DVTUAN.COM tổng hợp và chia sẻ miễn phí đến thầy cô Skkn Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non.
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
Như Bác Hồ đã nói:
Hiền dữ phải đâu là tính sẳn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
Ý nghĩa của hai
câu thơ trên đã giúp chúng ta nhận thức được rằng mỗi đứa trẻ sinh ra và lớn
lên đều phụ thuộc vào sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì
vậy từ năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” nhằm giúp giáo viên định hướng
trong việc lập kế hoạch giáo dục lồng ghép để thực hiện rèn luyện cho trẻ một
số kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống, hành vi văn minh trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, nhằm xây
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi thói quen tiêu cực giúp
trẻ nhận thức được những hành vi tốt, thái độ đúng đắn và thực hành các kỹ năng
thích hợp. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho trẻ nhiều lợi
ích về mặt sức khỏe, sớm có ý thức, khả năng thích nghi với cuộc sống và làm
chủ bản thân, hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cộng đồng.
Việc xây dựng giáo
dục lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình chăm sóc giáo dục
mầm non vô cùng cần thiết và đó cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
ngành học mầm non. Kỹ năng sống cho trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng: kỹ năng giao
tiếp ứng xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng
hợp tác chia sẻ…Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm
sống của người lớn nhằm hình thành cho trẻ có kỹ năng xử lý với những khó khăn
trong cuộc sống, trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết
vấn đề trong cuộc sống một cách tự lập.
Muốn đạt được điều
đó người lớn phải tạo cho trẻ một môi trường thực tế, cụ thể
để trẻ có cơ hội trải nghiệm thực hành. Nhưng
trên thực tế xã hội hiện nay các gia đình chỉ chú trọng việc dạy trẻ học kiến
thức mà quên đi việc hình thành và phát triển các kỹ năng sống cho trẻ, luôn
bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ có tính ỷ lại, ích kỹ, không quan
tâm đến người khác và các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày rất hạn
chế, từ đó dẫn đến khó khăn cho trẻ trong việc xử lý tình huống bất ngờ xảy
ra. Ở trường, giáo viên chủ yếu đi sâu truyền thụ những kiến thức cho trẻ
qua các giờ học, ít chú trọng đến việc rèn các kỹ năng sống cho trẻ, nên hầu
hết trẻ chưa có vốn kiến thức về kỹ năng sống.
Là giáo viên mầm non nhiều năm trong nghề, nhận
thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôi đã
luôn trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi
có hiệu quả. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp
giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Tôi nhận thấy rằng
đối với trẻ 4- 5 tuổi “ Giáo dục kỹ năng sống” không phải là nói cho trẻ
biết thế nào là đúng, thế nào là sai như ta thường làm. Các phương pháp cổ điển
như bài giảng đi theo những chuẩn mực, cô hỏi trẻ chủ động trả lời sẽ hoàn toàn
thất bại vì chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay
đổi hành vi thì khoảng cách còn rất lớn. Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng
cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau.
Với những lý do trên, năm học này tôi đã
mạnh dạn trao đổi với chị em đồng nghiệp đề tài: “ Một
số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường mầm non” .
2. Điểm mới của đề tài: So với trước đây, điểm
mới của đề tài mà tôi đề cập đến đó là:
- Giáo viên thực sự dạy trẻ hiểu rõ hơn về
kỹ năng sống, điều quan trọng là trẻ có ý thức tự giác, tư duy, mạnh dạn, tự
tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ… hình thành nếp sống
văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp theo quy tắc, chuẩn mực phù hợp.
- Tạo
ra một môi trường giao tiếp thật sự cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa
trẻ với
trẻ và giữa trẻ với môi
trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giải bày tâm sự, nguyện
vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè nhờ vậy mà giáo viên hiểu trẻ nhiều
hơn, trẻ hiểu nhau hơn, từ đó việc hình thành và giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
có hiệu quả.
*
Đối tượng và phạm vi áp dụng đề tài: Một
số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Thực trạng của nội
dung nghiên cứu:
Năm
học 2018 – 2019 bản thân tôi trực tiếp giảng dạy lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi với
tổng số trẻ là 39 cháu. Trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ, tôi nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau:
1.1. Thuận lợi:
Được tham gia tập huấn chương
trình giáo dục kĩ năng sống POKI do phòng tổ chức
Được sự quan
tâm chỉ đạo sâu sát của nhà trường trong việc triển khai kế hoạch nội, dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tổ chuyên
môn hoạt động có nề nếp nên bản thân có cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm
với chị em đồng nghiệp.
