập những tấm gương liêm khiết có cần thiết và còn phù hợp nữa không? - GV: Kết luận - GV: Em hiểu thế nào là liêm khiết? - GV: Kết luận và bổ sung Khi nói đến liêm khiết là nói đến sự trong
sáng trong đạo đức cá nhân của từng người, dù là người dân bình thường hay
cán bộ công chức. Từ xưa đến nay, chúng ta rất coi trọng những người liêm khiết. - GV: Liên hệ tấm gương liêm khiết của Bác Hồ. Bác Hồ là tấm gương liêm khiết để chúng ta học
tập và noi theo. Cả cuộc đời Bác luôn sống trong sạch; không hám danh, lợi;
không toan tính riêng tư cho bản thân: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn
đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân”, khước từ những ưu
đãi dành cho chủ tịch nước để chăm lo cho nhân dân, cho đất nước. Bác giản dị
trong cách ăn, mặc, ở và lời nói. “Bác mặc bộ quần áo ka-ki, đội mũ vải đã bạc
màu và đi đôi dép cao su bình dị, “Tôi nói đồng bào nghe rõ không? [2]. * Tích hợp giáo dục pháp luật: - GV: Theo em, thế nào là người sống liêm khiết?
- GV: Chốt lại ý kiến đúng và kết luận * Hoạt động 2: Tìm hiểu về những biểu hiện của
liêm khiết. - GV: Em hãy nêu những biểu hiện của liêm khiết
và những hành vi trái với liêm khiết trong cuộc sống? - GV: Ghi tất cả các ý kiến của HS của mình.
thành 2 cột và hướng dẫn chọn những ý đúng - GV: Kết luận Hoạt động 3: Thảo luận nhóm/ lớp - GV: Nêu câu hỏi để HS thảo luận thảo luận + Lối sống liêm khiết, sự giản dị của sống cảm
của nhân dân ta? + Vì sao cần phải sống liêm khiết? không bị
phụ thuộc vào người khác - GV: Kết luận Hoạt động 4: Liên hệ bản thân về phẩm chất
liêm khiết - GV: Yêu cầu HS suy nghĩ và kể về sống những
việc làm của bản thân thể hiện lối sống liêm khiết. - Trong khi HS liên hệ, GV cần gợi ý để HS
bày tỏ những suy nghĩ, cảm nhận mới sau khi học bài này. - GV: Nhận xét hoạt động của HS và kết luận |
1. Thế nào là liêm khiết? - HS: Đọc phần ĐVĐ trong SGK - HS: Các nhóm thảo luận, cử đại diện nhóm
trình bày, nhận xét 1/ Bà không vụ lợi, không tham lam. Sống có
trách nhiệm với gia đình và xã hội 2/ Thanh cao, vô tư, không hám lợi. 3/ Bác sống như những người Việt người Mĩ, em
thấy Bác là người như Nam bình thường. Là người sống thế nào? trong sạch và
liêm khiết. -> Tấm gương sáng để học tập, noi theo. => Dự kiến câu trả lời: Liêm khiết
là một phẩm chất đạo đức của con người, thể hiện lối sống trong sạch, không hám danh, hám lợi, không bận tâm về những toan
tính nhỏ nhen, ích kỉ. -> Người sống liêm khiết luôn chấp hành
đúng pháp luật về sử dụng tiền bạc, tài sản của Nhà nước và tập thể. 2. Biểu hiện của liêm khiết: - Không tham lam, không tham tiền bạc, tài sản
chung; không nhận hối lộ, không sử dụng tiền bạc, tài sản chung vào mục đích
cá nhân; không lợi dụng chức quyền để mưu lợi cho bản thân. + Làm giàu bằng tài năng và sức lực cảu mình. * Trái với sống liêm khiết: tham lam, vụ lợi, chỉ nghĩa đến lợi ích
của bản thân mà quên đi lợi ích của
người khác... + Lợi dụng chức quyền để nhận hối lộ. + Trốn thuế. + Ăn cắp, tham ô tài sản nhà nước... 3. Ý nghĩa của liêm khiết: về ý nghĩa của
liêm khiết - HS: Thảo luận và trình bày kết quả, thảo luận,
nhận xét, bổ sung => Dự kiến: Liêm khiết giúp con người sống
thanh thản, đàng hoàng, tự tin, không
bị phụ thuộc vào người khácvà được mọi người xung quanh kính trọng, vị nể. => HS: Liên hệ bản thân phẩm chất liêm khiết.
Ví dụ : Biết tự nổ lực học tập, không quay bài, không nhìn bài của bạn, trung
thực, không tham lam bất cứ thứ gì dù là nhỏ nhất. |
3. Củng cố:
- GV: Yêu cầu HS nhắc lại ý chính của bài.
- GV: Cho HS làm bài tập 1
- HS: Làm bài tập 1
+ Hành vi liêm khiết: a, c, đ
+ Hành vi không liêm khiết: b, d, e
4. Hoạt động nối tiếp:
- HS: Học bài và làm các bài tập còn lại.
