I. TÊN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP TRẺ 5-6 TUỔI TÍCH CỰC TRONG HOẠT
ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON”
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MÔ TẢ SKKN:
1. Lí do chọn đề
tài:
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” đó là điều mà
giáo dục luôn quan tâm và muốn thực hiện một cách tốt nhất. Vì vậy, ở lứa tuổi Mầm non
thì sự phát triển toàn diện năm lĩnh vực là mục tiêu quan trong. Trong đó, ngôn ngữ
là một trong những yếu tố để giúp trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi khi ở
trường, ở lớp. Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả các hoạt động
giáo dục, ở mọi lúc, mọi nơi. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các
hoạt động và ngược lại mọi hoạt động tạo cơ hội cho ngôn ngữ phát
triển. Trẻ tiếp cận với làm quen văn học là nuôi
dưỡng là phát triển ở trẻ trí tưởng tượng sáng tạo giao lưu học hỏi qua các bài
thơ, ca dao, đồng dao, chuyện kể…Từ đó giúp trẻ phát triển tư duy, giao tiếp tốt
với mọi người và sự vật xung quanh, biết yêu cái đẹp, cái thiện, tránh xa điều
ác. Vì thế, làm quen văn học đóng vai trò không nhỏ không trong việc hình thành
và phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo, trẻ biết tự đặt mình vào một tình huống,
nhân vật hay hoàn cảnh nào đó trong câu chuyện, chính trẻ cũng giải quyết vấn đề
mình đã lựa chọn.
Đối với trẻ 5-6 tuổi đã biết lắng và nghe hiểu người khác
nói, phân biệt các giọng nói, giọng điệu khác nhau, nghe hiểu những
từ, câu, nghe hiểu nội dung các lời nói, nghe hiểu những câu chuyện,
bài hát, bài thơ phù hợp với độ tuổi, có biểu hiện thái độ thích
hợp khi nghe. Phát âm các từ rõ ràng và sử dụng các giọng điệu phù
hợp, sử dụng từ, câu đa dạng trong giao tiếp, biết bày tỏ tình cảm
nhu cầu cần thiết của bản thân, sử dụng ngôn ngữ để kể chuyện. Khi
giao tiếp có thái độ thích hợp, lịch sự, lễ phép chủ động và tự
tin.
Việc cho trẻ tiếp xúc với
các câu chuyện, bài thơ có sự chọn lọc phù hợp sẽ phát triển thẩm mỹ, trí tuệ
và đặc biệt là ngôn ngữ. Bởi vì, thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất thấm vào
tâm hồn của trẻ, những câu thơ êm dịu giúp trẻ cảm nhận được nội dung, ý
nghĩa bên trong bài thơ. Còn đối
với các câu chuyện kể Mầm non thì sức hút của chúng, các nhân vật, loài vật, cảnh
vật,...trong từng câu chuyện sẽ luôn để lại bài học, kinh nghiệm sâu sắc nhất đối
với trẻ.
Tuy nhiên, qua thực tế ở trường
tôi, trong những lần dự giờ ở các lớp tôi nhận thấy: Về nghe hiểu
thì đa số các trẻ chỉ thực hiện được một số yêu cầu đơn giản theo
lời nói của cô, chưa cảm nhận được ngữ điệu lời nói trong giao tiếp,
chưa thể hiện sự diễn cảm của lời đọc thơ, kể chuyện. Về nói thì
trẻ biết trả lời các câu hỏi đơn giản, chưa sử dụng từ, câu đa dạng
trong giao tiếp thường hay mắc những lỗi như: Trẻ nói chưa tròn câu,
hay quên lời thoại của các câu chuyện kể, đọc thơ còn nhầm lẫn một số từ,
đọc còn vấp nhiều, khi có người lạ dự giờ là trẻ hay bị khớp và không
nói được. Nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số
giải pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tích cực trong hoạt động làm quen văn học ở trường
mầm non”
2. Mô tả nội dung:
Trẻ tham
gia vui chơi, học tập tại lớp luôn thể hiện tích cực với những gì
diễn ra xung quanh chúng. Trẻ bắt chước, khám phá,
trải nghiệm, thực hành để hiểu về những sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh
trẻ, đồng thời trẻ học cách biểu đạt những hiểu biết đó thông qua sự chia sẻ,
trao đổi với bạn bè. Vì vậy, vai trò của giáo viên trong
việc giúp
trẻ phát huy tính tích cực về những gì trẻ
học được thông qua bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao,… là kích thích trẻ
quan sát, xem xét, phỏng đoán các sự vật hiện tượng xung quanh và chia sẻ điều
trẻ nhìn thấy, điều trẻ nghĩ hoặc điều còn băn khoăn, thắc mắc
trong các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Trẻ quan tâm yêu thích cái đẹp, yêu các nhân vật trong bài thơ, câu chuyện, thích nghe cô kể
chuyện, mô phỏng lại hành động các nhân vật và có nhu cầu được đọc thơ, kể truyện. Do đó, thơ, truyện là một phần của cuộc sống
gợi lên cho trẻ những cảm xúc lành mạnh, nó góp phần giáo dục thẩm mỹ và phát
triển ngôn ngữ giúp trẻ có vốn từ phong phú và khả năng diễn đạt mạch lạc, việc
đọc diễn cảm các tác phẩm văn học có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhằm giúp trẻ cảm
thụ tác phẩm một cách trọn vẹn và đầy đủ hơn. Qua đó trẻ tái tạo lại bằng hình
ảnh những gì đã nghe được và gợi lên ở trẻ những tình cảm, cảm xúc nhất định.
Điều đó hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức của trẻ.
Trong quá trình giảng dạy tôi đã rút ra một số hình thức
cho trẻ làm quen văn học như sau:
+ Hình thức cho trẻ làm quen văn học qua hoạt động học,
hoạt động khác trong ngày.
+ Hình thức
cho trẻ làm quen văn học qua góc học tập-thư viện.
+ Hình thức
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua việc kể chuyện sáng tạo.
+ Hình thức thảo luận nhóm để chọn vai
diễn cho mình.
+ Hình thức trò chơi có thưởng khi đàm
thoại về nội dung câu chuyện, bài thơ.
+ Hình thức sử dụng rối, mô hình xoay.