Giáo
viên trong lớp có sự phối hợp đồng thuận, nhất trí cao trong việc tổ chức các
hoạt động học tập và vui chơi của trẻ.
Các cháu đã có nề
nếp học tập và vui chơi liên tục từ các lớp dưới lên nên đã có được một số kiến
thức và kỹ năng nhất định.
Luôn
được sự quan tâm chia sẻ và ủng hộ của phụ huynh.
1.2. Khó khăn:
Tuy các cháu
cùng độ tuổi và được theo học liên tục từ các lớp dưới lên nhưng vẫn còn đa số
trẻ chưa mạnh dạn, thiếu tự tin, chưa có tính chủ động.
Các kỹ năng
về nhận thức, sự tự tin, tính tự lập, sự hợp tác, tự phục vụ, quan hệ xã hội, giao
tiếp ứng xử, ý thức bảo vệ môi trường… của trẻ không đồng đều.
Đa số trẻ
nam hiếu động chưa có ý thức trong các hành vi hành động của mình.
Việc xây
dựng lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động trong
ngày chưa xuyên suốt, còn ôm đồm.
Mặt
khác do nhận thức của các bậc phụ huynh luôn coi trẻ là “trẻ con” và hơn thế
nữa là họ cưng chiều con quá mức, luôn làm thay trẻ dẫn đến khiến cho trẻ khó
hình thành các kỹ năng như lao động tự phục vụ, kỹ năng tự bảo
vệ mình, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng bảo vệ
môi trường… thậm chí vì sự nuông chìều mà đôi lúc phụ huynh vô tình chấp nhận
theo cái sai của con trẻ.
Do tác
động của xã hội làm cho trẻ bị ảnh hưởng một số thói quen xấu nên việc rèn
luyện kỹ năng sống cho trẻ có phần khó khăn.
Qua khảo sát đầu năm kết quả cụ thể như sau;
1.3. Khảo sát thực tế trẻ:
BẢNG KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU
NĂM
STT |
Các mặt phát triển |
Số trẻ đạt |
Số trẻ chưa đạt |
||
Số trẻ |
Tỉ lệ % |
Số trẻ |
Tỉ lệ % |
||
1 |
Kỹ năng tự phục vụ |
19 |
48,7 |
20 |
51,3 |
2 |
Kỹ năng tự bảo vệ |
18 |
46 |
21 |
54 |
3 |
Kỹ năng vệ sinh |
19 |
48,7 |
20 |
51,3 |
4 |
Kỹ năng giao tiếp- ứng xử |
17 |
44 |
22 |
56 |
5 |
Kỹ năng bảo vệ môi trường |
16 |
41 |
23 |
59 |
1.4.
Nguyên nhân:
- Do đặc thù của ngành học phần lớn thời gian dành cho công
tác trực tiếp CSGD trẻ
nên ít có thời gian nghiên cứu tài
liệu nên việc lựa chọn các kỹ năng đưa vào từng chủ đề dạy trẻ còn chưa
khoa học
- Tài liệu về chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
chưa được phong phú.
- Một số trẻ được bố mẹ nuông chiều,
thường làm hộ trẻ mọi việc.
- Một số trẻ hiếu động, còn chưa chú
ý và chưa nghe theo lời hướng dẫn của cô giáo.
- Một số phụ huynh chưa hiểu được tầm
quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ.
- Lớp học còn chật, học sinh đông nên còn khó
khăn trong việc tổ chức dạy kĩ năng sống cho trẻ.
2. Các giải pháp
chính của sáng kiến:
* Giải pháp 1: Tạo tình huống và xây dựng môi trường giáo dục
trong và ngoài lớp học:
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ mầm non là tư duy trực quan hình tượng, vì vậy những kiến thức, nôi
dung giáo dục cho trẻ phải cụ thể, gần gũi, dễ hiểu và trẻ được trãi nghiệm
tiếp xúc qua thực tế và thường xuyên như phương châm “mưa dầm thấm lâu” chính
vì vậy tôi đã chọn những hình thức để giáo dực trẻ như sau:
- Hình thức tạo tình
huống:
+ Kỹ năng chào hỏi,
giao tiếp:
Đây là một kỹ năng quan
trọng và cần thiết nhất của con người như câu tục ngữ đã nói “lời chào cao hơn
mâm cỗ”. Trước đây tôi cũng thường xuyên dạy trẻ là phải biết chào khách khi có
khách đến thăm lớp và phải trả lời câu hỏi khi được hỏi không gật hay lắc đầu.
