ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 8 HỌC KÌ II
PHẦN I: VĂN
BẢN:
A. VĂN BẢN
THƠ:
TT |
Tên văn bản |
Tác giả |
Thể loại |
Giá trị nội
dung |
Giá trị nghệ
thuật |
1 |
Nhớ rừng |
Thế Lữ 1907-1989 |
8 chữ/ câu |
Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để diễn tả
sâu sắc nỗi chán ghét thực tại, tầm thường tù túng và kha khát tự do mãnh
liệt của nhà thơ, khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thưở
ấy. |
Bút pháp lãng mạn rất truyền cảm, sự đổi mới câu thơ,
vần điệu, nhợp điệu, phép tương phản đối lập. Nghệ thuật tạo hình đặc săc. |
2 |
Quê hương |
Tế Hanh 1921 |
8 chữ/ câu |
Tình yêu quê hương trong sáng, thân thiết được thể hiện
qua bức tranh tươi sáng sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật
lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt làng
chài |
Lời thơ bình dị, hình ảnh thơ mộc mạc mà tinh tế lại
giàu ý nghĩa biểu trưng (cánh buồm, hồn làng, thân hình nồng thở vị xa xăm,
nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ) |
3 |
Khi con tu hú |
Tố Hữu 1920-2002 |
Lục bát |
Tình yêu cuộc sống và khát vọng tự do của người chiến
sĩ cách mạng trẻ tuổi trong nhà tù |
Giọng thơ da diết sôi nổi, tưởng tượng phong phú dồi
dào. |
4 |
Tức cảnh Pác Bó |
Hồ Chí Minh 1890-1969 |
Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật |
Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ
trong cuộc sống cách mạng và sống hoà hợp với thiên nhiên là một niềm vui
lớn. |
Giọng thơ hóm hỉnh, nụ cười vui (vẫn sẵn sàng, thật là
sang), từ láy miêu tả:chôngchênh;Vừa cổ điển vừa hiện đại. |
5 |
Ngắm trăng trích NKTT |
Hồ Chí Minh 1890-1969 |
Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật |
Tình yêu thiên nhiên, yêu trăng đến say mê và phong
thái ung dung nghệ sĩ của Bác Hồ ngay trong cảnh tù ngục cực khổ tối tăm |
Nhân hoá, điệp từ, câu hỏi tu từ, đối |
6 |
Đi đường (Tẩu lộ) trích NKTT |
Hồ Chí Minh 1890-1969 |
Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật(dịch lục bát) |
ý nghĩa tượng trưng và triết lí sâu sắc: Từ việc đi
đường núi gợi ra chân lí đường đời: Vượt qua gian lao chồng chất sẽ tới thắng
lợi vẻ vang |
Điệp từ (tẩu lộ, trùng san), tính đa nghĩa của hình
ảnh, câu thơ, bài thơ |
B. VĂN BẢN:
NGHỊ LUẬN
TT |
Tên văn bản |
Tác giả |
Thể loại |
Giá trị nội
dung, tư tưởng |
Giá trị nghệ
thuật |
Ghi chú |
||
1 |
Chiếu dời đô
(Thiên đô chiếu) 1010 |
Lí Công Uẩn
(Lí Thái Tổ: 974-1028) |
Chiếu Chữ
Hán Nghị luận trung đại |
Phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc
lập, thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang
trên đà lớn mạnh. |
Kết cấu chặt chẽ, lập luận giàu sức thuyết phục, hài
hoà giữa lí và tình: trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân |
Vua dùng để ban bố mệnh lệnh cho quan dân |
||
2 |
Hịch tướng
sĩ (Dụ chư tì tướng
hịch văn) 1285 |
Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn(1231- 1300) |
Hịch Chữ
Hán Nghị luận trung đại |
Tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc
kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược (TK XIII), thể hiện qua lòng
căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng, trên cơ sở đó tác giả phê phán
những suy nghĩ sai lệch của các tì tướng, khuyên bảo họ phải ra sức học tập
binh thư, rèn quân chuẩn bị chiến đấu chống giặc. Bừng bừng hào khí Đông A |
¸ng văn chính luận xuất sắc, lập luận chặt chẽ, lí lẽ
hùng hồn, đanh thép, nhiệt huyết, chứa chan, tình cảm thống thiết, rung động
lòng người sâu xa; đánh vào lòng người, lời hịch trở thành mệnh lệnh của
lương tâm, người nghe được sáng trí, sáng lòng |
Quan hệ thần- chủ vừa nghiêm khắc vừa bao dung, vừa tâm
sự vừa phê phán, vừa khuyên răn, khơi đậy lương tâm danh dự. |
||
3 |
Nước Đại
Việt ta (Trích Bình Ngô Đại cáo)1428 |
ức Trai Nguyễn
Trãi (1380-1442 |
Cáo Chữ Hán Nghị luận trung đại |
ý thức dân tộc và chủ quyền đã phát triển tới trình độ
cao, ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập: nước ta là đất nước có nền văn
hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền
thống lịch sử. Kẻ xâm lược phản nhân nghĩa, nhất định sẽ thất bại. |
Lập luận chặt chẽ , chứng cứ hùng hồn, xác thực, ý tứ
rõ ràng, sáng sủa và hàm súc, kết tinh cao độ tinh thần và ý thức dân tộc
trong thời kì lịch sử dân tộc thật sự lớn mạnh; đặt tiền đề, cơ sở lí luận
cho toàn bài; xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn |
Nguyễn TRãi thay lời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) viết để
công bố cho toàn dân biết sự kiện lịch sử trọng đại. |
||
4 |
Bàn luận về
phép học (Luận pháp học;1971) |
La Sơn Phu
Tử Nguyễn Thiếp 1723-1804 |
Tấu Chữ Hán Nghị luận trung đại |
Quan niệm tiến bộ của tác giả về mục đích và tác dụng
của việc học tập: Học để làm người có đạo đức, có tri thức góp phần làm hưng
thịnh đất nước. Muốn học tốt phải có phương pháp, phải theo điều học mà làm
(hành) |
Lập luận chặt chẽ,
luận cứ rõ ràng: sau khi phê phán những biểu hiện sai trái, lệch lạc
trongviệchọc, tác giả khẳng định quan điểm và phương pháp học tập đúng đắn. |
Tấu (khải, sớ): văn bản của quan, tướng, dân...viết đệ
trình lên vua chúa. |
||
5 |
Thuế máu (Trích chươngI, Bản án chế độ thực dân Pháp) 1925 |
Nguyễn ái Quốc 1890-1969 |
Phóng sự -
chính luận Nghị luận hiện đại Chữ Pháp |
Bộ mặt giả nhân giả nghĩa, thủ đoạn tàn bạo của chính
quyền thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa nghèo khổ làm bia
đỡ đạn trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn khốc (1914-1918) |
Tư liệu phong phú, xác thực, tính chiến đấu rất cao,
nghệ thuật trào phúng sắc sảo và hiện đại: mâu thuẫn trào phúng, giọng điệu
giễu nhại . |
Lần đầu tiên trên thế giới, chế độ thuộc địa bị kết án
một cách có hệ thống cụ thể và chính xác |
||
6 |
Đi bộ ngao
du (Trích Ê-min hay về giáo dục) 1762 |
J. Ru xô (1712-1778) |
Nghị luận
nước ngoài (Chữ Pháp) |
Đi bộ ngao du tốt hơn đi ngựa. Đi bộ ngao du ích lợi
nhiều mặt. Tác giả là một con người giản dị, rất quý trọng tự do và rất yêu thiên nhiên |
Lí lẽ và dẫn chứng được rút từ ngay kinh nghiệm và cuộc
sống của nhân vật, từ thực tiễn sinh động, thay đổi các đại từ nhân xưng một
cách linh hoạt sinh động. |
Nghị luận trong tiểu thuyết ; Thấy được bóng dáng tinh
thần tác giả. |
||
C. Bảng so
sánh phân biệt nghị luận trung đại và nghị luận hiện đại:
Nghị luận trung đại |
Nghị luận hiện đại |
- Văn sử triết bất phân - Khuôn vào những thể loại riêng: chiếu, hịch, cáo, tấu..với kết
cấu, bố cục riêng. - In đậm thế giới quan của con người trung đại: tư
tưởng mệnh trời, thần - chủ; tâm lí sùng cổ. - Dùng nhiều điển tích, điển cố, hình ảnh ước lệ, câu
văn biền ngẫu nhịp nhàng. |
- Không có những đặc điểm trên - Sử dụng trong nhiều thể loại văn xuôi hiện đại: Tiểu
thuyết luận đề, phóng sự- chính luận, tuyên ngôn.... - Cách viết giản dị, câu văn gắn lời nói thường, gắn
với đời sống thực. |
CÂU HỎI ÔN TẬP PHẦN VĂN BẢN:
Câu 1:Bài
thơ là lời của ai? Việc mượn lời như vậy có ý nghĩa gì?