Những hình thức học trước đây
với hiệu quả chưa cao nhưng tôi tin rằng qua
các hình thức mới nêu trên kết hợp cùng với sự đọc kể diễn cảm của cô giáo ngay từ đầu thì
trẻ sẽ có sự say mê với giờ học, luôn thể hiện được ngôn ngữ qua cảm xúc của trẻ.
Chính
vì những lý do trên nên việc giúp trẻ hoat động tích cực trong làm quen văn
học khi thực hiện tại lớp mình. Vì vậy, tìm ra giải pháp tốt nhất cho trẻ
hứng thú, tích cực và sáng tạo là điều mà tôi và tập thể giáo viên
trong trường luôn mong đợi.
2.1. Khảo sát:
Trong quá trình dạy trẻ
làm quen với tác phẩm văn học ở lớp thì đa số trẻ còn thụ động, phát âm chưa
chính xác rõ ràng, khả năng kể chuyện của trẻ còn hạn chế, chưa mạnh dạn
và tự tin trả lời các câu hỏi của cô. Phương pháp giáo dục của giáo viên chưa mang lại hiệu quả cao, giáo
viên chưa thật sự đầu tư vào cho trẻ làm quen văn học, chỉ tập trung chú ý vào cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học ở hoạt động học nên chưa phát huy được hết khả năng của trẻ. Từ đầu năm học tôi tiến hành khảo sát trên trẻ và đạt kết
quả như sau:
STT |
Nội
dung khảo sát |
Số
lượng |
Tỉ lệ |
1. |
Phát
âm chính xác, rõ ràng, mạch lạc |
13/42 |
30,95% |
2. |
Trẻ
có khả năng kể truyện |
11/42 |
26,19% |
3. |
Trẻ
thích được nghe cô kể truyện, đọc thơ |
25/42 |
59,52% |
4. |
Tham
gia trả lời câu hỏi |
15/42 |
35,71% |
2.2. Nguyên nhân thực trạng:
Thuận lợi:
Được sự quan tâm chỉ đạo cụ thể, tích cực, nhiệt
tình của các cấp lãnh đạo Sở Giáo dục, Phòng Giáo dục và Đào tạo TPVL
trong mọi hoạt động của nhà trường.
Ban giám hiệu nhà trường luôn sâu sát, tạo điều kiện thuận
lợi cho giáo viên có đủ phương tiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
trẻ. Thường xuyên định hướng và bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên qua các
buổi dự chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn và qua các tiết dạy dự giờ của các chị
em trong trường.
Tôi được
nhà trường tạo điều kiện thuận lợi để tham dự chuyên đề cụm các trường bạn tổ
chức, được tham gia vào các lớp học bồi dưỡng chuyên môn của trường, nên tôi đã
học hỏi, rút ra nhiều kinh nghiệm quý giá cho bản thân.
Đầu tư trang
bị CSVC, mua sắm đồ dùng dạy học phục vụ cho môn văn học như các loại
tranh bài thơ-câu chuyện, tivi, đầu đĩa, kết nối mạng internet,…thuận tiện cho
giáo viên tổ chức tiết dạy thơ-truyện bằng Powerpoint trên máy tạo cho tiết
học hấp dẫn, sinh động nên thuận lợi cho công tác giảng dạy.
Bản thân cố gắng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm
từ đồng nghiệp thu hút trẻ.
Được phụ
huynh trong lớp đều đồng tình ủng hộ kế hoạch giáo viên đưa ra và có sự phối
hợp chặt chẽ thường xuyên, một số trẻ trong lớp nhanh nhẹn,
mạnh dạn, khả năng tiếp thu thơ nhanh, ngữ điệu tốt, tự tin khi biểu diễn
thơ trước tập thể đó là điều kiện tốt để giúp tôi tự tin thực hiện tốt
chuyên đề làm quen với học.
Khó
khăn:
Các
loại tranh ảnh chưa sát nội dung bài thơ, câu chuyện, đồ dùng dạy học chưa
phong phú đa dạng về nguyên vật liệu từ thiên nhiên, chưa biết khai thác
tốt để đáp ứng được nhu cầu hứng thú tích cực và sáng tạo của trẻ.
Số lượng trẻ khá đông, nhận thức của trẻ không đồng
đều, tư duy trẻ còn hạn chế.
Một số trẻ không học qua lớp mầm-chồi nên khả
năng cảm nhận nhịp điệu của bài thơ hay câu chuyện còn chưa có nhiều cảm
xúc, việc phát âm rõ từ còn gặp nhiều khó khăn, trẻ đọc thơ chưa thể hiện
được ngữ điệu, trẻ chưa chú ý tham gia vào tiết học vì chưa có nề nếp học
tập từ đầu, trẻ nói ngọng còn nhiều, nói tùy tiện trong giờ học, nhiều trẻ
còn nói lặp từ, nói câu chưa dứt khoát, phát âm chưa được chuẩn, khả năng
sử dụng từ còn hạn chế, trẻ thiếu mạnh dạn, tự tin.
Một số trẻ ngôn ngữ phát âm chưa được chuẩn:
Kiên, Khang, Đào, Lợi,…
Một
vài trẻ chậm hơn bạn, chưa mạnh dạn
thiếu tự tin như: Long, Đăng, Phát, Thành, Nhân,...
Một số trẻ hiếu động thiếu tập trung vào hoạt động: Hiển,
Lợi, Quyên, Nguyên, Phương Trúc,...
Tính sáng tạo trong sự thiết kế bài dạy cho trẻ theo hướng
lấy trẻ làm trung tâm chưa cao, dẫn đến khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.
Một phần nhỏ phụ huynh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn phải
lao động mưu sinh nên không dành nhiều thời gian quan tâm chăm sóc con em mình. Chính vì thế các cháu con rụt rè nhút nhát, một số phụ
huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của trẻ, nên khả năng cảm thụ tác phẩm văn
học đặc biệt là ngôn ngữ còn hạn chế, một số phụ huynh chưa có nhận thức cao về tầm
quan trọng của bậc học mầm non, chưa thường xuyên phối, kết hợp với cô
giáo trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
2.3. Đề ra giải pháp:
Muốn trẻ học tốt thì giáo viên là người
truyền cảm hứng cho trẻ, tạo niềm vui, sự thích thú qua các họat động tập thể,
họat động mọi lúc mọi nơi. Cô biết vận dụng giáo cụ trực quan cho từng loại tiết
như: mô hình, sân khấu rối, đèn chiếu,…gây kích thích tính tò mò của trẻ. Thấy
được tầm quan trọng của phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen với
thơ ca, truyện kể đối với sự phát triển của trẻ và đã đề ra các giải pháp để trẻ
học tốt hơn.