Với phương pháp này thì trẻ lớp tôi cũng đã một phần nào biết chào khách nhưng
trẻ chỉ hoàn toàn thụ động vào sự hướng dẫn và nhắc nhỡ của cô giáo không có
tính chủ động vì vậy tôi đã thực hiện như sau:
Tôi phối hợp với giáo
viên trong trường thường xuyên đến thăm lớp tôi và đặc câu hỏi về sự quan tâm
của mình đối với trẻ để tạo cơ hội cho trẻ có cơ hội thực hành trãi nghiệm cách
chào hỏi và giao tiếp, mỗi lần dạo chơi tôi dẫn trẻ đến từng lớp để thăm lớp
các anh chị, lớp các em từ đó tạo cơ hội cho trẻ được tiếp xúc với nhiều đối
tượng qua đó giúp trẻ mạnh dạn trong giao tiếp và phát huy tính tích cực của
trẻ nhằm hình thành cho trẻ có tính chủ động trong việc chào hỏi.
+ Kỹ năng bảo vệ môi
trường:
Trước giờ hoạt động
ngoài trời tôi cố tình tạo một môi trường “bẩn” có nhiều loại rác như: lá cây,
hộp sữa, bì ohsi…quanh địa điểm chuẩn bị cho trẻ hoạt động để lồng giáo dục cho
trẻ biết phải bỏ rác đúng nơi quy định và biết nhặt rác khi có rác làm cho môi
trường bẩn và sau đó tiến hành cho trẻ lao động làm vệ sinh sân trường từ đó
tôi đã hình thành thói quen cho trẻ biết tự chủ động trong việc bảo
vệ môi trường sân chơi cũng như trong lớp học.
- Hình thức tạo môi
trường giáo dục trong và ngoài lớp học:
Với hình thức này
tôi kết hợp trao đổi với giáo viên trong trường qua các buổi sinh hoạt chuyên
môn bàn bạc đưa ra tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non và khuyến khích vận động chị em sưu tầm tranh ảnh có những hành động đúng
- sai trang trí trong và ngoài lớp học để giáo dục trẻ. Tôi thường
xuyên cho trẻ đi dạo chơi tham quan môi trường của các lớp học và gợi ý cho trẻ
xem tranh và nhận xét về nội dung bức tranh, từ đó giáo dục trẻ thực hiện theo
hành động đúng và tuyệt đối không bắt chước hành động sai. Với những hình ảnh
và việc làm như vậy trẻ đã được khắc sâu và chủ động hơn trong hành động của
mình.
Qua thực hiện giải
pháp trên tôi thấy trẻ lớp tôi đã tiến bộ rất nhiều trẻ biết chủ động chào
khách, mạnh dạn trong giao tiếp, biết nhặt rác khi môi trường bẩn, biết bỏ rác
đúng nơi quy định và ý thức được việc làm đúng, sai của mình.
* Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch tuần theo
từng chủ đề và lồng ghép vào các hoạt động trong ngày
- Xây dựng kế hoạch:
Việc xây dựng kế
hoạch cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng chương trình chăm sóc trẻ, từ
mục tiêu kế hoạch tuần giáo viên có thể đặc ra mục đích yêu cầu cụ thể cho việc
thực hiện kế hoạch từng ngày đạt kết quả. Vì vậy tôi đã chú trọng đưa nội dung
giáo dục kỹ năng sống vào trong kế hoạch tuần nhằm giáo dục trẻ một cách có
hiệu quả. Mỗi tuần tôi chỉ chú trọng đưa vào 1 hoặc 2 tiêu chí và chú ý hơn để
rèn luyện cho trẻ còn các tiêu chí khác chỉ nhắc nhở.
Ví dụ: Với chủ đề:
Trường mầm non
Tuần
1: Tiêu chí biết chào hỏi, biết cách xưng hô
Tuần
2: Tiêu chí đi lại nhẹ nhàng, không chạy nhảy, leo trèo.
Tuần
3: Tiêu chí biết chủ động chào khách, biết bỏ rác đúng nơi quy định
Tuần
4: Tiêu chí biết chủ động rửa tay, lau mặt
Tuần
5: Tiêu chí sắp xếp đồ chơi gọn gàng, đúng nơi quy định
Với việc lên kế hoạch
tuần cụ thể không những giúp trẻ thực hiện có hiệu quả mà còn giúp cho giáo
viên dễ dàng trong việc quản lý hành động của trẻ.