Câu 2: Đoạn
3 của bài thơ được xem như một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy. Em hãy chứng
minh.
2-Ông đồ:
Câu 1: Hình ảnh ông đồ được thể hiện như thế nào trong bài thơ?
Câu 2: Phân
tích để là rõ cái hay trong những câu thơ sau:
-Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
-Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Câu 3: Em
có nhận xét gì về cách mở đầu và kết thúc bài thơ.
Câu 4:
Những câu thơ nào thể hiện nỗi niềm của tác giả?
3- Quê hương:
Bài thơ quê hương
là một bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng, giàu sức sống của một làng quê miền
biển. Em hãy chứng minh.
4- Khi con tu
hú:
Câu 1:Hoàn
cảnh sáng tác bài thơ là gì?
Câu 2: Cảnh
đất trời vào hè trong tâm tưởng người tù cách mạng được thể hiện qua những câu thơ nào? Cảm nhận của em về
những câu thơ đó.
Câu 3: Phân
tích tâm trạng của người tù cách mạng.
5- Chùm thơ
của Hồ Chí Minh:
Câu 1: Tình
yêu thiên nhiên của Bác trong các bài thơ đã học ở chương trình NV 8.
Câu 2: Cái
“sang” của cuộc đời cách mạng trong bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”.
Câu 3: Bài
học của em từ bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh.
6- Chiếu dời
đô:
Câu 1: Hãy
nêu đặc điểm của thể Chiếu
Câu 2: Vì sao
nói văn bản "Chiếu dời đô" phản ánh ý chí tự
cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc?
7- Hịch tướng sỹ:
Câu 1: Hãy
nêu đặc điểm của thể Hịch
Câu 2: Nỗi
lòng của người chủ tướng được thể hiện đoạn văn nào? Em hãy phân tích đoạn văn
đó.
8- Nước Đại Việt ta:
Câu 1: Tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện như thế nào trong đoạn trích?
Câu 2: Vì
sao nói đây là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc?
9- Bàn luận về phép học:
* Tác giả bàn như thế nào về
cách học?
10- Thuế máu:
Câu 1: Em hãy hình dung ra số phận bi thảm của
những người bị bóc lột ''thuế máu'' theo trình tự miêu tả của tác giả.
Câu 2: Em hãy tìm hiểu tấm lòng của tác giả qua đoạn
trích ?
MỘT SỐ GỢI Ý:
A-Phần I: Văn học:
1- Nhớ rừng:
Câu 1: Là lời con hổ trong vườn bách thú. Tác giả mượn
lời như vậy để tiện nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc tâm sự y uất của một lớp
người lúc bấy giờ. Đó là những thanh niên trí thức “tây học” vừa thức tỉnh ý
thức cá nhân, cảm thấy bất hoà sâu sắc với thực tại xã hội tù túng giả dối,
ngột ngạt đương thời. Họ khao khát cái tôi được khẳng định và phát triển trong
cuộc sống rộng lớn tự do. Nhưng đó cũng là tâm sự chung của người Việt Nam
trong cảnh mất nước lúc bấy giờ.
2- Ông đồ:
Câu 1: Gợi ý: Hình ảnh ông đồ hiện lên trong bài thơ
trong không gian: “Bên phố” và thời gian
: Mỗi năm hoa đào nở, mỗi năm mỗi vắng, năm nay.... Với hai thời kỳ khác nhau:
Thời xưa và thời hiện tại. Phân tích để thấy được hình ảnh ông đồ có sự đối lập
ở hai thời điểm lhác nhau.
Câu 3: Kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ, làm nổi
bật chủ đề. Khổ thơ có cái tứ “cảnh cũ người đâu” thường gặp trong thơ xưa, đầy
gợi cảm. Sau mấy cái tết ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng không được ai để ý thì đến
năm nay đào lại nở nhưng ông đồ hoàn toàn vắng bóng.
Câu 4: Hai câu thơ cuối là lời tự vấn, là nỗi niềm thương
tiếc khắc khoải của nhà thơ trước việc vắng bóng ông đồ xưa.. Nhà thơ bâng
khuâng xót xa nghĩ tới những người muôn năm cũ không bao giờ còn thấy nữa. Câu
hỏi không có trả lời, gieo vào lòng
người đọc những cảm thương tiếc nuối không dứt.
3- Quê hương:
Bài thơ quê hương là một bức tranh mang vẻ
đẹp tươi sáng, giàu sức sống của một làng quê miền biển. Em hãy chứng minh.
4- Khi con tu
hú:
Câu 1: Sáng tác vào tháng 7- 1939 tại nhà lao Thừa phủ
Huế khi tác giả bị bắt giam vào đây chưa lâu. Trước đó ở lứa tuổi 18, TH cảm
thấy sung sướng vô biên vì bắt gặp lý tưởng cộng sản, đang tự do say mê hoạt
động cách mạng thì bị bắt.
Câu 2: 6 câu thơ đầu mở ra cả một thế giới rộn ràng, tràn
trề nhựa sống. Nhiều hình ảnh mùa hè được đưa vào bài thơ: tiếng ve ran trong
vườn râm, lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với cánh diều
chao lượn, trái cây đượm ngọt...tiéng chim tu hú đã thức dậy mở ra tất cả và
bắt nhịp cho tất cả: mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương
vị, bầu trời khoáng đạt tự do...trong cảm nhận của người tù. Qua đó ta thấy
được sức cảm nhận mãnh liệt, tinh tế của một tâm hồn trẻ trung, yêu đời nhưng
đang mất tự do và khao khát tự do đến cháy lòng.
Câu 3: Đó là tâm trạng đau khổ uất ức, ngột ngạt được nhà
thơ bộc lộ trực tiếp. Đoạn thơ với cách ngắt nhịp bất thường...dùng những từ
ngữ mạnh, từ ngỡ cảm thán...
5- Chùm thơ của
Hồ Chí Minh:
Câu 2:
-- Sang -> sang trọng, giầu có, cao quý đẹp đẽ ; còn
là cảm giác hài lòng, vui thích).
-> Cũng có phần là cách nói khoa trương, khẩu khí, nói
cho vui như trong thơ truyền thống. Nhưng niềm vui của Bác là rất thật, chân
thành, không hề gượng gạo.
- Niềm vui lớn nhất của Bác không phải chỉ là thú lâm
tuyền như người ẩn sĩ xưa mà là niềm vui của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại sau
30 năm xa cách nay được trở về sống giữa lòng đất nước, trực tiếp lãnh đạo cách
mạng…
Câu 3: Bài học của em từ bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí
Minh.
Câu 3: - Điệp ngữ
''tẩu lộ'' khẳng định nỗi gian lao của người đi đường. Giọng thơ suy ngẫm, rút
ra qua những trải nghiệm của người tù bị giải đi hết nhà lao này đến
nhà lao khác.
- Trùng san chi ngoại hựu trùng
san
+ Điệp ngữ ''trùng san''; hết
lớp núi này lại đến ngay lớp núi khác, khó khăn chồng chất liên miên
Đường đời, đường CM:
gian lao triền miên.
- Hình tượng ý thơ vút lên bất
ngờ lan chuyển mạch thơ: Mọi gian lao đã kết thúc, lùi lại phía sau khi người
đi lên tới đỉnh cao chót. Nỗi gian lao không phải là bất tận, càng nhiều gian
lao thì thắng lợi càng lớn.
- Từ đỉnh cao, người du khách
ung dung say xưa ngắm cảnh đẹp. Đó cũng là niềm vui sướng đặc biệt của người
chiến sĩ CM khi đứng trên đỉnh cao thắng lợi.
- Bài thơ thiên về suy nghĩ,
triết lí nhưng giọng thơ giống người tâm tình, kể chuyện giàu sức thuyết phục.
Lời thơ cô đọng, bình dị chứa đựng tư tưởng sâu xa.
- Bài thơ có 2 lớp nghĩa: nghĩa
đen nói về việc đi đường núi, nghĩa bóng ngụ ý về con đường CM là gian khổ nếu
kiên trì nhất định sẽ đạt tới thắng lợi.
6- Chiếu dời
đô:
Câu 2: ý chí tự cường của một dân tộc đang trên đà
lớn mạnh. Dời đô từ Hoa Lư ra vùng đồng băng chứng tỏ triều đình đủ sức chấm dứt
nạn PK cát cứ, thế và lực sánh ngang phương Bắc. Định đô ở Thăng Long là thực
hiện nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn về một mối, xây dựng đất nước độc
lập tự cường.
7- Hịch tướng sỹ:
Câu 2: “Ta thường tới bữa....
ta cũng vui lòng”
-Ta thường: +quên ăn...vỗ gối,
Ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìaẩn dụ, so sánhThể hiện sự lo lắng đau xót đến tột độ.
-Căm
tức +xả thịt, lột da, Nuốt gan, uống máuđộng từ mạnhlòng căm thù tột độ.