Giải pháp1: Tự bồi dưỡng, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề và
tìm ra các biện pháp tổ chức tốt hoạt động cho trẻ.
Giải pháp 2: Giáo viên thường xuyên rèn luyện giọng đọc.
Giải pháp 3: Dạy trẻ đọc thơ, kể
chuyện diễn cảm trên tiết học
Giải pháp 4: Sử
dụng phương pháp trò chuyện linh hoạt, đàm thoại để kích thích sự phát triển kỹ năng
nghe hiểu và nói của trẻ.
Giải
pháp 5: Tổ chức cho trẻ làm quen
với thơ, truyện qua vào mọi lúc, mọi nơi.
Giải pháp 6: Sử dụng đồ dùng
trực quan minh hoạ, tận dụng vật liệu gần gũi ở địa phương.
Giải pháp7: Cho trẻ
làm quen thơ ca, truyện kể theo cách riêng của mình.
2.4. Những nội dung cần đạt:
Bản thân luôn trau dồi, rèn luyện để nâng cao nhận thức,
tay nghề nhằm thực hiện tốt các biện pháp tổ chức hoạt động cho trẻ đạt từ
90% hoạt động khi tổ chức cho trẻ.
- Phát
âm chính xác, rõ ràng, mạch lạc đạt từ 90% trở lên
- Trẻ có khả năng kể truyện đạt 90%
trở lên
- Trẻ thích được nghe cô kể truyện, đọc
thơ đạt 95% trở lên
- Tham gia trả lời câu hỏi đạt từ 90%
trở lên
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN “SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM”:
1. Giải pháp 1: Tự bồi dưỡng, tự rèn luyện để nâng cao
tay nghề và tìm ra các biện pháp tổ chức tốt hoạt động cho trẻ.
Giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm không chỉ truyền đạt kiến thức cho các cháu một cách thụ động
mà các nhà giáo cần phải tạo ra các điều kiện, các cơ hội để mọi đứa trẻ được
chủ động, sáng tạo, được tích cực hoạt động.
Giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm cần đảm bảo: Hứng thú, nhu cầu, kỹ năng, thế mạnh của mỗi trẻ
đều được hiểu, đánh giá đúng và được tôn trọng. Mỗi trẻ đều có cơ hội tốt nhất
để thành công.
Để đáp ứng được quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì
giáo viên phải sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực đối với hoạt
động làm quen văn học. Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp giáo dục
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ chứ không phải là
tập trung vào phát huy tính tích cực của giáo viên, do đó để dạy học theo
phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực hơn rất nhiều so với dạy theo
phương pháp truyền thống, thụ động.
Để
thực hiện được việc đó thì đòi hỏi ở người giáo viên phải nắm vững phương pháp
dạy, phải lựa chọn những đề tài và hình thức tổ chức
như thế nào nhằm thu hút lôi cuốn trẻ? Thay đổi hình thức tổ chức như thế nào cho trẻ
không nhàm chán? Để trẻ có hứng thú không bị nhàm chán trong các tiết học, muốn
vậy trước hết ta phải giải quyết các vấn đề trên và thay đổi cách tổ chức giờ học,
cách truyền đạt, cách đầu tư chuẩn bị đồ dùng,…Cho trẻ quan sát, xem xét, phỏng đoán, so sánh, sử dụng
câu hỏi gợi mở, câu hỏi kích thích trẻ tư duy nhằm dẫn dắt trẻ suy nghĩ và giúp
trẻ nói lên được về những gì chúng đang nhìn thấy, giáo viên gợi ý cho trẻ chia
sẻ, bày tỏ ý kiến của mình, cùng nhau trao đổi để tìm hiểu, khám phá đối tượng.
Bên cạnh đó giáo viên cần tạo cho trẻ môi trường hoạt động phong phú, hấp dẫn với
các đồ dùng, đồ chơi và các nguyên vật liệu khác nhau để kích thích hứng thú
khám phá của trẻ.
Giáo viên cần
thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật của từng phương pháp, có như thế thì mới nâng
cao được hiệu quả tổ chức hoạt động cho trẻ. Các kỹ thuật này bao gồm: Kỹ thuật
chia nhóm, kỹ thuật giao nhiệm vụ, kỹ thuật đưa ra tình huống có vấn đề, kỹ thuật
đặt câu hỏi... Cụ thể về kỹ thuật đặt câu hỏi thì giáo viên cần chú ý tới một số
yêu cầu như sau: Câu hỏi phải liên quan trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu
bài học, câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng dễ hiểu, đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với
trình độ của trẻ, câu hỏi phải kích thích sự suy nghĩ của trẻ nhằm khuyến khích
sự phát triển nhận thức và ngôn ngữ của trẻ, giáo viên không ghép nhiều nội
dung trong một câu hỏi, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc, trẻ sẽ trả lời dễ
dàng hơn với các câu hỏi đơn nghĩa, rõ ý.
Nâng cao nhận thức cho bản thân, thay đổi
cách nhìn về dạy thơ, truyện, ca dao, đồng dao trong việc trẻ tiếp cận cũng như
khi tổ chức hoạt động làm quen văn học cho trẻ theo hướng mới hơn, luôi cuốn,
thu hút trẻ tích cực tham gia vào hoạt động.
2. Giải
pháp 2: Giáo viên thường xuyên rèn luyện giọng đọc.
Muốn dạy trẻ đọc
được thơ diễn cảm thì trước hết giáo viên phải đọc diễn cảm
những bài thơ dạy cho trẻ. Vì thế bản thân tôi thường xuyên nghiên cứu tính
nghệ thuật mà tác giả gửi gắm vào trong từng bài
thơ như: thể thơ, nhịp thơ, các từ luyến, láy trong từng câu thơ để xác
định được mục đích yêu cầu khi dạy trẻ đọc thơ diễn cảm, sau khi đã tìm
hiểu về nghệ thuật của bài thơ thì tôi rèn luyện giọng đọc, cử chỉ nét mặt
của mình bằng cách đọc đi đọc lại nhiều lần, chú ý cách ngắt nghỉ, nhịp
thơ tạo nên sự truyền cảm, thể hiện được tình cảm của mình đối với tác phẩm.