- Lồng vào các hoạt động trong ngày:
Giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ là một nội dung không có hoạt động tách bạch
riêng lẽ mà chủ yếu chỉ lồng ghép vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong
ngày. Chính vì vậy để năng cao chất lượng trong việc hình thành kỹ năng sống
cho trẻ giáo viên phải thường xuyên tổ chức các hoạt động trong ngày sao cho
phù hợp và xuyên suốt. Đối với trẻ mỗi hoạt động trong ngày đều nhằm đạt một
mục đích giáo dục nhất định và hoạt động nào cũng có ưu thế, tính chất riêng
của nó nhưng nó lại hòa quyện và gắn kết với nhau. Thông qua các hoạt động
trong ngày cô giáo luôn gương mẫu và là người hướng dẫn, gợi ý giúp trẻ phát huy
tính tích cực hoặc làm mẫu cho trẻ làm theo. Từ đó giúp trẻ biết vận dụng những
kiến thức, kỹ năng kỹ xảo vốn có vào thực hành luyện tập một cách linh hoạt và
thành thạo. Tôi đã lồng ghép vào các hoạt động như sau:
+ Thể dục buổi sáng: Sau
khi thực hiện bài tập thể dục, điểm danh xong nếu là ngày thứ hai đầu tuần tôi
đưa ra các tiêu chuẩn để thực hiện trong tuần, với những ngày khác còn lại tôi
gợi ý để trẻ nhắc lại nhằm khắc sâu tiêu chí cần thực hiện trong tuần.
+ Hoạt động có chủ định: Thông qua hoạt
động có chủ định giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực “thể chất, nhận
thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, và thẩm mỹ”. Qua việc giáo viên đặt câu hỏi
gợi mở hoặc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi sẽ tạo cho trẻ sự hứng thú, giúp trẻ
phát triển tư duy và pháy huy tính tích cực trong học tập, chủ động phám phá,
tìm tòi biết vận dụng vốn kiến, thức kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống
khác nhau.
Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về một số đồ đồ chơi ở lớp, cô có thể
đặc câu hỏi:
Những
đồ dùng đồ chơi... do ai làm ra?
Cô chú công nhân đã vất vả để
tạo ra những đồ dùng đồ chơi cho các con vì vậy khi sử dụng đồ dùng đồ chơi các
con phải như thế nào?...
Từ đó giáo dục trẻ biết
yêu thương kính trọng người đã làm ra đồ dùng đồ chơi, biết giữ gìn, bảo quản
đồ dùng đồ chơi.
Hoặc thông qua hoạt động âm nhạc tôi tổ chức cho trẻ chơi “đoán
nhanh hát đúng” tôi tổ chức trò chơi như sau:
Chia trẻ thành hai đội
đứng thành hai vòng tròn, cô đúng giữa, cô chỉ tay về một đội bất kỳ rồi nói ký
hiệu của công việc, tiếng kêu hay nơi hoạt động của một con vật nào đó thì đội
đó sẽ hát một bài hát đúng với chức năng cô vừa nêu
Ví dụ: Cô nói: “Meo meo” trẻ hát bài “Thương con mèo hoặc vì sao
mèo rửa mặt”
“Lội
bờ ao” trẻ hát bài “Một con vịt hoặc đàn vịt con”
“Đánh
thức mọi người” Trẻ hát bài “Con gà trống”
“Bay
thấp thì mưa” Trẻ hát bài “Con chuồn chuồn”…
Thông qua việc tổ chức
cho trẻ chơi các trò chơi và cách đặt câu hỏi gợi mở đã giúp trẻ mạnh dạn tự
tin, biết diễn đạt câu từ trọn vẹn hình thành cho trẻ những kỹ năng tư duy,
phán đoán, phát huy tính tích cực trong mọi hoạt động đồng thời giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ.
+ Hoạt động vui chơi (hoạt động
góc):
Trẻ được vui chơi trong
giờ hoạt động góc sẽ tạo cho trẻ nhiều hứng thú và đây cũng chính là cơ hội cho
trẻ tự thể hiện mình qua các công việc của người lớn. Qua đó tôi nhắc nhỡ trẻ
về kỹ năng giao tiếp, thái độ trong khi chơi, biết hợp tác chia sẻ cùng nhau để
hoàn thành nhiệm vụ.