- Dẫu cho trăm thân này ... vui
lòng. phóng đại, điển
cố Sẵn sàng hi sinh vì nước, vì nghĩa lớn mà coi thường xương
tan, thịt nát.
Giọng văn tha thiết, đanh thép, hùng hồn.
Lòng yêu nước thiết tha của tác giả.
Khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần xả thân của các tướng sỹ
* Có thể nói đây
là đoạn văn đậm chất trữ tình trong bài chính luận. Mỗi chữ mỗi dòng trong đoạn
văn như máu chảy như nước mắt. Đó là gan ruột, là tấc lòng, là tâm huyết của vị
tổng chỉ huy đang bày tỏ tâm sự. Chính tâm sự ấy đã tiếp thêm sức mạnh, hun đúc
thêm tinh thần của các tướng sỹ.
8- Nước Đại Việt ta:
Câu 1:- Hai nội dung: Yên dân
và điếu phạt.
+ Yên dân: là làm cho dân được
hưởng thái bình hạnh phúc.
+ Điếu phạt: thương dân đánh kẻ
có tội.
- Người dân mà mà tác giả nói
tới là người dân Đại Việt đang bị xâm lược, còn kẻ bạo tàn chính là giặc Minh
cướp nước.
trừ giặc Minh bạo
ngược để giữ yên cuộc sống cho dân.
- Nhân nghĩa theo quan niệm
trước đó (nho giáo) là quan hệ giữa người với người giờ đây nhân nghĩa gắn liền
với yêu nước chống xâm lược, thể hiện trong mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Đó là nét mới, là sự phát triển của tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi.
- Đây là cuộc khởi nghĩa chính
nghĩa
- Nguyễn Trãi, Lê Lợi là người
thương dân, tiến bộ, lấy dân làm gốc, vì dân mà đánh giặc.
Câu 2: - Nhân nghĩa gắn liền
với chủ quyền dân tộc, vì có bảo vệ được đất nước thì mới bảo vệ được dân, mới
thực hiện được mục đích cao cả là ''Yên dân''
- Nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ,
phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng ''Núi sông ...''; ''phong
tục''; ''Từ Triệu ... ''; ''Cửa ...''
Nguyễn Trãi đã phát
biểu một cách hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc.
* đất nước có độc lập, chủ
quyền là có nền văn hiến, có lãnh thổ, phong tục, lịch sử, chế độ riêng. Đó là
những yếu tố căn bản nhất của một quốc gia, dân tộc.
Nguyễn Trãi đã ý thức
được văn hiến và truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác
định dân tộc. Đó là thực tế, tồn tại với chân lí khách quan khi kẻ xâm lược
luôn tìm cách phủ định.
* So với thời Lí, quan niệm về
quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi có sự kế thừa và phát triển cao hơn bởi tính
toàn diện và sâu sắc của nó.
9- Bàn luận về phép học:
* Tác giả khẳng định quan điểm
và phương pháp đúng đắn trong học tập.
- Tuỳ đâu tiện đấy mà đi học.
+ Học ở trường lớp, ở thày, ở
bạn, ở thực tế cuộc sống ''Đi một ngày đàng ... ''; ''Học thày ... ''
- Theo Chu Tử, học tiểu học để
bồi lấy gốc rồi tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử, phải biết luân
thường đạo lí: tam cương, ngũ thường.
- Học lấy gốc rồi rồi tuần tự tiến
lên, học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.
+ Truyền thống hiếu học của
nhân dân ta ''muốn sang ...''; ''bán tự vi sư ...''; nội dung học ''tiên học lễ
...'' học đạo đức trước và tri thức sau.
+ Bác Hồ ''người có tài ... vô
dụng''
+ Nhà nước ta: chính sách
khuyến học, mở nhiều trường lớp, mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện
thuận lợi cho người đi học (trường dân lập, bán công, công lập, ...)
- Tác giả xem thường lối học
chuộng hình thức, lấy mục đích danh vọng cá nhân là chính; coi trọng lối học
lấy mục đích thành người tốt đẹp.
- Đó là thái độ đúng đắn và
tích cực, cần phát huy.
10- Thuế máu:
Câu 1:
Em hãy hình dung ra số phận bi thảm của những người bị bóc lột
''thuế máu'' theo trình tự miêu tả của tác giả.
Câu 2:- Tác giả đã vạch trần sự
thật bằng những tư liệu phong phú, với tấm lòng của một người yêu nước, 1 người
cộng sản, tác giả đã khách quan trong từng sự việc nhưng ta vẫn thấy trong các
câu văn ứ trào căm hờn, chứa chan lòng thương cảm tất cả làm thành mục
đích chiến đấu mãnh liệt của văn chương Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
PHẦN II: TIẾNG VIỆT:
I. CÂU:
TT |
Câu |
Đặc điểm
hình thức |
Chức năng
chính |
Ví dụ |
1 |
Câu nghi vấn |
- Có những từ nghi vấn (ai, gì, nào, sao, tại sao, đâu,
bao giờ, bao nhiêu ...hoặc từ hay (nối các vế có quan hệ lựa chọn - Kết thúc câu bằng dấu hỏi chấm (?). Ngoài ra còn kết
thúc bằng dấu chấm, dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng. |
- Dùng để hỏi - Ngoài ra còn dùng để đe doạ, yêu cầu, ra lệnh, bộc lộ
tình cảm cảm xúc... |
- Mai cậu có phải đi lao động không? - Cậu chuyển giùm quyển sách này tới H được khong? |
2 |
Câu cầu khiến |
- có từ cầu khiến: hãy, đừng, chớ,đi, thôi, nào...hay
ngữ điệu cầu khiến - Kết thúc bằng dấu chấm than - ý cầu khiến không mạnh kết thúc bằng dấu chấm. |
- Dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo.... |
- Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương. - Ra ngoài! |
3 |
Câu cảm thán |
- Có từ ngữ cảm thán: ôi, than ôi, hỡi ôi, biết bao,
xiết bao, biết chừng nào... - Kết thúc bằng dấu chấm than |
- Dùng để bộc lộ cảm xúc trực tiếp của người nói (viết)
xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ nói hàng ngày hay ngôn ngữ văn chương. |
- Than ôi! Thời oanhliệt nay còn đâu? |
4 |
Câu trần thuật |
- Không có đặc điểm hình thứccủa các kiêu câu nghi vấn,
cảm thán.... - Kết thúc bằng dấu chấm đôi khi kết thúc bằng dấu
chấm, hoặc dấu chấm lửng |
- Dùng để kể, thông báo nhận định, miêu tả.... - Ngoài ra còn dùng để yêu cầu, đề nghị, bộc lộ tình
cảm, cảm xúc... - Là kiểu câu cơ bản và được dùng phổ biến trong giao
tiếp. |
- Trời đang mưa. - Quyển sách đẹp quá! Tớ cảm ơn bạn! Cảm ơn bạn! |
5 |
Câu phủ định |
- Có từ ngữ phủ định: Không, chẳng, chả, chưa... |
- Thông báo, xác nhận không có sự vật, sự việc, tính
chất, quan hệ nào đó -> Câu phủ định miêu tả. - Phản bác một ý kiến, một nhận định-> Câu phủ định
bác bỏ. |
- Tôi không đi chơi. - Tôi chưa đi chơi. - Tôi chẳng đi chơi. - Đâu có! Nó là của tôi. |
II. HÀNH ĐỘNG
NÓI:
Hành động nói |
Các kiểu hành động nói |
Cách thực hiện hành động nói |
- Là hành động được thực hiện bằng lời nói nhằm một mục
đích nhất định |
- Hành động hỏi. - Hành động trình bày (báo tin, kể, tả, nêu ý kiến, dự
đoán...) - Hành động điều khiển (cầu khiến, đedoạ, thách
thức...) - Hành động hứa hẹn. - Hành động bộc
lộ cảm xúc. |
- Thực hiện hành động nói trực tiếp: Vd: - Đưa cho tôi cái bút. - thực hiện hành động nói gián tiếp. Vd: Bạn có thể đưa giùm tôi cái bút này cho A được
không? |
III. HỘI
THOẠI:
1. Khái niệm:
- Vai xã hội là vị trí của người tham gia hội thoại đối
với người khác trong cuộc hội thoại.
+ Quan hệ trên dưới hay ngang hàng (theo tuổi tác, thứ bậc
trong gia đình và xã hội)
+ Quan hệ thân - sơ ( theo mức độ quen biết, thân tình)
* Khi tham gia hội thoại mỗi người cần xác định đúng vai
để chọn cách nói cho phù hợp
2 Lượt lời
trong hội thoại:
- Trong hội thoại ai cũng được nói. Mỗi người tham gia
hội thoại nói được gọi là một lượt lời.
- Để giữ lịch sự cần tôn trọng lượt lời của người khác,
tránh nói tranh lượt lời, cắt lời hoặc chêm vào lời người khác.