Còn đối với câu chuyện tôi tập trung vào lời thoại nhân vật để có gi5ng kể khác
nhau khi mỗi lần nhân vật xuất hiện, theo tuổi, cảm xúc vui buồn của nhân vật,…
Cụ
thể:
Dạy bài thơ: "Ảnh Bác" – Trần Đăng
Khoa
khi đọc biết nhấn mạnh ở câu 7,8,9,10, ngắt giọng,
đọc
với giọng điệu chậm rãi, nhẹ nhàng kết hợp cử chỉ nét mặt yêu
thương,
trìu mến thể hiện tình cảm vui sướng của mình đối
với Bác Hồ.
Ngoài ra tôi còn tập trung đọc đi đọc lại nhiều
lần những từ khó. Chú ý trẻ phát âm chưa chuẩn những từ khó như: “mỉm
miệng”; “hầm
ngồi”,…để
khi vào dạy dễ dàng, chủ động hơn. Khi bản thân đã tự rèn luyện cách thuộc
thơ và đọc diễn cảm, nhập vai các nhân vật trong truyện thì vào tổ chức
tiết dạy tôi thấy mình tự tin hơn, lôi cuốn trẻ vào tiết học đạt hiệu quả
cao.
Việc
rèn luyện kĩ năng cho người giáo viên là đều cần thiết, chỉ có khi giáo viên
thật sự nghiêm túc học tập và rèn luyện thì mới có được kết quả mà mình mong
muốn, trẻ sẽ tập trung hơn khi nghe cô đọc thơ, kể chuyện và cảm nhận được các
nội dung bài học sâu sắc hơn.
3. Giải
pháp 3. Dạy trẻ đọc thơ-kể
chuyện diễn cảm trên tiết học.
Trong lớp học Mầm non, dạy trẻ đọc thơ là hình thành những kỹ
năng với các mức độ khác nhau: đọc thuộc thơ, đọc đúng, đọc diễn cảm bài thơ.
Đối với các tiết dạy thơ, khi xây dựng lựa
chọn những bài thơ phù hợp chủ đề nhưng cần sắp xếp thứ tự từ dễ đến khó, từ
bài thơ ngắn đến bài thơ dài. Trên tiết học tôi tổ chức dạy trẻ đọc
thơ theo trình tự nội dung các bước quy định, vì trước khi dạy trẻ đọc thơ
diễn cảm tôi đã cho trẻ làm quen trước bài thơ nên khi vào học có trẻ đã đọc
khá thuộc bài thơ. Vì thế giáo viên giới thiệu bài
thơ và đọc diễn cảm 2-3 lần , giới thiệu cho trẻ biết được tính nghệ thuật
của bài thơ, cách đọc, ngắt, nghỉ, cường độ, nhịp độ của bài
thơ để tạo cho trẻ có sự tư duy tốt hơn.
Khi dạy trẻ đọc thơ diễn cảm cần kết hợp
điệu bộ cử chỉ vui tươi. Để tạo môi
trường có nội dung văn học, trước hết tôi làm
cho môi trường trong và ngoài lớp đẹp phong phú, sinh động, hấp dẫn trẻ, mặt
khác kích thích sự chú ý của trẻ, qua đó gợi cho trẻ ôn lại bài cũ và làm
quen với tác phẩm mới sắp được học, đồng thời tạo cho trẻ sự yêu thích khi
xem các tác phẩm văn học đặc biệt là thơ. Qua đó kích thích trẻ chú ý, tư
duy tưởng tượng diễn đạt mạch lạc, kết quả là sự hoàn thiện về ngôn ngữ.
Qua việc tạo môi trường có nội dung văn
học nói chung và thơ nói riêng cho trẻ mầm non, nhất là mẫu giáo bé là rất
quan trọng và cần thiết. Hơn nữa nguyên liệu tạo ra môi trường lại phong
phú, dễ kiếm, dễ tìm như: Vỏ ốc, hột hạt, lá cây, bìa, giấy các loại, vỏ chai,
đĩa CD... môi trường có thể do cô và cháu cùng làm, từ đó giúp trẻ mạnh dạn,
tự tin, có cơ hội được trải nghiệm, được thỏa sức sáng tạo, nói lên ý tưởng
của mình góp phần to lớn trong việc tổ chức dạy trẻ, đọc thơ diễn cảm trong
hoạt động chung, phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Đối với phương pháp đóng vai thì việc
"diễn" không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan
trọng là giáo viên giúp trẻ tham gia thảo luận sâu sau phần tham gia vào vai
diễn ấy. Để trẻ có thể tái hiện lại nhân vật với lời thoại diễn cảm.
Kế đến tôi chọn một số câu chuyện gần
gũi trong chương trình chuyển thể thành kịch bản trò chơi đóng kịch:
+ Trò
chơi ít lời thoại, ít nhân vật: Ba chú heo con; Giọt nước tí xíu.
+ Trò
chơi nhiều lời thoại, nhiều nhân vật: Cậu bé mũi dài, Sự tích chú Cuội
cung trăng.
+ Trò
chơi có nhiều lời thoại trẻ thường phát âm sai: Bông hoa cúc trắng, Cây
tre trăm đốt.
Việc
lựa chọn trò chơi đóng kịch đa dạng về hình thức, phong phú về nội
dung, nhất là phải đi từ dễ đến khó, phù hợp với khả năng của từng
nhóm trẻ,…Giúp cho tất cả các trẻ đều được tham gia chơi.
Cô giáo sử dụng lời nói, hình ảnh để trò chuyện, đàm thoại. Cho trẻ kể lại câu chuyện đã được nghe, được
chứng kiến hay tự mình nghĩ ra. Cần tập cho trẻ nghe, hiểu lời nói
của cô giáo và những người xung quanh sau đó tự mình trình bày ý
nghĩ của mình, Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ trước hết phải cuốn
hút trẻ tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ: Trò chuyện, đàm thoại,
kể chuyện, làm quen chữ viết,…
Khi cô gần gũi, nhẹ nhàng giúp trẻ cảm nhận
tốt về tính nghệ thuật của bài thơ, câu chuyện và qua lời kể của cô, cách diễn
đạt nội dung,...Trẻ sẽ thể hiện được bản thân, mạnh dạn, tự tin hơn trước
đám đông để tham gia đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, gây nhiều hứng thú đọc thơ và kể chuyện của trẻ. Ngôn ngữ của trẻ phát triển
tốt dần
lên, khả năng diễn đạt của trẻ trôi chảy
hơn, khắc
sâu về nội dung và nhân vật, giao tiếp tự tin tăng tỉ lệ
yêu cầu bài học lên cao hơn.