- Xem trước bài 3: Tôn trọng người khác.
2.4. Kết quả đạt được
Bằng phương pháp lồng ghép ( tích hợp ) tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào giờ học, giáo viên đã đem đến cho các em, những hình ảnh
chân thực, những thước phim tư liệu quý giá, nhiều câu chuyện kể về tấm gương đạo
đức của Bác một cách sinh động, tình cảm, vừa góp phần làm nhẹ nhàng tiết học,
vừa giúp các em tiếp thu kiến thức, bài học đạo đức một cách tự nhiên, không gượng
ép.
Việc các em sưu tầm, thu thập những tư liệu,
câu chuyện kể về Bác có giá trị tinh thần rất lớn đối với các em, giúp việc
hình thành nhân cách, lối sống một 17 cách tích cực theo gương Bác, góp phần
làm cho cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được tiến
hành một cách thường xuyên, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi của học sinh trung học
cơ sở.
Có thể nói kết quả trong việc lồng ghép này
không thể cân đo đong đếm một cách cụ thể nhưng thông qua học tập các em đã có
ý thức rèn luyện đạo đức, dám nhận cái sai, dám nhìn thẳng sự thật. Qua kiểm
tra thường xuyên hầu hết học sinh hiểu bài, nắm chắc kiến thức, học sinh học
bài sôi nổi hơn, hứng thú hơn, đồng thời hiểu sâu sắc cuộc đời và sự nghiệp
cách mạng của Người, tôi tin chắc một điều không chỉ về phía học sinh mà ngay cả
bản thân giáo viên cũng thấy vui, hứng thú hơn trong quá trình lên lớp, từng bước
thấm nhuần đạo đức của Bác để từ đó có thể chúng ta sẽ làm theo một cách tự
giác.
Sau hơn hai năm thử nghiệm, điều tra năm học
2016 - 2017 cho kết quả khá khả quan. Tuy nhiên, đây là ban đầu, điểm số là một
vấn đề, nhưng sự hiểu bài và yêu thích môn học là cái hướng đến của bản thân
khi giảng dạy môn giáo dục công dân. .
Gửi phiếu điều tra học sinh của khối 8, 9 đầu
năm học 2016 - 2017 và cũng 2 khối trên vào cuối năm học thu được kết quả như
sau:
Kết quả khảo sát hứng
thú
Khối |
Sĩ số |
Mức độ hứng thú học tập |
|||||
Có |
Bình thường |
Không |
|||||
SL |
Tỉ lệ |
SL |
Tỉ lệ |
SL |
Tỉ lệ |
||
9 |
40 |
36 |
90% |
4 |
10% |
0 |
0% |
8 |
43 |
39 |
91% |
4 |
9% |
0 |
0% |
Khối |
Sĩ số |
Kết quả chất lượng đầu năm học 2016 - 2017 |
|||||||||
Giỏi |
Khá |
Trung bình |
Yếu |
Kém |
|||||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9 |
35 |
12 |
30,0 |
15 |
37,5 |
13 |
32,5 |
0 |
0 |
0 |
0 |
8 |
42 |
14 |
32,6 |
14 |
32,6 |
15 |
34,8 |
0 |
0 |
0 |
0 |
Đó là kết quả thu được với chất lượng đại trà.
Tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng đều qua các năm và tỉ lệ học sinh yếu, kém giảm
xuống. Không có học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình. Học sinh biết kính trọng
thầy cô, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè... Điều đáng mừng ở đây là việc bồi dưỡng học
sinh giỏi đã mang lại hiệu quả. Các em đã thích học và tình nguyện tham gia
vào đội tuyển học sinh giỏi. Năm học 2014- 2015, chỉ có 1 học sinh tham gia
thi. Nhưng đến năm học 20152016, có 3 em tham gia thi và đã đạt được 3 giải cao
cấp huyện. Năm học 20162017, đã có rất nhiều em đăng kí vào đội tuyển học sinh
giỏi môn GDCD, các 18 em đã nhận thức được việc học, tự giác tích cực trong học
tập, không phải là sự gượng ép như trước.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Bằng việc áp dụng phương pháp dạy học theo chủ
đề tích hợp tôi nhận thấy các tiết dạy của mình đã trở nên lôi cuốn, hấp dẫn học
sinh hơn rất nhiều, đã tạo ra không khí thi đua, tích cực học tập giữa các cá
nhân trong hầu hết các tiết học.
Việc tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào
bài dạy nhằm tạo sự hứng thú học tâ ̣p cho học sinh và nâng cao hiê ̣u quả dạy
học của người giáo viên. Nhưng viê ̣c tích hợp không được làm quá tải nô ̣i
dung bài học. Giáo viên cần lựa chọn nô ̣i dung, hình ảnh tích hợp cho phù hợp
với nô ̣i dung và thời lượng của từng mục, từng phần và nô ̣i dung từng bài học.