- Nhiều khi, im lặng khi đến lượt lời của mình cũng là
một cách biểu thị thái độ.
IV. LỰA CHỌN
TRẬT TỰ TỪ TRONG CÂU:
1. Khái niệm:
Trong một câu có
thểcó nhiều cách sắp xếp trật tự từ, mỗi cách đem lại hiệu quả diễn đạt riêng
2. Tác dụng:
- Thể hiện thứ tự nhất định của sự vật hiện tượng, hoạt
động, đặc điểm....
- Nhấn mạnh, hình ảnh, đặc điểm của sự vật hiện tượng.
- Liên kết câu với những câu khác trong văn bản.
- Bảo đảm sự hài hoà về ngữ âm của lời nói.
PHẦN III: TẬP
LÀM VĂN:
A. VĂN THUYẾT
MINH:* HS ôn kĩ các dạng đề sau:
- Viết đoạn văn giới thiệu tập "Nhật kí trong
tù" của HCM.
- Bài văn thuyết minh một phương pháp (cách làm)
- Bài văn thuyết minh về di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh
B. VĂN NGHỊ
LUẬN:
I. LÍ THUYẾT:
- Hs : ôn kĩ + Luận điểm+ Luận cứ+ Lập luận+ Cách đưa các
yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn NL.
II. CÁC DẠNG
ĐỀ ỨNG DỤNG:
Đề 1: Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ,
hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lí
Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn.
Đề 2: Từ bài Bàn luận về phép học của La Sơn Phu Tử
Nguyễn Thiếp, hãy nêu suy nghĩ về mối quan hệ giữa "học" với 'hành'.
Đề 3: Câu nói của M. Go - rơ- ki: " Hãy yêu sách, nó
là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thứcmới là con đường sống" gợi cho em
những suy nghĩ gì?
Đề 4: Tuổi trẻ và tương lai đất nước.
Đề 5: Văn học và tình thương
Đề 6: Hãy nói "không" với các tệ nạn:
Đề 7: Vấn đề thu gom rác thải xử lí rác thải ở địa phương
em.
Đề 8: Hãy viết một bài báo tường để khuyên
các bạn trong lớp cần phải học tập chăm chỉ hơn.
Đề 9: Chứng minh tình yêu thiên nhiên, đất nước của Hồ Chí Minh thông qua bài
Cảnh khuya, Tố Hữu - Khi con tu hú, Tế Hanh- Quê hương.
Đề 10: Hãy trình bày rõ vì sao chúng ta cần phải đổi mới phương pháp học tập.
Đề 11: Giáo dục là chìa khoá của tương lai.
III. Một số ví dụ về dàn ý:
ĐỀ 6
1. Mở bài:
- Trong cuộc sống, bên cạnh nhiều nề nếp, thói quen tốt còn không ít thói quen
xấu và tệ nạn có hại cho con người, xã hội.
- Những thói xấu có sức quyến rũ ghê gớm như cờ bạc, thuốc lá hoặc ma túy, sách
xấu, băng đĩa có nội dung độc hại...
- Nếu không tự chủ được mình, dần dần con người sẽ bị nó ràng buộc, chi phối,
dần dần biến chất, tha hóa.
- Chúng ta hãy kiên quyết nói "Không!" với các tệ nạn xã hội.
2. Thân bài:
a) Tại sao phải nói "không!"
* Cờ bạc, thuốc lá, ma túy... là thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội gây ra
tác hại ghê gớm đối với bản thân, gia đình và xã hội về nhiều mặt: tư tưởng,
đạo đức, sức khỏe, kinh tế, nòi giống...
- Tệ nạn xã hội là mối nguy trước mắt và lâu dài của đất nước, dân tộc.
* Sự ràng buộc, chi phối ghê gớm của thói hư tật xấu:
- Do bạn bè xâu rủ rê hoặc tò mò thử cho biết. Sau một vài lần không có thì bồn
chồn, khó chịu. Dần dần dẫn tới nghiện ngập. Không có thuốc cơ thể sẽ bị hành
hạ, mọi suy nghĩ và hành động đều bị cơn nghiện chi phối. Để thỏa mãn, người ta
có thể làm mọi thứ, kể cả giết người, trộm cắp...Một khi đã nhiễm thì rất khó
từ bỏ, nó sẽ hành hạ và làm cho con người điêu đứng.
- Thói hư tật xấu là bạn đồng hành của chủ nghĩa cá nhân ích kỉ.
b) Tác hại của cờ bạc, ma túy, sách xấu sẽ dẫn đến thoái hóa đạo đức, nhân cách
con người.
* Cờ bạc:
- Đó cũng là một loại ma túy, ai đã sa chân thì không thể bỏ.
- Trò đỏ đen, may rủi kích thích máu cay cú, hiếu thắng.
- Mất nhiều thời gian, sức khoẻ, tiền bạc và sự nghiệp.
- Ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách và hạnh phúc gia đình, an ninh trật tự xã
hội.
- Hành vi cờ bạc bị luật pháp cấm và tùy theo mức độ vi phạm mà có mức xử lí
khác nhau.
* Thuốc lá:
- Là sát thủ giấu mặt với sức khỏe con người.
- Khói thuốc có thể gây ra nhiều bệnh: ung thư phổi, ung thư vòm họng, tai biến
tim mạch...
- Khói thuốc không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân mà còn ảnh hưởng tới
những người xung quanh.
- Tiêu tốn tiền bạc, làm giảm thu nhập gia đình, ảnh hưởng đến kinh tế quốc
dân.
Trên thế giới, nhiều nước đã cấm quảng
cáo thuốc lá, cấm hút thuốc ở công sở và chỗ đông người.
* Ma túy:
- Thuốc phiện, hêrôin là chất kích thích gây nghiện rất nhanh. Người dùng thuốc
sẽ rơi vào trạng thái ảo giác, hoang tưởng. Nghiện ma túy nghĩa là tự mang án
tử hình.
- Khi mắc nghiện, vỏ não bị tổn thương rất lớn, sức khỏe suy kiệt nhanh chóng.
- Đối với người nghiện ma túy thì tiền bạc bao nhiêu cũng không đủ.
- Nghiện ma túy cũng đồng nghĩa với việc mất hết danh dự, đạo đức, tình yêu,
hạnh phúc, gia đình, sự nghiệp...
* Văn hóa phẩm độc hại:
- Khi tiếp xúc với loại này, con người sẽ bị ám ảnh bởi những hành vi không
lành mạnh, có những ham muốn phi đạo đức, sa vào lối sống ích kỉ, bản năng, mất
hết khả năng phấn đấu, sống không mục đích.
- Nếu làm theo những điều bậy bạ sẽ dẫn đến sự thay đổi đạo đức, nhân cách, ảnh
hưởng đến uy tín bản thân và gia đình, có thể sẽ dẫn tới vi phạm pháp luật.
3. Kết bài:*Chúng ta cần:- Tránh xa những thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội
- Khi đã lỡ mắc thì phải có quyết tâm từ bỏ và làm lại cuộc đời
- Xây dựng cho mình và tuyên truyền cho mọi người lối sống lành mạnh.
NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TAI NẠN GIAO THÔNG
I. Mở bài :
- Đặt vấn đề : trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề tai nạn giao thông đang là
điểm nóng thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận bởi mức độ thiệt hại mà vấn đề
này gây ra.
- Nhận thức: tuổi trẻ học đường – những công dân tương lai của đất nước – cũng
phải có những suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
II. Thân bài :
1. Thực trạng tai nạn giao thông ở Việt nam hiện nay:
+ Đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên cả nước, 33 -34 người chết và bị thương
/ 1 ngày
+ Trong số đó, có không ít các bạn học sinh, sinh viên là nạn nhân hoặc là thủ
phạm gây ra các vụ tai nạn giao thông.
2. Hậu quả của vấn đề:
+ Thiệt hại lớn về người và của, để lại những thương tật vĩnh viễn cho các cá
nhân và hậu quả nặng nề cho cả cộng đồng.
+ Gây đau đớn, mất mát, thương tâm cho người thân, xã hội.
3. Nguyên nhân của vấn đề :
+ Ý thức tham gia giao thông của người dân còn hạn chế, thiếu hiểu biết và
không chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông (lạng lách, đánh võng, vượt đèn
đỏ, coi thường việc đội mũ bảo hiểm. . .)
+ Thiếu hiểu biết về các quy định an toàn giao thông (lấy trộm ốc vít đường ray,
chiếm dụng đường . . .)
+ Sự hạn chế về cơ sở vật chất (chất lượng đường thấp, xe cộ không đảm bảo an
toàn...)
+ Đáng tiếc rằng, góp phần gây ra nhiều tai nạn giao thông, còn có những bạn
học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường.