4. Giải pháp 4: Sử dụng
phương pháp trò chuyện linh hoạt, đàm thoại để kích thích sự phát triển kỹ năng
nghe hiểu và nói của trẻ
Nhằm giúp cho sự
hiểu biết của trẻ trở nên sâu sắc và bền vững hơn, giúp trẻ sẽ nhớ nhanh và lâu
hơn thì giáo viên nên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Có rất
nhiều cách khác nhau để chia nhóm tuy nhiên, không nên chia nhóm trẻ quá đông
hoặc quá ít, nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau. Cần
quy định rõ thời gian thảo luận và kết quả thảo luận cho các nhóm, cần bầu ra
trưởng nhóm, kết quả thảo luận nhóm có thể được trình bày bằng nhiều hình thức
như: đóng kịch, kể chuyện sáng tạo, đọc thơ,…Giáo viên cần quan sát các nhóm
thảo luận và có sự giúp đỡ kịp thời trong trường hợp các nhóm gặp khó khăn.
Đối với phương pháp dạy
học giải quyết vấn đề thì giáo viên cần thực hiện đúng theo quy
trình các bước như sau: Xác định, nhận dạng vấn đề hoặc tình huống; thu thập
thông tin có liên quan đến vấn đề hoặc tình huống đặt ra; liệt kê các cách giải
quyết có thể có; phân tích, đánh giá kết quả từng cách giải quyết (tích cực,
hạn chế, cảm xúc, giá trị); so sánh kết quả các cách giải quyết; lựa chọn cách
giải quyết tối ưu nhất; thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn; rút kinh
nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.
Phương pháp động não khi sử dụng đối với trẻ mầm non thì
giáo viên nên hướng dẫn trẻ cách trả lời những câu hỏi ngắn, có khi chỉ cần một
từ. Tất cả ý kiến của trẻ đều cần được giáo viên khích lệ, thừa nhận. Đặc biệt,
không phê phán các câu trả lời của trẻ và luôn khen ngợi trẻ đúng lúc. Cuối giờ
cần nhấn mạnh kết quả có được là thành quả của cả nhóm hoặc của cá nhân.
Cho trẻ xem mô hình bài thơ-câu chuyện: “Mèo đi
câu cá”; “Sự tích cây vú sữa”; “Dê con nhanh trí”. Qua đó đặt những câu hỏi, trẻ đã tìm ra những câu trả lời
chính xác, đúng ý và đúng ngữ pháp.
Trong quá trình trò chuyện, đàm thoại, tôi cũng sử dụng
nhiều loại câu hỏi khác nhau: Giọng
nói này của ai? (Giọng nói của dê mẹ). Sói đã
làm gì để lừa dê con? Nhìn bức tranh này
các con thấy những gì? Từ
những câu hỏi, đáp trẻ được kích thích, muốn tìm hiểu về bản chất của sự vật,
hiện tượng từ đó trẻ nêu lên được đặc điểm của sự vật hiện
tượng.
Hay như cách đặt câu hỏi: Vì sao con biết Mèo anh và Mèo em không câu được cá? Điều gì xảy ra khi cậu
bé quay về tìm mẹ?
Cách đặt câu hỏi đó nhằm kích thích trẻ giải thích phỏng
đoán, suy đoán diễn biến và nói kết quả của sự vật hiện tượng. Đồng thời vốn từ
của trẻ cũng tăng lên một cách đáng kể. Và tôi luôn luôn chú ý đặt câu hỏi tùy thuộc vào sự phát
triển của từng trẻ, nếu trẻ trả lời sai ý, sai ngữ pháp thì nên
nhẹ nhàng sửa cho trẻ
Ngoài đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe, giáo viên nên thường
xuyên cho trẻ được tự kể chuyện bởi vì kể chuyện giúp trẻ trình bày ý kiến, suy
nghĩ, kể về sự vật hay hiện tượng nào đó bằng lời kể cá nhân, sử dụng vốn từ và
rèn luyện câu nói đúng ngữ pháp, đồng thời cũng tập cho trẻ nói biểu cảm, hấp dẫn
người nghe.
Nhờ những câu hỏi gợi mở đó mà trẻ có thêm một số vốn từ
và ý của câu chuyện cũng được sắp xếp có trật
tự hơn. Sau đó cô cho từng nhóm thảo luận và tự lên kể chuyện theo cách riêng của
mình. Và qua thực tế thì ở cả 3 nhóm đã kể 3 câu chuyện khác nhau về nội dung,
trình tự các chi tiết, lời trình bày… tạo thành những câu chuyện hết sức sinh động
và ngộ nghĩnh.
Nắm được khả năng trẻ lớp mình, tạo điều kiện
phù hợp nhất với trẻ, không gò bó đặt nặng vấn đề. Gợi mở trí tưởng tượng của trẻ, nhẹ nhàng,
thoải mái trong học tập, vui chơi. Phát huy được tính tích cực ở trẻ, kích
thích khả năng nghe hiểu và lặp lại của trẻ.
5. Giải pháp 5: Tổ chức cho trẻ làm quen với thơ, truyện qua vào mọi
lúc, mọi nơi
Trẻ không thể lĩnh hội ngay bài thơ qua
một tiết học, vì vậy để cho tiết học đạt kết quả cao, tôi đã linh hoạt lồng
ghép vào các hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều, vào mọi lúc, mọi nơi, trong
các giờ chơi theo ý thích,..để khắc sâu hơn bài học cho trẻ. Tôi linh hoạt
các thời gian trong ngày để có thể cho trẻ làm quen thơ, truyện
hay ôn bài thơ, truyện, rèn luyện cho trẻ thuộc thơ, truyện
trả lời rõ ràng, trọn câu, ghi nhớ được bài thơ, truyện
lâu hơn.
Cụ thể: Trong giờ đón trẻ, trò chuyện sáng,
tôi trò chuyện với trẻ về bài thơ, truyện sẽ được học vào tuần này, hoặc
ngày hôm nay, hoặc hỏi trẻ về bài thơ, truyện trẻ được học của ngày
hôm trước, hỏi trẻ tên bài thơ, truyện tên tác giả, nội dung bài thơ,
câu chuyện những trẻ yếu thì cô gợi ý để trẻ trả lời tròn câu hơn.