+ Hoạt động ngoài trời:
Cho trẻ vui chơi ngoài
trời sẽ tạo cơ hội cho trẻ được quan sát, ngắm nhìn, trẻ được khám phá trải
nghiệm những sự việc, cảnh vật và hiện tượng xung quanh từ đó trẻ có cảm nhận
về vẽ đẹp của thiên nhiên, môi trường sống của loài vật xung quanh trẻ sẽ giúp
trẻ nhận thức sâu hơn về kỹ năng giữ gìn và bảo vệ môi trường ở trường, lớp,
gia đình và nơi công cộng.
Ví dụ: Cho trẻ lao động nhặt rác vệ sinh sân trường, Chăm sóc cây
ở góc thiên nhiên…
+ Hoạt động vệ sinh, ăn, ngủ:
Hoạt động vệ sinh
ăn ngủ được thực hiện đều đặn, thường xuyên sẽ giúp trẻ có nề nếp thói quen
trong sinh hoạt từ đó giúp trẻ có ý thức biết giữ gìn vệ sinh thân thể, lao
động tự phục vụ và giữ gìn đồ dùng cá nhân. Lúc đầu đến giờ ăn tôi cho trẻ ngồi
vào bàn và ổn định bằng cách đặt câu hỏi “bé ngoan bé biết làm gì”? Trẻ trả lời
bằng bài thơ:
Bé ngoan bé biết vâng lời
Rửa tay thật sạch mới ngồi vào ăn
Đánh răng sau mỗi bửa cơm
Rửa tay lau mặt bé thơm cả ngày.
Thế là tôi nhắc
nhở trẻ đi rửa tay lau mặt, sau khi ăn xong tôi gợi ý cho trẻ đi đánh răng, tôi
nhắc nhở trẻ mở nhỏ nước vừa dùng, không làm ước áo, không vẫy nước làm ước nền
nhà vì nền nhà ước rất dễ trược ngã.
Đến giờ ăn, giờ ngủ tôi
luôn gợi cho trẻ nhớ lại tiêu chuẩn bé sạch, bé ngoan trong tuần để trẻ thực
hiện (giờ ăn không nói chuyện, không bốc tay, không nhai nhồm nhoàm...)
Sau mỗi hoạt động trong ngày mỗi lần trẻ làm được một việc tốt
đúng như tiêu chí trọng tâm trong tuần là được tặng một hình ảnh khuôn mặt cười
gắn lên bảng bé ngoan, trẻ vi phạm sẽ gắn khuôn mặt buồn.
+ Nêu gương cuối ngày:
Nêu gương cuối ngày là
một việc làm quan trọng nhất để tổng kết lại các hoạt động trong ngày của trẻ.
Tôi cho trẻ nêu lên ba tiêu chuẩn đầu tuần để cho trẻ tự nhận xét. Tôi nêu lên
những trẻ nào trong ngày được tặng khuôn mặt vui để khen trước lớp và tặng cờ
đỏ cho trẻ, nhắc nhở những trẻ vi phạm có khuôn mặt buồn rồi tặng cờ xanh để
nhắc nhở động viên trẻ hôm sau cố gắng làm những việc tốt như bạn để được
cờ đỏ. Với việc làm như trên lớp tôi đã sớm đi vào nề nếp và trẻ
đã có tính chủ động
trong mọi hoạt động.
* Giải pháp 3: Thông qua nội dung bài thơ,
câu chuyện
Xuất phát từ đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể chuyện, những nội dung bài
thơ, câu chuyện thường để lại cho trẻ ấn tượng khó phai mờ. Chính vì vậy tôi đã
chú trọng vào từng nội dung của bài thơ câu chuyện để giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
Ví dụ:
Với câu chuyện
“Gấu con bị đau răng” thông qua nội dung câu chuyện gợi cho trẻ biết
được lý do và sao gấu con bị đau răng. Từ đó giáo dục cho trẻ phải đánh răng
sạch sẽ sau khi ăn buổi sang ngủ dậy và mỗi buổi tối trước khi đi ngủ.
Hoặc với bài thơ “Cô dạy” tôi đặc câu hởi gợi mở để giúp trẻ hiểu
rằng vì sao phải giữ gìn tay sạch sẽ và vì sao phải nói lời hay (giữ gìn tay
sạch là để không bẩn áo, phải nói lời hay là để cho miệng xinh đẹp).