4. Hành động của tuổi trẻ học đường góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông:
+ Tham gia học tập luật giao thông đường bộ ở trường lớp. Ngoài ra, bản thân
mỗi người phải tìm hiểu, nắm vững thêm các luật lệ và quy định đảm bảo an toàn
giao thông.
+ Chấp hành nghiêm chỉnh quy định về an toàn giao thông: không lạng lách, đánh
võng trên đường đi, không đi xe máy khi chưa có bằng lái, không vượt đèn đỏ, đi
đúng phần đường, dừng đỗ đúng quy định, khi rẽ ngang hoặc dừng phải quan sát
cẩn thận và có tín hiệu báo hiệu cho người sau biết, đi chậm và quan sát cẩn
thận khi qua ngã tư...
+ Đi bộ sang đường đúng quy định, tham gia giúp đỡ người già yếu, người tàn tật
và trẻ em qua đường đúng quy định.
+ Tuyên truyền luật giao thông: trao đổi với người thân trong gia đình, tham
gia các hoạt động tuyên truyền xung kích về an toàn giao thông để góp phần phổ
biến luật giao thông đến tất cả mọi người, tham gia các đội thanh niên tình
nguyện đảm bảo an toàn giao thông...
III. Kết bài :
- An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi người mỗi gia đình và toàn xã hội.
- Tuổi trẻ học đường với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ
tiên phong trong nhiều lĩnh vực, có sức khoẻ, có tri thức... cần có những suy
nghĩ đúng đắn và gương mẫu thực hiện những giải pháp thiết thực để góp phần
giảm thiểu tai nạn giao thông. . .
*Môi
trường và rác thải:
Ngày nay, trên thế giới, môi trường là vấn đề được quan tâm hàng đầu . Ở các
quốc gia tiên tiến , vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường rất được chú trọng nên
việc xả rác và nước thải bừa bãi hầu như không còn nữa. Người dân được giáo dục
rất kỹ về ý thức bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp. Đáng buồn thay, ở
nước ta, hiện tượng vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng , không giữ gìn
vệ sinh đường phố rất phổ biến. Việc làm này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường mà cụ thể ở đây là gây ô nhiễm môi trường. Chúng ta hãy cùng tìm
hiểu về hiện tượng này.
Hiện tượng không giữ gìn vệ sinh đường phố có
rất nhiều biểu hiện nhưng phổ biến nhất là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng
. Ăn xong một que kem hay một chiếc kẹo , người ta vứt que, vứt giấy xuống đất
. Uống xong một lon nước ngọt hay một chai nước suối , vứt lon , vứt chai ngay
tại chỗ vừa ngồi mặc dù thùng rác để cách đó rất gần. Thậm chí khi ăn xong một
tép kẹo cao su, họ cũng không mang đến thùng rác mà vo tròn rồi trét lên ghế đá
và cứ thế bỏ đi chỗ khác. Công viên, nơi được xem là có bầu không khí trong lành,
sạch đẹp, giúp con người thư giản, hay chùa chiền, vốn là nơi tôn nghiêm cũng
không tránh khỏi hiện tượng này. Bến tàu, nhà ga, kênh rạch đâu đâu cũng có
rác. Một biểu hiện phổ biến khác là một số tài xế chở gạch,đá phế thải ở các
công trinh xây dựng đem đổ khắp nơi và cả trên dưới phố. Con người ta còn vô ý
thức đến mức mang xác súc vật chết như chó, mèo, chuột, gia cầm như gà, vịt ném
xuống hồ ,ao, sông rạch và ra đường. Ở một số hàng, quán bán trên vỉa hè người
ta đổ tất cả đồ ăn dư thừa, nước rửa chén, bát xuống cống khiến cho nước thải
bị ứ đọng ,cống bị tắt nghẽn. Thế nhưng hiện tượng xả rác đó còn lan sâu vào
một tầng lớp trí thức trẻ ngày nay. Biểu hiện cụ thể ở một số sinh viên làm gia
sư. Họ thường đứng ở các ngã ba, ngã tư đường để phát tờ rơi quảng cáo nhóm gia
sư của mình một cách bừa bãi khiến khắp đường phố rải rác đầy những tờ rơi.
Trong lớp học, sân học, học sinh cũng ngang nhiên xả rác ở hộc bàn, góc lớp,
hành lang,... Nguy hiểm hơn cả là tình trạng bệnh viện chôn rác xuồng lòng đất
ngay bên cạnh khu dân cư, hay mới đây là vụ nhà máy bột ngọt Vedan đã thải nước
xuống dòng sông Thị Vải mấy chục năm biến dòng sông thành dòng sông chết.
Vậy do đâu mà hiện tượng xả rác bừa bãi lại
tràn làn như vậy? nguyên nhân Đầu tiên là do những thói quen xấu lười biếng và
lối sống lạc hậu ích kỷ chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của một số người . Họ
sống theo kiểu
“Của mình thì giữ bo bo
Của người thì thả cho bò nó ăn ”
Họ nghĩ đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch là
được còn bẩn thì ai bẩn mặc ai . Những nơi công cộng không phải là của mình ,
vậy thì việc gì mà phải mất công gìn giữ. Cứ ném rác vội ra là xong, đã có đội
vệ sinh lo dọn dẹp. Cách nghĩ như thế thật là thiểu cận và nguy hại làm sao.
Nguyên nhân tiếp theo là do thói quen đã có từ lâu, khó sửa đổi, phải có sự
nhắc nhở thì người ta mới không xả rác bừa bãi. Ở các lớp học, hằng ngày, các
thầy cô và ban cán sự lớp phải thường xuyên nhắc nhở thì mới giữ cho lớp học
sạch đẹp. Nhưng xã hội là một phạm vị rộng lớn hơn lớp học rất nhiều. Mọi người
đều bận rộn với công việc của mình và không một ai có đủ thời gian để đi nhắc
nhở từng người một . Không được nhắc nhở , con người ta lại quay về với thói
quen trước kia . Việc giáo dục ý thức giữ gìn , bảo vệ môi trường sống chưa
được quan tâm đúng mức , chưa được tổ chức thường xuyên . Mặc dù trên các
phương tiện thông tin đại chúng vẫn có những chương trình kêu gọi ý thức bảo vệ
môi trường của con người nhưng chúng quá ít ỏi , không đáp ứng được nhu cầu tìm
hiểu và học hòi của người dân . Do đó mà trình độ hiểu biết của người dân còn
thấp dẫn đến thái độ tuân thủ nội quy nơi công cộng chưa đi vào nề nếp. Một
phần là do sự quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ, kém
hiệu quả, …chưa có hình thức xử lý nghiêm khắc những cá nhân, đơn vị, công ty
vi phạm, hay nói cách khác là biết mà làm ngơ. Cứ thử phạt thật nặng một người
nào đó xả rác ra đường phố làm gương, thì còn ai dám xả rác nữa.
Với tình hình vứt rác bừa bãi hiện nay, thì
những hậu quả kéo theo nó cũng không phải nhỏ. Trước tiên là gây ảnh hưởng đến
sức khỏe của người dân. Rác bị xả bừa bãi liên tục, ngày càng nhiều nếu không
được thu dọn sẽ bốc mùi, gây ô nhiễm môi trường không khí. Nguồn nước bị ô
nhiễm nặng do dân cư ven các con sông thải chất thải sinh hoạt xuống sông, tệ
hại hơn, họ còn ném xác gia cầm bị H5N1 xuống sông. Người dân chẳng may sử dụng
phải nguồn nước nay, hay sống gần những bải rác sẽ dễ mắc các bệnh về đường
ruột, bệnh ngoài da, ệnh đau mắt hột…Đặc biệt gần đây ở nước ta có nhiều người
tử vong vì bị tiêu chảy cấp do nhiễm khuẩn tả từ nước bị ô nhiễm. Về vấn đề kinh
tế mà nói, ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất là ngành nuôi trồng thủy sản. Do môi
trường sinh thái bị ô nhiễm, cá tôm chết nhiều hoặc bị bệnh tác hại nghiêm
trọng đến sản lượng, kinh tế người dân và tốn kém nhiều tiền bạc trong việc cải
tạo môi trường. Rác trong lớp học, sân trường, nếu không thu dọn kịp thời sẽ
bốc mùi hôi thối khó chịu, ảnh hưởng đến sức khỏe và sự tiếp thu bài của học
sinh, sự truyền đạt kiến thức của giáo viên và còn làm ảnh hưởng đến vẻ đẹp của
ngôi trường. Và độc hại hơn cả, là rác thải y tế với những mầm bệnh ung thư,
nước nhiễm chì, nhiễm bẩn. Rác tồn đọng, ứ lại trên các kênh rạch, cống rãnh
gây nên ngập lụt vào mùa mưa gây ảnh hưởng đến đời ống của người dân, nhà nước,
địa phương phải tốn thêm một khoản chi phí không nhỏ để thuê nhân công thu dọn,
nạo vét, khai thông cống rãnh, ao hồ, kênh rạch. Và một thiệt thòi đối với nước
ta nếu hiện tượng xả rác còn tràn lan là sẽ để lại ấn tượng không tốt đẹp cho
khách du lịch. Thử hỏi còn ai dám đến tham quan một đất nước đầy rác ngoài phố,
mùi hôi khó chịu, mất vệ sinh!!? Lúc ấy, chúng ta sẽ mất một nguồn lợi khá lớn
về du lịch.