Hay trong hoạt động ngoài trời tôi cho
trẻ làm quen bài thơ, câu chuyện mới, qua đó trẻ cảm nhận được bài thơ,
câu chuyện, giúp trẻ khắc sâu hơn và thích thú vào bài học ở hoạt động học, hoặc
tôi cho trẻ ôn thơ, câu chuyện ở hoạt động ngoài trời, bằng những câu hỏi
gợi mở cho trẻ nhắc lại tên bài thơ, câu chuyện tác giả, nội dung bài thơ, câu
chuyện và đọc, kể theo yêu cầu của cô, trẻ thuộc thơ, câu chuyện và đọc thơ, kể
diễn cảm hơn, thể hiện được điệu bộ của bài thơ, câu chuyện giúp trẻ tự
tin hơn, tuy nhiên tôi luôn chú ý đến khả năng thể hiện bài thơ, câu chuyện
của trẻ, nhịp điệu bài thơ trẻ đọc, sự nhấn nhá hay ngắt nhịp của trẻ, giọng
thơ của trẻ và khả năng phát âm các từ khó.
Trong hoạt động chiều cũng có thể ôn thơ, câu chuyện hay làm quen bài
thơ,câu truyện mới, việc ôn lại bài thơ, câu
truyện đã học, tôi cho trẻ xem tranh và đọc thơ, truyện theo tranh, việc này giúp trẻ nhớ
sâu hơn về cả phần lời thơ, đồng thời giúp trẻ có thể nhớ về nội dung bài thơ,
câu truyện tình tiết của bài thơ, điều này rèn khả năng đọc thơ, câu
truyện qua tranh. Và ở hoạt động chiều
tôi còn rèn luyện khả năng đọc thơ đúng cho trẻ như phát âm, ngữ
điệu thơ, hay thể hiện cảm xúc của bài thơ… trẻ dần khắc phục tính nhút nhát của độ tuổi này, đồng thời cũng giúp trẻ phát triển
trí tuệ.
Để sử dụng phương pháp trò
chơi đạt hiệu quả thì giáo viên nên chọn những trò chơi dễ tổ chức
và thực hiện, trò chơi phải phù hợp với chủ đề, với đặc điểm và trình độ của
trẻ, phù hợp với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực, trẻ phải nắm
được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi, trò chơi phải tạo được sự hứng
thú và vui thích của trẻ.
Cũng qua các hoạt động ôn hay làm quen ở hoạt động
ngoài trời, hoạt động chiều, vào mọi lúc, mọi
nơi, trong các giờ chơi theo ý thích tôi giáo dục cho trẻ những điều hay lẽ
phải, lễ phép với người khác, yêu quý mọi người và biết ơn điều tốt mà người
khác làm ra, tránh những thói hư tật xấu, biết giúp đỡ người khác…Giúp trẻ trở nên
hoàn thiện về phẩm chất, nhân cách, trở thành người tốt, sống có ích.
6. Giải pháp 6: Sử dụng đồ dùng trực quan minh hoạ.
Đồ dùng đồ chơi rất cần đối với trẻ nhằm
giúp trẻ hứng thú trong việc học tập nó còn là phương tiện rất cần thiết để
giáo viên tổ chức dạy thơ, truyên cho trẻ. Trẻ
được hoạt động được tiếp xúc với đồ dùng đồ chơi để từ đó trẻ được phát triển toàn
diện về thể chất, tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ. Đây
là hình thức dạy học rất có hiệu quả vì trẻ mầm non tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức
chủ yếu qua đồ dùng trực quan, tuy nhiên việc sử dụng đồ dùng trực quan vào việc đọc
tác phẩm thơ như thế nào là một vấn đề quan trọng. Nếu đồ dùng trực quan
không hấp dẫn, không sinh động, không phong phú thì sẽ gây nhàm chán, trẻ
sẽ mất sự tập trung chú ý điều này ảnh hưởng đến việc cảm nhận nội dung
tác phẩm của trẻ bị giảm đi.
Cụ thể: Bài thơ “Nàng tiên ốc” – Phan Thị
Thanh Nhàn.
Nếu
như với bài thơ đó, tôi không sử dụng hình ảnh trực quan thì dù bản thân có đọc
hay, diễn cảm tốt thì cũng không thể lôi cuốn trẻ vào bài học, trẻ thấy
chán vì không thể hình dung ra con ốc như thế nào, nàng tiên ốc ra làm sao, chính vì vậy trẻ không thể tiếp thu hay cảm nhận
được bài thơ đó, trẻ sẽ không ghi nhớ được bài thơ. Tôi đã sử dụng đồ dùng
trực quan bằng vật thật, hình ảnh đẹp, hấp dẫn, tranh minh hoạ rõ nét nội
dung tác phẩm muốn nói. Qua tiết dạy tôi đã thấy trẻ hứng thú say sưa học
tập, trẻ lĩnh hội tác phẩm một cách nhanh chóng và cảm thấy yêu thích thơ,
qua hình ảnh trẻ có thể bày tỏ được tình cảm của mình đối với bài thơ.
Tuy nhiên khả năng nhận thức của trẻ còn
phụ thuộc một phần lớn vào sự truyền cảm diễn đạt của cô, khả năng của cô
hướng trẻ vào bài học, và sự phối hợp giữa hình ảnh và lời thơ thật linh
hoạt. Qua đó ta thấy việc sử dụng các đồ dùng trực quan cho một tác phẩm
là rất quan trọng và cần thiết.
Muốn cho
trẻ hoạt động tích cực, đạt hiệu quả thì ngay từ đầu năm học nhà trường đã có kế
hoạch cho hội thi làm đồ dùng, đồ chơi và bản thân tôi lúc đó cũng đã có kế hoạch
cũng như phối kết hợp với các cô trong khối để làm ra cho trẻ những bộ đồ dùng
bằng vải là những con rối với đầy đủ các nhân vật, phong màng kể chuyện, mô hình
xoay,...Bản thân tôi phối hợp với phụ huynh sưu
tầm thêm vật liệu sẵn có ở địa phương như sách báo, tranh ảnh để làm đồ
dùng phục vụ cho tiết học.
7. Giải pháp 7: Cho trẻ
làm quen thơ ca, truyện kể theo cách riêng của mình
Trẻ được làm quen thơ ca, truyện kể với nhiều hình thức
khác nhau, khi nói về tính cách của nhân vật, cô viết
lên bảng: tính cách mèo anh, mèo em.