Với câu chuyện
“Tích Chu” gợi cho trẻ biết được tính thờ ơ, ham chơi của Tích Chu không biết
quan tâm đến bà dẫn đến hậu quả là bà phải hóa thành chim để bay đi uống nước.
Và hỏi trẻ nếu là trẻ khi có bà hoặc người than bị ốm trẻ sẽ làm gì? Từ đó hình
thành cho trẻ tình cảm yêu thương biết quan tâm chăm sóc đến người thân và mọi
người xung quanh trẻ.
Câu
chuyện “Cáo, thỏ và gà trống” giáo dục trẻ tính thật thà, dũng cảm
không tranh giành đồ chơi của bạn.
Hoặc bài thơ “Ong và bướm” giáo dục tính siêng năng, chăm chỉ phải
hoàn thành nhiệm vụ được giao mới được đi chơi, giáo dục trẻ biết sắp xếp đồ
chơi gọn gàng sau khi chơi.
Chuyện “Cây táo
thần” giáo dục trẻ không tham lam, ích kỹ, biết nhường nhịn và chia sẻ với bạn,
với mọi người.
Hay chuyện “Củ cải trắng” giáo dục trẻ nếu mình làm việc tốt
thì sẽ hưởng được sự quan tâm của người khác và mọi điều tốt lành sẽ đến với
mình.
Chuyện “Qua đường”
giáo dục trẻ biết chấp hành luật giao thông khi tham gia
giao thông.
Ngoài những bài
thơ, câu chuyện có trong chương trình tôi đã sưu tầm thêm một số câu chuyện có
nội dung gần gũi, sát với thực tế để kể cho trẻ nghe vào mỗi buổi chiều nhằm
hình thành và nâng cao chất lượng kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ:
Chuyện “Trong
phòng tắm” nội dung giáo dục trẻ không nghịch nước, chạy nhảy vì khi đang tắm
nền ướt rất trơn, dễ bị ngã.
Chuyện “Cái vỏ
chuối” nội dung giáo dục trẻ biết bỏ rác đúng nơi quy định nếu không sẽ bị dẫm
lên võ chuối sẽ bị ngã và làm bẩn môi trường.
Chuyện “Vì sao bé
nín khóc” nội dung giáo dục trẻ biết kiên nhẫn chờ đợi không lẫy, không giận
hờn làm mẹ buồn.
Chuyện “Kiến con
đi ô tô” nội dung giáo dục trẻ biết nhường nhịn và lễ phép với người lớn.
Chuyện “Chiếc ổ
khóa” nội dung giáo dục trẻ khi đến nhà người khác không phá phách, không tò
mò, tự ý hoặc đòi lấy đồ đạc trong nhà để chơi…
Qua thực tiển áp dụng giải
pháp trên tôi thấy rằng trẻ lớp tôi tiến bộ rất rõ rệt không những giúp trẻ có
ý thức trong mọi hoạt động mà còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và mạnh dạn
trong giao tiếp.
* Giải pháp 4: Phối kết hợp
với phụ huynh
Bên cạnh việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với phụ
huynh để cùng phối hợp giáo dục thêm cho trẻ lúc ở nhà. Vào những buổi họp phụ
huynh lớp, lúc trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh về nội dung tuyên truyền để
các bậc phụ huynh hiểu rằng để giúp trẻ phát triển toàn diện thì việc giáo dục
và hình thành kỹ năng sống cho trẻ là phải bắt đầu ngay từ “tuổi lên
ba”, đó là giai đoạn bức phá về khả năng nhận biết, giao tiếp được thể hiện một
cách rõ rệt qua các hành động của trẻ và được gọi là “khủng hoảng của trẻ lên
ba”. Vì vậy với độ tuổi này phụ huynh không nên làm hộ trẻ, phải hình thành cho
trẻ tính tự lập ngay từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về kỹ năng sống, nhận
biết mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng vượt qua những
thử thách trong mọi tình huống. Chính vì vậy cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là
dạy trẻ thực hiện tốt kỹ năng sống của một con người chính nghĩa.
Việc dạy trẻ kỹ
năng sống phải là một quá trình liên tục và thường xuyên vì đặc điểm của trẻ là
chóng nhớ mau quên do đó những việc làm thường xuyên sẽ giúp trẻ hình thành
thói quen và có kỹ năng tốt.