Vậy làm thế nào để giảm thiểu được hiện tượng
xả rác này. Nhà trường phối hợp với các ban ngành thướng xuyên nhắc nhở, tuyên
truyền, kiểm tra ý thức tự giác của mọi người về việc giữ gìn vệ sinh. Nên có
những hình thức khiển trách đúng mức đối với những học sinh có thói quen vứt
rác bừa bãi. Đối với người dân vi phạm thì họp tổ dân phố kiểm điểm. Còn công
ty . Tốt nhất là các Cty nào vi phạm thì
thẳng tay phạt nặng, rút giấy phép hoạt động
cơ quan nhà nước cần đưa ra những bộ luật thật cụ thể về vấn đề xâm hại
môi trường.
Hành vi xả rác nơi công cộng đang là vấn đề
đau đầu của các cơ quan chức năng bởi mức hiệt hại của nó đối với XH, Bảo vệ môi trường là bảo vệ sự sống của mọi
người, vì vậy mỗi người chúng ta cần có ý thức, góp phần chung tay xây dựng một
môi trường xanh-sạch-đẹp
Đề
bài 3: Chứng minh lòng yêu nước, thương dân của các vị vua, chủ tướng thông
qua: “Thiên đô chiếu” (“Chiếu dời đô” - Lý Công Uẩn); “Hịch tướng sĩ” (Trần
Quốc Tuấn); “Hịch tướng sĩ” (Nguyễn Trãi).
Bài
làm mẫu
Khi
nhắc đến cảm hứng chủ đạo trong những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại từ
thế kỉ XV thì ta không thể không nhắc đến cảm hứng yêu nước. Trải qua những
trang sử dài lâu, vẻ vang, “tuy từng lúc mạnh yếu khác nhau”, nhưng vẫn luôn
hiện hữu niềm tin tự hào trong mỗi người dân Việt Nam về những con người mang
đậm “tình yêu nước, nghĩa thương dân”. Trong số đó, ta không thể không nhắc đến
những vị anh hùng như Lý Công Uẩn trong “Chiếu dời đô”, Trần Quốc Tuấn trong
“Hịch tướng sĩ” và Nguyễn Trãi trong “Nước Đại Việt ta”.
Đọc
ba áng văn chương kiệt tác này, ta mới cảm nhận được tấm lòng sâu sắc của những
con người luôn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nước, cho dân. Đối với họ, nỗi niềm
đất nước là nỗi niềm trăn trở, canh cánh không nguôi. Chính khát vọng độc lập
và khí phách Đại Việt đã làm nên vẻ đẹp “thần hiếm” trong các vị vua, chủ tướng
này.
Buổi
đầu, mới giành được độc lập, đất nước ta còn chưa cường thịnh. Trong mấy chục
năm mà đã thay đổi trị vì đến ba vương triều. Các triều đại Đinh, Tiền Lê số
phận ngắn ngủi thực là đau xót! Có lẽ, sự suy vong của các triều đại như “tiếng
chuông cảnh báo” cho giang sơn, bờ cõi Đại Việt. Làm thế nào để Đại Việt phát
triển thành một quốc gia phồn thịnh? Đó là nguồn vọng của một vị hoàng đề và
cũng là ý muốn của muôn dân trăm họ. Ý nguyện của dân chúng là đã thôi thúc hoàng
đế Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư về Đại La.
Kinh
đô là trung tâm chính trị, hành chính, là điểm tụ của quốc gia. Khi dời kinh đô
đi nơi khác, người đứng đầu cuộc “hành trình” phải có những hiểu biết sâu rộng
về địa hình, có cẻ sự nhạy bén và can đảm để đi đến quyết định cuối cùng. Qua
đó, ta thấy rõ được tài năng “xuất chúng” của Lý Công Uẩn - vị vua anh minh và
tài giỏi. Ông nắm giữ được tình hình, thời vận của đất nước, ông muốn mọi thứ
dưới quyền hành của mình phải thực sự tốt đẹp - dân ấm no, nước hưng thịnh.
Chính vì vậy, Người quyết định dời đo - một quyết định không có gì trái với
luân lí, trái với quy luật tự nhiên cả. Muốn vậy, việc dời đô là phải tìm một
nơi “trung tâm của đất trời”, địa thế “rồng cuộn hổ ngồi” - và ông đã chọn Đại La.
“Đại La là nơi trung tâm của đất trời, mở ra bốn hướng Nam - Bắc, Đông - Tây;
có núi lại có sông, đất rộng mà bằng phẳng, cao mà thoáng, tránh được nạn lụt
lội, còn là kinh đô cũ của Cao Vương, muôn vật tốt tươi, xem khắt Đại Việt cỉ
có nơi đây là thắng địa”. Nhìn sâu vào khát vọng của vị vua anh minh này, chúng
ta mới thực sự cảm nhận được tình yêu mãnh liệt hằn ẩn trong con người ông. Lý
Công Uẩn chính là một trong những con người bước lên và đã có công khiến cho
“con thuyền “ Đại Việt băng băng lướt sóng trên con đường xấy dựng và phát
triển đất nươc.
Nếu
lòng yêu nước, thương dân của Lý Công Uẩn đã được bộc lộ trong “Chiếu dời đô”
với nguyện vọng đất nước phồn thịnh muôn đời thì với Trần Quốc Tuấn - một vị
chủ tướng tài ba đã chứng minh lòng yêu nước của mình qua lòng căm thù giặc sâu
sắc và ý niệm sẵn sàng hi sinh vì đất nước qua tác phẩm “Hịch tướng sĩ”.
Là
một chủ tướng có lòng yêu nước hào hùng, ông không thể “mặt lấp tai ngơ” trước
những hành động bạo tàn của kẻ thù, ông căm thù chúng làm ông không tiếc những
lời cay xé để lên án hành động như “nghênh ngang đi lại ngoài đường” như một
đất nước không vua, “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” hay “vơ vét vàng
bạc, ngọc lụa để vung đầy túi tham của chúng”. Từ lòng căm thì giặc, ta lại
càng cảm thương cho vị chủ tướng khi quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến “tim gan
thắt ruột”, “nước mắt đầu đìa” vì uất ức chưa trả được mối thù nợ nước. Từ đó,
tấm lòng xả thân vì nước, nguyện hi sinh “trăm thân” cho quê hương làm nổi bật
hẳn một vị anh hùng đáng cảm phục. Có lẽ vi thế, ông đã nghiêm khắc thức tỉnh
các tướng sĩ đang sống trongc ảnh “xa hoa”, sung sướng. Ông muốn họ thực sự
kiên quyết chống giặc đồng thwoif cũng muốn đất nước, hưng thịnh đến muôn đời.
Qua đó, ta mới hiểu rõ tấm lòng cao cả, anh minh, yêu nước, thương dẫn của cị
tướng Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn.
Đối
với “Chiếu dời đô” đã toát lên niềm tự hào cao độ về bản lĩnh, khí phách của
Đại Việt, còn “Hịch tướng sĩ” lại khẳng định một nền độc lập - tự do bền vững.
Còn đối với Nguyễn Trãi trong “Nước Đại Việt ta” lại khác, lòng yêu nước,
thương dân, khát vọng tự do đã được đúc kết thành chân lí ôm ấp trong trái tim
người dân đất Việt.
Bài
cáo của Nguyễn Trãi như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai mang ý nghĩa lịch sử của
cả một đất nước, thể hiện ý thức tự chủ, quyền dân tộc. Tư tưởng nhân - nghĩa
vốn là khái niệm đạo đức của Nho Giáo, được hiểu là “lòng thương người chính là
việc cần làm”. “Yên dân” là làm cho dân được hưởng thái bình những muốn “yên
dân” thì phải đi đôi với việc “trừ bạo”. Có bảo vệ được dân thì mới thực hiện
được mục đích “yên dân”. Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của một
đất nước, đồng thời khơi gợi cho chúng ta một niềm tự hào dân tộc cao cả. Chân
lí của Nguyễn Trãi như sức mạnh trong tâm hồn yêu nước, thương dân có trong
trái tim mãnh liệt của ông. Điều đó như tiềm thức khắc sâu trong tim mỗi độc
giả chúng ta:
“... Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã
chia
Phong tục Bắc - Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý,
Trần bao đời gây nên độc lập
....
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa
Đô
Sông Bạch đằng giết
tươi Ô Mã ...”