Trẻ được đọc từ chỉ tính cách của 2 nhân vật, sau đó trẻ
thể hiện về tính cách của nhân vật gắn cho phù hợp với nhân vật.
Còn ở tiết dạy trẻ kể lại chuyện: “Chú thỏ tinh khôn”
Cô cho trẻ xem một bức tranh vẽ cá Sấu
há miệng và Thỏ nhảy vào bờ. Và cô hỏi:
Cô đố các con bức tranh vẽ ai? Trong câu chuyện nào? Trẻ trả lời.
Cô kể diễn cảm cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện một lần.
Sau đó, dẫn dắt trẻ chuyển hứng thú sang xem video rồi kể lại cho cô và các bạn cùng nghe nhé.
Cô cho trẻ
xem video về nội dung câu chuyện.
Đàm tthoại
về nội nội dung truyện, giúp trẻ nói lại lời thoại để chuẩn bị kể chuyện theo hệ
thống câu hỏi sau:
+ Các con
vừa xem truyện gì? Nói về nhân vật nào?
+ Thỏ đi
đâu? Gặp ai?
+ cá Sấu
nói gì với Thỏ?
+ Nó đã
làm gì Thỏ?
+ Vì sao Thỏ
thoát được?
+ Chúng
ta cùng kể lại câu chuyện vừa xem.
Cô cho trẻ
kể lại chuyện trên cơ sở nhớ lại nội dung video vừa xem lời đàm thoại. Cô động viên khuyến khích trẻ
cùng tham gia kể chuyện.
Trong quá trình kể cô chỉ dẫn cho trẻ sắc thái của truyện,
giọng cá Sấu như thế nào? Lời kể
dẫn truyện ra sao? Ngữ điệu từng nhân
vật, nhịp độ trong truyện phần nào kể chuyện lớn hơn nhanh hơn.
Cô khuyến khích những trẻ kể sáng tạo truyện.
Nhờ hệ thống câu hỏi trên mà trẻ nhớ, hiểu nội dung cốt
truyện, nắm được trình tự các sự kiện chính. Trẻ làm quen với kiểu câu, các
hình thức khẩu ngữ văn học, biết cách liên kết trong câu chuyện thể hiện nội
dung câu chuyện có logíc mạch lạc, dễ hiểu. Từ đó trẻ dễ dàng kể lại từng đoạn
truyện và biết sử dụng ngôn ngữ mạch lạc, trong sáng, giàu hình ảnh.
+ Chọn nhân vật: trong các vở kịch mà
cho trẻ tham gia chơi như: Cô bé quàng khăn đỏ, Sóc, chú bé Tích Chu,
chó Sói, Cáo, Thỏ….
+ Tìm đạo cụ: Kết hợp với giáo viên
dạy cùng lớp, cùng khối tìm và tự tạo ra đạo cụ cho các vở kịch
như: dùng lá cây, giấy bi tít tạo ra những cái mũ con vật, làm lưỡi
hái cho chú gà trống, cây súng cho bác thợ săn, cái chậu cho cô chị
cả, khung cửi dệt vải cho cô chị Hai, cái giỏ, khăn quàng cho cô bé
quàng khăn đỏ,… dùng những cành cây khô gắn thêm lá tạo thành cây
khế, khu rừng, dùng giấy thùng các tông vẽ trang trí thành ngôi nhà…
+ Chuẩn bị trang phục: Có sự hỗ trợ của
phụ huynh và bạn đồng nghiệp như: may quần áo cho cáo, thỏ, gà trống,
sóc, dê trắng, dê đen, quần áo bà ba cho Bà và Tích Chu,…
Trẻ
có sự tư duy trong việc lựa chọn các hình ảnh phù hợp với yêu cầu của mình, có
sự tự lập trong cách kể cũng như thỏa mãn được mong muốn của bản thân trong việc
thể hiện tính cách nhân vật, tính cách riêng của mình. Từ đó, trẻ có cách ghi
nhớ, trải nghiệm, khắc sâu riêng trong quá trình làm quen văn học.
IV. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
TỪ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Sau khi
áp dụng các giải pháp trên, kết quả trẻ thực hiện của trẻ ở lớp tôi có những chuyển biến rõ rệt. Tôi tiến
hành khảo sát trên trẻ, kết quả lần 2 thu được kết quả như sau:
- Về phía trẻ:
Trẻ rất thích nghe cô kể chuyện hoặc đọc thơ, phát
âm rõ ràng và tham gia trả lời các câu hỏi tích cực, say mê và sôi nổi hơn, các cháu không còn rụt
rè và nhút nhát như lúc đầu đó cũng là động lực để người giáo viên như tôi phấn
đấu đưa trẻ của lớp mình phát triển toàn diện để chuẩn bị
vào lớp 1.
Một số trẻ ngôn ngữ phát âm chưa được chuẩn:
Kiên, Khang, Đào, Lợi,…đã có tiến bộ nhiều, biết cách phát âm chính xác, có nhiều
cố gắng khi phát âm.
Một
vài trẻ chậm hơn bạn, chưa mạnh dạn
thiếu tự tin như: Long, Đăng, Phát, Thành, Nhân,...giờ đây đã mạnh dạn và tích
cực trong hoạt động làm quen văn học.
Một số trẻ hiếu động thiếu tập trung vào hoạt động: Hiển,
Lợi, Quyên, Nguyên, Phương Trúc,...bây giờ ngồi ngay ngắn hơn, ngoan hơn và tập
trung nghe cô kể chuyện, đọc thơ.
Trẻ có nhiều tiến bộ, nhanh nhẹn, sáng tạo hơn trong làm
quen văn học. Trẻ có khả năng sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau để tạo ra
các món đồ chơi về các bài thơ, câu chuyện. Nhiều trẻ được phát huy được
tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong việc tham gia thiết kế các tấc phẩm
văn học cùng cô.