Trong cuộc sống
hằng ngày nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất trắc có thể xảy ra với
trẻ bằng hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải
quyết, không cấm đoán, áp đặt trẻ, hãy nói những lời khuyến khích trẻ không nên
nói những lời làm cho trẻ thất vọng
Ví dụ: Không nên nói:
Con còn nhỏ thì biết gì,
đó là chuyện của người lớn
Thấy chưa mẹ biết là con
không làm được mà
Những đứa trẻ khác nhỏ
hơn con mà làm được thì con phải làm được
Tại sao con không giống
như các anh chị của con…
Mà nên nói:
Mẹ biết con mà, mẹ chắc
là con sẽ làm được
Con có tiến bộ lắm
Mẹ cảm ơn con đã giúp mẹ
làm việc
Mẹ rất vui vì hôm nay
con mẹ đã biết chủ động chào khách…
Hoặc thay vì nói “Con
không được làm thế này thế kia” thì hãy đưa ra một vài tình huống cụ thể thông
qua thực tế giúp trẻ hiểu được tại sao không được làm như thế.
Ví dụ: Muốn giáo dục trẻ không
được leo trèo, chạy nhảy thì nên liên hệ một trẻ nào đó và kể cho trẻ nghe
chuyện bạn đó bị đau chân hôm nay không đi học được và cho trẻ tìm ra lý do rồi
từ đó giáo dục trẻ và thường xuyên nhắc nhở trẻ khi trẻ chạy nhảy, leo trèo…
Phụ huynh phải tin tưởng
vào trẻ và năng lực của trẻ, tôn trọng ý kiến của trẻ,
không áp đặt ý kiến của mình, không đưa lời giải đáp có
sẵn mà hãy đặt câu hỏi để khiến trẻ phải suy nghĩ và đưa ra câu trả lời, không
vội vàng phê phán đúng – sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận để đưa ra kết
luận.
Chính từ những lời nói
khuyến khích những suy nghĩ của trẻ để tìm cách giải quyết các tình huống cụ
thể đó giúp trẻ dần dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng vào trong cuộc sống
hằng ngày. Từ đó dần hình thành cho trẻ kinh nghiệm kỹ năng ứng xử, hành vi văn
minh và bảo vệ mình trong cuộc sống sau này.
3. Hiệu quả của sáng kiến:
Qua
việc áp dụng một số kinh nghiệm để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở lớp
tôi phụ trách, bản thân tôi đã thu được một số kết quả như sau:
* Đối
với giáo viên:
- Biết cách lựa chọn và
xây dựng kế hoạch nội dung kỹ năng sống cho trẻ một cách khoa học, liên hoàn.
- Biết cách tạo tình huống và xử lí
tình huống khi dạy kĩ năng sống cho trẻ.
- Phụ huynh đã có thói
quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống
* Đối
với trẻ:
- Trẻ
mạnh dạn, tự tin chủ động trong giao tiếp.
- Trẻ
biết nói và trả lời câu hỏi rõ ràng, trọn câu.
- Biết
yêu thương, giúp đỡ, đoàn kết và nhường nhịn bạn.
-
Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, chủ động làm một số công việc như: sắp
xếp đồ chơi gọn gàng, biết nhặt rác và bỏ rác đúng nơi quy định.
-
Trẻ có ý thức trong mọi hoạt động (không nói chuyện riêng trong giờ học, giờ
ăn, giờ ngủ, biết cảm ơn và xin lỗi, trao đổi nhỏ trong khi chơi, không leo
trèo, ít chạy nhảy).
- Trẻ có kĩ năng sống thể hiện
rõ trong bản điều tra trẻ trong thời gian tôi áp dụng giáo dục vừa qua:
BẢNG KHẢO SÁT TRẺ
STT |
Các mặt phát triển |
Số trẻ đạt |
Số trẻ chưa đạt |
||
Số trẻ |
Tỉ lệ % |
Số trẻ |
Tỉ lệ % |
||
1 |
Kỹ năng tự phục vụ |
24 |
61,5 |
15 |
38,5 |
2 |
Kỹ năng tự bảo vệ |
22 |
56 |
17 |
44 |
3 |
Kỹ năng vệ sinh |
21 |
54 |
18 |
46 |
4 |
Kỹ năng giao tiếp- ứng xử |
20 |
51,3 |
19 |
48,7 |
5 |
Kỹ năng bảo vệ môi trường |
20 |
51,3 |
19 |
48,7 |
Với kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ bước đầu đã thực hiện thành công ở lớp tôi, với hướng phấn đấu
giáo dục trẻ kĩ năng sống đến cuối năm, kết quả giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
sẽ đạt 95% - 100% về các mặt phát triển.