Ra
đời trong hào khí chiến thắng, cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn, cả ba áng văn
thiên cổ hùng văn đã khẳng định quyền và tính độc lập dân tộc. Đồng thời, thấy
rõ những phẩm chất ằn hẩn chứa trong các vị vua, vị chủ tướng nghiêm khắc mà có
trái tim nồng ấm.
Kết
quả của sự lãnh đạo anh minh của các vị “tướng tài, vua giỏi” Lý Công Uẩn, Trần
Quốc Tuần, Nguyễn Trãi là niềm tin vững chắc về một tương lai tốt đẹp của nhân
dân ta từ xưa đến nay. Một lần nữa, khúc khải hoàn kia lại khẳng định cao hơn,
chi tiết hơn tầm quan trọng cả họ vô cùng to lớn đến giang sơn đất nước. Những
vị ấy đã cố gắng giữ gìn và gây dựng đất nước thì con cháu chúng ta lại càng
phải cùng nhau gây dựng và bảo vệ đất
nước vững mạnh hơn.
Đề
bài 4: Có ý kiến cho
rằng: Văn học luôn ca ngợi tình yêu thương giữa người và người.
Bằng những tác phẩm đã học trong
chương trình Ngữ Văn 8, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Bài làm mẫu
Từ
xa xưa, con người đã biết phản ánh tâm tư, tình cảm của mình qua văn học truyền
miệng hay trên những tấm tre, mảnh giấy.
Văn học đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Nó là
sợi dây liên kết vô hình khiến con người “xích” lại gần nhau hơn. Văn học giúp
con người sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, biết sống bằng sự chia sẻ, cảm
thông. Vì thế, ngay từ khi sinh ra, khi được truyền hơi thở ấm áp của bà, của
mẹ qua những câu hát ru thì ta đã cảm nhận được rằng: “Văn học luôn ca ngợi
tình yêu thương giữa người và người”.
Văn
học là một bộ môn Nghệ thuận quan trọng trong cuộc sống tinh thần mỗi con
người. Là công cụ để bày tỏ cảm xúc hay tình cảm của mình bằng ngôn ngữ, giúp
con người thể hiện rõ từng khung bậc cảm xúc của mình. Những tác phẩm văn học
được làm nên từ chất liệu cuộc sống, thể hiện rõ tình cảm của cuộc sống hiện
thực. Vì thế, văn học còn là chiếc chìa khóa vàng mở ra lâu đài nhân ái và tình
thương, hướng chúng ta đến “chân - thiện - mĩ”. Tình yêu thương con người làm
nên sự hấp dẫn của văn chương, ngược lại, văn chương có nhiệm vụ bồi đắp tình
yêu thương giữa người với người.
Nhà
phê bình văn học Nguyễn Văn Siêu đã từng nói: “Văn chương có loại đáng thờ và
loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chuyên chú đến con người. Còn loại
không đáng thờ chỉ chuyên chú ở văn chương”. Thật vậy, “văn học là nhân học”
(Maksim Gorky), nó dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con người, “làm thay
đổi cả một thế giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự công bình, làm người gần
người hơn” (Thạch Lam). Tóm lại, nó bieeuyr hiện cho tất cả những gì gọi là
tình cảm nhân loại, sự xót xa, đồng cảm hay lòng nhân ái, mang cái dư vị của
cuộc sống thực tại.
Trong
văn học chân chính - thứ được gọi là “loại văn chương đáng thờ” kia được chia
ra làm nhiều cung bậc cảm xúc. Nó bộc lộ sự thương cảm xót xa, sâu sắc đối với
những mảnh đời, thân phận bất hạnh, vẻ đẹp nhân cách con người, ... Nhưng nổi
bật trong đó vẫn là tình cảm gia đình, làng xóm ; tình yêu thiên nhận, quê
hương, đất nước hay sự đồng cảm, xót xa trước mảnh đời đau xót.
Tiên
phong đi đầu vẫn là tình cảm gia đình, làng xóm. Tình mẫu tử, phụ tử là cao quý
hơn cả. Ta vẫn còn nhớ mãi hình ảnh người mẹ nhân hậu, âu yếm đưa con đến
trường qua tác phẩm “Tôi đi học” (Thanh Tịnh), đã cho ta thấy sự hồn nhiên,
ngây thơ của người con và tình yêu thương con hết mực của người mẹ. Và rồi hình
ảnh cậu bé Hồng trong hồi kí “Những ngày thơ ấu” (Nguyên Hồng” thì sao? Hoàn
cảnh đáng thương của gia đình bé Hồng những xen lẫn vào đó là niềm khao khát
cháy bỏng, dữ dội. Dường như, thứ tình cảm cao quý ấy cứ “gắn chặt” với nhau,
như thứ keo rắn chắc, không thế nào gỡ bỏ được. Cũng gần như vậy, tình phụ tử
thiêng liêng của lão Hạc trong tác phẩm cùng tên cũng được thể hiện rõ. Nam Cao
đã nhìn thấu rõ trái tim nồng ấm mà lão Hạc dành tặng cho con, hi sinh vì con
để giữ đạo làm cha. Hay tình cảm vợ chồng chị Dậu thì sao? Chị luôn ân cần,
chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ chồng truuwocs bọn quan lại gian trá.
Hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ đã được thể hiện qua ngòi bút của Ngô Tất Tố.
Tóm lại, văn học đã làm nên một thứ tình cảm thiêng liêng qua nét vẽ tài tình
của các nhà văn. Nó đã làm sáng tỏ thế nào là “thứ khí giới thangh tao” của văn
chương. Nhà thơ Chế Lan Viên đã có câu thơ về tình cảm gia đình rất hay đã phần
nào khẳng định được điều đó:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”
Hay:
“Thuận vợ thuận
chồng tát biển đông cũng cạn”
Không
chỉ trong gia đình mà ngay cả giữ những con người không có máu mủ, những văn
học vẫn đề cập đến, đó là tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa người với
người trong xã hội. Và trong văn học truyền miệng đã có câu:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tùy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”
Dân
gian đã đề cao con người, mượn đề tài “bầu - bí” để nhắc nhở chúng ta về mối quan
hệ trong xã hội. Cũng như bà lão hàng xóm cạnh gia đình chị Dậu, đã “ái ngại”
mạng bát gạo sang giúp đỡ gia đình chị trong hoàn cảnh khó khăn. Hay nhân vật
ông Giáo - hàng xóm lão Hạc - là tầng lớp tri thức nghèo nhưng lại mang một
trái tim đồng cảm vô bờ bến. Chính ông Giáo đã xoa dịu nỗi đau của Lão Hạc,
giúp đỡ về mặt tinh thần trong mọi hoàn cảnh. Và chính trong những tác phẩm văn
học nước ngoài, cụ Bơ-men (“Chiếc là cuối cùng” - O’Hen ri) đã cứu Giôn-xi từ
cõi chết trở về. Đâu chỉ có văn học Việt Nam mà toán thế giới hay nói cách
khác, mọi nơi, mọi thời điểm, nơi nào có văn học là có tình thương, thắp sáng
troing bóng tối, sưởi ấm trong lạnh giá. Và đó chính là phương châm tồn tại mãi
mãi của văn học chân chính.
Văn
học không chỉ ca ngợi tình thương sâu đậm trong lòng mỗi người, không chỉ khêu
gợi tình cảm thực tại mà còn khích lệ tình cảm tiềm tàng ẩn chưa trong mỗi con
người, phê phán những tấm lòng vô cảm rồi chính cái vô cảm đó sẽ phần nào biểu
lộ ra thứ tình cảm chân chính:
“Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
(“Nước Đại Việt Ta” - Nguyễn Trãi)
Bên
cạnh những thứ tình cảm khích lệ về mặt tinh thần đó thì tình yêu quê hương,
đất nước là thứ tình cảm chân chính thể hiện bằng hành động thực tế. Lòng yêu
quê hương, đất nước đã thể hiện sâu sắc qua “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn).
Ông đã thể hiện tình yêu mãnh liệt của mình đồng thời khích lệ tướng sĩ tấm
lòng yêu nước “mà bản thân họ đã có sẵn”. Cũng vậy, “Nước Đại Việt ta” (Nguyễn
Trãi) là “bước nhảy vọt thời gian” khẳng định những yếu tố độc lập đề cao sức
mạnh dân tộc, đề cao, ca ngợi đi đôi với lên án, phê phán. Đó là những bằng
chứng phê phán hành động sai trái nhưng trong “Cô bé bán diêm” (An-đéc-xen) lại
phê phán chính trái tim được coi là “nồng ấm: của con người. Nhà văn An-đéc-xen
đã lên án gay gắt thái độ sống thờ ơ của những con người trong cùng một xã hội.
Phải chăng, sau cái chết của em bé bán diêm, những người dân nơi đây lại có
cách nhìn khác về bản thân. Tóm lại, văn chương ra đời không chỉ có vậy àm còn
với mục đích “khơi gợi những gì chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa ai có”
(Nam Cao), thắp sáng lên tia sáng hi vọng, sưởi ấm trái tim băng giá của những
con người chưa biết vẻ đẹp nhân cách tâm hồn tiềm tàng của mình.