Khi tích hợp cũng cần đă ̣c biê ̣t chú ý tới việc
phát huy khả năng tìm tòi, liên hê, vâ ̣n dụng của mỗi học sinh. Giáo viên đóng
vai trò là người hướng dẫn và chốt lại vấn đề.
Các hình thức để giáo dục học sinh: Thông qua
những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người; các
tác phẩm văn, thơ; các bài phát biểu, qua lá thư, di chúc, các câu danh ngôn, lời
nói, lời nhận định của Người, qua các bài hát, bức tranh ảnh…
Đối với từng giáo viên trên bục giảng, việc
giáo dục truyền thống văn hóa đạo đức dân tộc. Đặc biệt tích hợp tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh vào các tiết giảng là điều cần thiết, không những tạo
sự lôi cuốn hấp dẫn trong tiết giảng mà nhằm tạo tấm gương lớn đạo đức của Bác
cho các em học tập noi theo. Biến lí luận thành thực tiễn, những câu chuyện về
Bác, những việc làm lúc sinh thời của Bác sẽ được các em học tập, làm theo
trong điều kiện hiện nay.
Từ thực tế đó đặt ra cho giáo viên giảng dạy
Giáo dục công dân trách nhiệm ngày càng lớn hơn. Người giáo viên không chỉ trau
dồi năng lực chuyên môn mà cả trong cuộc sống đời thường phải là những người thật
sự gương mẫu, có như vậy việc giáo dục lồng ghép tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong dạy học giáo dục công dân mới đạt hiệu quả cao nhất.
Sự nghiệp giáo dục đã có bước chuyển biến lớn
nói chung. Đối với trường THCS - ngôi trường tôi đang trực tiếp tham gia giảng
dạy, lãnh đạo nhà trường trong đó Chi bộ Đảng, Ban Giám hiệu, Công đoàn đã
nghiêm túc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và các Nghị quyết, Quyết định
của Sở Giáo dục và Đào tạo, thực hiện tốt hơn phương châm “Kỷ cương, tình
thương, trách nhiệm”. Đặc biệt, từ khi có Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày
15/5/2016, Chi bộ đã triển khai sâu rộng trong Hội đồng sư phạm nhà trường và
trong toàn trường " Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cụ
thể, Đoàn trường đã tổ chức Hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” tới học sinh toàn trường. Có thể nói, đây là điều kiện hết sức thuận lợi
cho giáo viên khi tích hợp tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ chí Minh vào các tiết
giảng. Học tập làm theo tấm gương của Bác trở thành phong trào lớn trong mọi hoạt
động nhà 19 trường, từ Chi bộ, đến Ban chấp hành Đoàn trường, Hội đồng giáo dục
nhà trường và toàn thể học sinh.
3.2. Kiến nghị
Dạy Giáo dục công dân là Dạy người. Quyết định
nhất đến chất lượng dạy học là đội ngũ các thầy, cô giáo. Do vậy người giáo
viên phải có chuyên môn vững vàng, phương pháp phù hợp, luôn trau dồi, ham học
hỏi và cập nhật thông tin cùng với tình thương yêu học sinh và tận tụy với nghề,
với phương châm "Tất cả vì học sinh thân yêu”.
Để công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học
sinh thông qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy
học môn Giáo dục công dân đạt kết quả cao. Tôi cũng có một vài đề xuất với Nhà
trường, Phòng giáo dục, các cơ quan quản lí giáo dục như sau:
+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên thực
hiện đổi mới phương pháp giảng dạy.
+ Có biện pháp quản lí, chỉ đạo đổi mới phương
pháp giảng dạy trong nhà trường một cách hiệu quả; thường xuyên tổ chức thực hiện,
kiểm tra đánh giá các hoạt động dạy và học theo định hướng đổi mới phương pháp
giảng dạy, đặc biệt là tổ chức các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học để
giáo viên học hỏi thêm về môn học.
+ Xây dựng chương trình chính thống và phân bố
thời lượng trong chương trình để việc đưa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào
trong nhà trường ngày càng tốt hơn, góp phần thực hiện thành công cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Trên đây là một số suy nghĩ và việc làm của tôi
trong quá trình thực hiện “Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học
môn GDCD”. Đó chỉ là việc làm của cá nhân, việc áp dụng còn phải tùy thuộc từng
giáo viên, từng điều kiện dạy và học cụ thể của từng trường. Tuy tôi nhận thấy
nó có nhiều ưu điểm nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Nên trong quá trình thực hiện tôi sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và tìm ra các
biện pháp mới để vấn đề ngày càng đi vào thực tiễn. Rất mong được sự đóng góp ý
của các cấp lãnh đạo, ý kiến trao đổi kinh nghiệm, sự quan tâm giúp đỡ của đồng
nghiệp để đem lại hiệu quả tốt nhất trong dạy và học môn giáo dục công dân.
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của
mình viết, không sao chép của người khác. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/