III. KẾT LUẬN
1.
Ý nghĩa của đề tài:
Giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là việc làm vô cùng quan trọng bởi thông qua
giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ tự tin chủ động và biết cách xử lý các tình
huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy, sáng tạo của trẻ góp phần thúc
đẩy sự phát triển nhân cách và hình thành cho trẻ các nề nếp thói quen, hành vi
văn minh trong sinh hoạt hiện tại. Trẻ em được giáo dục kỹ năng
sống tốt thì khả năng thích nghi và thành công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, đây
chính là bước đầu trong việc đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách
nhiệm và khả năng tự chủ trong tương lai.
Thực tế, kỹ năng sống của trẻ lứa tuổi mầm non chỉ đơn giản là giao tiếp
tốt, biết vui chơi với bạn, biết xin lỗi hoặc cảm ơn đúng lúc, để thích nghi
với môi trường khác nhau….Một đứa trẻ chờ đến lượt chơi sẽ là người biết kiên
nhẫn, một đứa trẻ được tập thích nghi với đám đông sẽ trở thành người biết tự
chủ và tự tin sau này. Đó chính là những lợi ích về lâu dài để các bậc phụ
huynh ngày nay quan tâm nhiều hơn đến việc trang bị kỹ năng sống cho con ngay
từ tuổi mầm non. Cũng cần nói thêm rằng trẻ lứa tuổi mầm non chỉ có thể tích
luỹ kỹ năng sống thông qua những trải nghiệm thực tế. Trong mỗi đứa trẻ đều có
những tài năng tiềm ẩn. Sự chuẩn bị kỹ càng từ lúc đầu đời chính là chìa khoá
thành công cho tương lai mỗi cháu. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ lứa
tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. Giáo
viên hãy luôn khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động, tự tin vào bản
thân. Đồng thời, khuyến khích trẻ khi tham gia vào trò chơi, cần biết cải tiến,
sáng tạo các cách chơi và cố gắng đạt mục đích, đây chính là những kỹ năng cơ
bản để sống và làm việc sau này. Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng
tìm tòi một cách hăng hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông
tin mà cô giáo, cha mẹ mới tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui,
vừa thử thách.
Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những
hành vi, lời nói tốt của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cô giáo, những người lớn cần
nhẹ nhàng, khéo léo khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, không nên hạ thấp
khả năng của trẻ, không dọa nạt hay bắt trẻ phải làm những việc quá sức của
trẻ. Người lớn không nên nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá, không nên nhồi nhét
lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận từng lứa tuổi của trẻ. Người
lớn cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu
bộ phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ,
chia sẻ những cảm xúc với người khác bằng lời nói và hành động cụ thể. Đây là một trong những kỹ năng hết sức quan
trọng để khi lớn lên trẻ có đủ tự tin, bản lĩnh trong cuộc sống. Nhằm giúp trẻ
hình thành tính tự lập và khả năng biết tự chăm lo cho mình, không bị phụ thuộc
vào bố mẹ, ngay từ nhỏ chúng ta cần để trẻ làm tất cả mọi thứ mà chúng có thể,
đừng vì quá thương con mà nuông
chiều chúng quá mức. Vì thế cần
có phương pháp dạy con phù hợp với độ tuổi và
nhận thức của trẻ để trẻ
có thể tiếp thu và học cách sống tự lập tốt hơn.
2. Kiến
nghị, đề xuất:
* Đối với Phòng giáo dục &
Đào tạo:
Tăng cường liên hệ với các chương trình giáo dục kĩ năng sống để
tổ chức tập huấn cho giáo viên toàn huyện về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
* Đối với
nhà trường: Trang bị thêm tài liệu về kỹ năng sống để giáo viên nghiên
cứu học tập thêm kinh nghiệm.
Trên đây là một số kinh
nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi, bước đầu đã
thực hiện thành công ở lớp tôi phụ trách. Với thời gian nghiên cứu hạn hẹp, nên
cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý bổ sung của các
cấp lãnh đạo, sự chia sẻ đóng góp chân tình
của các
bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được tốt hơn và được áp
dụng rộng rãi cho trẻ 4 – 5 tuổi ở các trường mầm non trong năm học
này và những năm học tiếp theo đạt hiệu quả cao.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/