Văn
học trau dồi tình yêu con người, gợi cho con người cảm xúc. “Cảm xúc con người
như viên kim cương” thô thiển nhưng được mài giũa, viên kim cương thô thiển ấy
sẽ trở thành dá quý “đắt giá”. Cũng như trái tim con người vậy, hãy tự biết “tan
chảy” lớp băng lạng giá kia để trở thành những con người biết đồng cảm, chia
sẻ. Như văn hào M.Gorki đã nói: “Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là
nhân đạo hóa con người”. Thật vậy, quả là “loại văn chương đáng thờ”, “đáng
trưng bày” cho cả nhân loại chiêm ngưỡng.
Qua
những tác phẩm văn học trên, ta mới cỏm nhận được rằng, văn học luôn luôn cả
ngợi những tình yêu thương cao cả, làm người gần người hơn. CHúng hòa quện vào
nhau tạo nện một bức tranh tươi sáng, giúp con người phát triển theo một định
hướng chung để ngày một hoàn thiện như mục đích của văn học: “luôn hướng con
người tới chân - thiện - mĩ”. Và đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Phần III. TẬP LÀM VĂN
* Văn nghị luận: Một số đề và dàn ý
tham khảo
Đề 1
Tác dụng của
sách đối với đời sống con người
A. Mở bài -
Vai trò của tri thức đối với loài người
- Một trong những phương pháp để
con người có tri thức là chăm chỉ đọc sách bởi sách là tài sản quý giá, người
bạn tốt của con người .
B. Thân bài
* Giải thích : Sách là tài sản vô
giá, là người bạn tốt bởi vì sách là nơi lưu giữ toàn bộ sản phẩm trí tuệ của
con người, giúp ích cho con người về nhiều mặt trong cuộc sống
* Chứng minh tác dụng của sách
- Sách giúp ta có kiến thức, mở
rộng tầm hiểu biết , thu nhận thông tin một cách nhanh nhất+ DC chứng minh
- Sách bồi dưỡng tinh thần , tình
cảm cho chúng ta để chúng ta trở thành người tốt + DC
- Sách là người bạn động viên ,chia
xẻ làm vơi đi nỗi buồn của ta + DC
* Tác hại của việc không đọc sách :
Hạn hẹp về tầm hiểu biết tri thức, tâm hồn cằn cỗi
* Phương pháp đọc sách
- Phải chọn sách tốt, có giá trị để
đọc
- Phải đọc kỹ, vừa đọc vừa nghiền
ngãm ,suy nghĩ , ghi chép những điều bổ ích
- Thực hành , vận dụng những điều
học được từ sách vào đời sống.
C. Kết bài
- Khẳng định sách là người bạn tốt
- Lời khuyên phải chăm chỉ đọc sách
, phải yêu quý sách
Đề
2
Hãy viết một bài văn nghị luận để
khuyên một số bạn còn lười học, đi học không chuyên cần.
A.
Mở bài
Giới thiệu bài : Lười học là tình
trạng phổ biến đối với học sinh hiện nay, nhất là học sinh vùng nông thôn và
vùng sâu xa
B. Thân bài
- Đất nước đang rất cần những người
có tri thức để xây dựng đất nước
- Muốn có tri thức , học giỏi cần
chăn học : kiên trì làm việc gì cũng thành công…
- Xung quanh ta có nhiều tấm gương
chăm học học giỏi :…
- Thế mà một số bạn học sinh còn
chểnh mảng trong học tập khiến thầy cô
và cha mẹ lo buồn
- Các bạn ấy chưa thấy rằng bây giờ
càng ham vui chơi thì sau này càng khó tìm được niềm vui trong cuộc sống = >
Vậy thì ngay từ bây giờ các bạn hãy chăm chỉ học tập
C. Kết bài :
- Liên hệ với bản thân
Đề 3
Hãy
viết bài nghị luận với đề tài : Bảo vệ môi trường thiên nhiên là bảo vệ cuộc
sống của chúng ta
A.
Mở bài : Giới
thiệu về môi trường thiên nhiên: không khí, nước, cây xanh
B.
Thân bài
-
Bảo vệ bầu không khí trong lành
+
Tác hại của khói xả xe máy, ô tô… Tác
hại của khí thải công nghiệp
-
Bảo vệ nguồn nước sạch
+
Tác hại của việc xả rác làm bẩn nguồn nước sạch .Tác hại của việc thải chất
thải công nghiệp
-
Bảo vệ cây xanh Nếu rừng bị chặt phá
thì :
+
Cây cối bị chết, chim thú bị huỷ diệt. Cây cối chết sông ngòi khô cạn
+
Khí hậu trái đất sẽ nóng lên ảnh hưởng đến sức khoẻ.Hiện tượng xói mòn lũ lụt
thiệt hại đến sản xuất
C. Kết bài . Mỗi chúng ta hãy có ý thức trách
nhiệm bảo vệ cuộc sống của chúng ta
ĐỀ
4
Bạn em chỉ thích trò chơi điện tử mà tỏ ra thờ ơ không quan tâm tới
thiên nhiên, em hãy chứng minh cho bạn thấy: Thiên nhiên là nơi cho ta sức
khoẻ, hiểu biết, niềm vui vô tận. và vì thế, chúng ta cần gần gũi với thiên
nhiên, yêu mến thiên nhiên
A. Mở bài :-
Dẫn dắt, nêu vấn đề: Thiên nhiên là nơi cho ta sức khoẻ, hiểu biết niềm vui và
chúng ta cần gần gũi thiên nhiên.
B.
Thân bài:
+ Luận điểm 1: Thiên
nhiên là nơi cho ta sức khoẻ
- Nếu đứng
trong một căn phòng nhỏ, và dầy khói thuốc lá và ở ngoài kia là thiên nhiên
hùng vĩ, có núi, có sông thì bạn sẽ chọn nơi nào? - Con người nếu như không có thiên nhiên
thì con ngời chỉ như một cái máy, chắc chắn không ai có thể thoát khỏi hội
chứng của sự căng thẳng. Thiên nhiên chính là liều thuốc bổ đối với sức khoẻ
của con người
+ Luận điểm 2: Thiên
nhiên đem đến cho ta sự hiểu biết niềm vui
- Tham quan
thiên nhiên ta sẽ tích luỹ được các kiến thức về sinh học, vật lý hay hoá học.
- Thiên
nhiên là nơi ta thực hành những kiến thức mà ta tích luỹ được qua sách vở
- Gần gũi với
thiên nhiên là thêm yêu đời, yêu cuộc sống, tạo nên cảm hứng sáng tác văn học.
(Dẫn chứng một số nhà văn gần gũi với thiên nhiên
trong văn học:Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca)
* Cần gần gũi0...0000 với thiên nhiên, yêu mến với
thiên nhiên. Bằng cách: Cùng gia đình có những ngày nghỉ cuối tuần đến với
thiên nhiên; su tần các mẫu trong thiên nhiên; vẽ tranh phong cảnh; chăm sóc
cây xanh ...
C.
Kết bài -Khái quát lại vai trò của thiên nhiên với đời sống
con người. Lời kêu gọi mọi người hãy gần gũi với thiên nhiên.
ĐỀ
5
Một số bạn lớp em đang đua đòi ăn mặc theo lối
không lành mạnh, không phù hợp với lứa tuổi học sinh, với truyền thống dân tộc,
gia đình. Em hãy viết một bài văn nghị luận để thuyết phục các bạn đó thay đổi
cách ăn mặc cho đứng đắn hơn.
A. Mở bài - Vai trò của mốt trang phục đối với xã hội và
con ngời có văn hoá nói chung và tuổi học trò nói riêng.
B.
Thân bài:
- Tình hình ăn mặc hiện nay của lứa tuổi học sinh
+ Đa số các bạn ăn mặc đứng đắn, có văn hoá
+ Tuy nhiên vẫn còn một số bạn đua đòi chạy theo mốt
ăn mặc không lành mạnh ( đan yếu tố tự sự, miêu tả )
- Tác hại của lối ăn mặc không lành mạnh
+ Vừa tốn kém, mất thời gian, ảnh hưởng xấu tới kết
quả học tập
+ lại không có văn hoá, thiếu tự trọng, ảnh hưởng tới
nhân cách của con người
- ăn mặc như thế nào là có văn hoá ?
+ Phải phù hợp với lứa tuổi học sinh, với truyền thống văn hoá của dân tộc và hoàn
cảnh gia đình.
+ Đó là cách ăn mặc giản dị, gọn gàng, đứng đắn để
chứng tỏ mình là người lịch sự, có văn hoá, biết tự trọng và tôn trọng mọi người
C. Kết bài :- Các bạn cần thay đổi lại cách ăn mặc cho phù hợp, lành mạnh, đứng đắn
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/