Tỷ lệ như sau:
Tiêu chí so sánh |
Đầu năm |
Cuối năm |
Tỷ lệ đạt |
|||
TT |
Nội dung khảo sát |
Số lượng trẻ |
Tỉ
lệ |
Số lượng trẻ |
Tỉ
lệ |
Tăng/giảm |
1 |
Phát
âm chính xác, rõ ràng, mạch lạc |
13/42 |
30,95% |
39/42 |
92,86% |
Tăng
61,91% |
2 |
Trẻ
có khả năng kể truyện |
11/42 |
26,19% |
38/42 |
90,48% |
Tăng
64,29% |
3 |
Trẻ
thích được nghe cô kể truyện, đọc thơ |
25/42 |
59,52% |
39/42 |
92,86% |
Tăng
33,34% |
4 |
Tham
gia trả lời câu hỏi |
15/42 |
35,71% |
40/42 |
95.24% |
Tăng
59,53% |
- Về phía giáo viên:
Sau khi thực hiện: “Một số giải pháp giúp trẻ 5-6
tuổi tích cực trong hoạt động làm quen văn học ở trường Mầm Non 3-Phường 3-TPVL.
Năm học 2019-2020” đã mang lại nhiều kỹ năng và kinh nghiệm cho bản
thân khi thiết kế hoạt động làm quen văn học cho trẻ, lựa chọn các tác phẩm văn
học sát chương trình giáo dục trẻ 5-6 tuổi, với đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mình
trực tiếp dạy. Qua đó hình thành các kỹ năng, tác phong nghiệp vụ, sáng tạo
trong các hình thức tổ chức hoat động ở lớp cho trẻ.
Cô giáo gần gũi với trẻ hơn nữa để hiểu trẻ thêm từ đó đề
ra các biện pháp phù hợp để rèn cho trẻ. Cô tuyên dương trẻ làm tốt và khuyến khích động viên những trẻ học chưa tập
trung.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải chú ý đến khả năng, đặc điểm của từng trẻ để
có biện pháp giáo dục phù hợp.
Luôn tìm tòi và sưu tầm các vật liệu mở để làm đồ dùng cho trẻ hoạt động. Phối kết hợp cùng với phụ huynh trong
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với bạn bè và đồng nghiệp.
Biết lắng nghe ý kiến đóng góp xây dựng và rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động.
- Về phía phụ
huynh:
Cha mẹ
đã quan tâm hơn trong việc
phát triển khả năng kể truyện, đọc thơ của
con, hỗ trợ cô trong các ngày lễ hội trẻ có tham gia diễn kịch, cũng như các đồ dùng các phế liệu cho lớp để trẻ hoạt động
tốt hơn.
Các bậc cha mẹ đã có thói quen phối hợp chặt chẽ với cô
giáo trong việc dạy ở nhà khuyến khích trẻ tự học và theo dõi giúp đỡ trẻ không
làm thay cho trẻ như vậy mới phát huy được khả năng của trẻ.
V. PHẠM VI ỨNG DỤNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG:
Kinh nghiệm giảng dạy này áp dụng cho tôi trẻ lớp tôi hoạt động tích
cực hứng thú và qua đó trao đổi những kinh nghiệm nhỏ bé của mình đến với các bạn
đồng nghiệp, có thể áp dụng cho tất cả các lớp lá
trong trường mầm non 3, và bạn bè tôi ở các trường mầm non khác với độ tuổi 5-6
tuổi đã được thực hiện đạt
kết quả rất khả quan trên 90%.
Các bạn đồng nghiệp trong khối
lá cũng phần nào áp dụng theo kinh nghiệm mà tôi đã chia sẽ và cũng đã mang lại
hiệu quả đáng kể cho lớp mình.
Có thể áp dụng cho độ tuổi khác khi lựa
chọn các biện pháp điều chỉnh phù hợp với độ tuổi đó.
VI. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1. Kết luận:
Việc
cho trẻ làm quen văn học ngay từ lứa tuổi Mầm non là một cơ sở tốt để
giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người. Thông qua các tác
phẩm văn học giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về trí tuệ - đạo đức -
tình cảm - thẩm mỹ, tích lũy vốn kinh nghiệm sống. Từ văn học giáo dục
nhân cách cho trẻ là hình thành ở trẻ tình yêu thiên nhiên yêu cuộc sống,
yêu con người, qua đó trẻ biết kính yêu ông bà, cha mẹ, anh chị tình cảm
thương yêu quan tâm tới bạn bè, em nhỏ, luôn có thái độ chăm sóc và bảo vệ
vật nuôi cây trồng...
Giáo viên là người có trách nhiệm
truyền thụ cho trẻ những kiến thức, kỹ năng cơ bản như: kỹ năng đọc, nghe,
nói và là người định hướng sự phát triển nhân cách của trẻ. Chính vì thế
mà tôi luôn tích cực bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của mình, luôn tìm tòi
khám phá những cái hay cái đẹp trong từng tác phẩm văn học, tích lũy kiến thức,
hiểu biết về văn học cụ thể là qua các bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng
dao. Tạo cho trẻ niềm đam mê, sự hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm
văn học nói chung và làm quen với thơ nói riêng. Bản thân tôi luôn cố gắng
rèn luyện giọng đọc, rèn luyện phát âm chuẩn, rèn luyện những cử chỉ, điệu bộ của
mình cho phù hợp với từng bài học trước khi lên lớp để giúp cho trẻ tiếp
thu tốt bài học, trẻ ngày càng tiến bộ, phụ huynh yên tâm khi đưa trẻ đến
trường.
Muốn thực hiện tốt giáo dục mỗi giáo viên phải nhiệt
tình, say mê với công việc, có tấm lòng thương yêu trẻ, tôn trọng đối xử công bằng
với trẻ. Tôi luôn cố gắng là tấm gương sáng để trẻ noi theo.
2. Đề xuất:
Nhà trường cần đầu tư kinh phí, mua sắm đồ dùng dạy học phục vụ cho môn văn học
nhiều hơn, giúp cho giáo viên thuận tiện
tổ chức tiết dạy thơ hơn, góp phần
giúp tiết học hấp dẫn, sinh động hơn.
Ban
giám hiệu cần tạo thêm nhiều cơ hội cho giáo viên được tham quan học hỏi kinh
nghiệm ở các đơn vị bạn để trao đổi kinh nghiệm.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã
vận dụng và có hiệu quả ở lớp của tôi, nhân rộng ở các lớp trong trường.
Rất mong được sự góp ý của Ban giám hiệu trường, của các cấp quản
lý giáo dục và các bạn đồng nghiệp, để những kinh nghiệm của tôi
ngày càng được hoàn thiện hơn và mang lại kết quả tốt hơn cho trẻ
trong quá trình giảng dạy.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/