Skkn một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

 


Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

1.     Tên đề tài:

 MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1

2.     Đặt vấn đề:

Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng.

Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.

Đặc biệt đối với học sinh lớp 1, việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng bởi các em có độc tốt được ở lớp 1 thì học các lớp tiếp theo các em mới năm được những yêu cầu cao hơn trong môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1 từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản. Đó là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng việt là hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay ở trường Tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là lí do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là lý do khiến nhiều trường hợp học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc.

Ở lớp 1 các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, nắm chắc kiến thức và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập để đạt được kết quả tốt hơn học tập, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”.


3. Cơ sở lý luận:

a.     Cơ sở tâm lí học:

 Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ .Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi, ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang một loại hoạt động mới, hoạt động học tập với đầy đủ ý nghĩa của nó. Các em trở thành những “cô, cậu học sinh”, có một “địa vị” mới trong gia đình và ngoài xã hội. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Ở độ 6-7 tuổi khả năng phân tích , tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh , từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ .

b.     Cơ sở ngôn ngữ học của việc rèn kỹ năng đọc:

Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv…

Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài  mà các em viết.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

4.Cơ sở thực tiễn:

a/ Thuận lợi:

+ Giáo viên:

 - Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học v v… cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.

- Được sự giúp đõ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.

Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm.

+ Học sinh: Ở độ 6-7 tuổi  của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv….

Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, và cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.

b/ Khó khăn

    Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau:

+ Giáo viên:

- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư.

   -   Đèn chiếu , máy tính trang bị trong phòng học chưa có , mỗi lần dạy phải kết nối mất nhiều thời gian .

+ Học sinh:

- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.

- Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu  phát âm sai  l / n ; r/d ; ch/tr...

-  Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm vườn không , chưa quan tâm đúng mứcđến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để  kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.

-  Một số trường hợp học sinh do nhà ở xa phải tam trú trên địa bàn nơi trường đóng , cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho người trông nom và nhà trường  nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc  học tập của các em .

Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và trước thực tế trên của lớp thì với yêu cầu của chương trình  môn Tiếng Việt tiểu học. Tôi có băn khoăn suy nghĩ là phải làm gì và làm như thế nào để các em phát âm chuẩn, đọc đúng, đọc diễn cảm.

5. Nội dung:

5.1 Chương trình sách giáo khoa:

Chương trình Tập đọc trong sách Tiếng Việt 1 chỉ có 13 tuần bao gồm cả nội dung ôn tập và thi. Bên cạnh đó học sinh vừa chuyển từ phần vần sang tập đọc thì mục tiêu chính là giúp các em nhận diện chữ để đọc đúng, đọc trôi chảy lưu loát, biết ngắt nghỉ hơi hợp lý, lưu ý cả cách đọc nhấn giọng.

        Về tốc độ âm lượng đọc: Mỗi bài Tập đọc có tốc độ âm lượng đọc khác nhau. Như vậy người giáo viên cần phải nắm chắc các kỹ thuật trên để làm mẫu cho học sinh và hướng dẫn truyền thụ lại cho các em những kỹ thuật đó. Khi học sinh đã hoàn chỉnh các kỹ thuật trên cũng chính là đã đạt đỉnh cao của phương pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học.

      Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1:

Chương trình Tiếng Việt 1 chia thành 3 phần cơ bản.

+  Học vần:  Chữ cái:     Tuần 1 - Tuần 6

                     Vần     :      Tuần 7 - Tuần 24

+  Tập đọc:   Tuần 25 - Tuần 35.

Chương trình Tập đọc lớp 1 bao gồm cả phần nội dung kiến thức mới và nội dung kiến thức ôn tập là 13 tuần. Trong đó cũng được phân thành các chủ đề sau:

+  Chủ đề nhà trường          : 4 tuần

+  Chủ đề gia đình               : 4 tuần

+  Chủ đề thiên nhiên - Đất nước: 4 tuần

    Riêng tuần 35 dành cho phần ôn tập và kiểm tra.

- Các bài Tập đọc được xếp theo chủ đề gần gũi, đan xen, kết hợp, phân bố rất hợp lý.

- Nội dung là những bài văn, bài thơ, những câu chuyện ngắn, hay, hấp dẫn, gắn với cuộc sống sinh hoạt của các em.

- Đặc biệt ở mỗi bài Tập đọc thường có tranh minh hoạ với màu sắc đẹp, hình ảnh sinh động phù hợp với nội dung từng bài.

5.2. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1:

Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau:

a/ Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm.

- Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh

 Không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo.

 Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao.

            Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau :

b/ Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

* Biệp pháp tác động giáo dục

-Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học:

Đề nghị  và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.

Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của

con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.

-Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng công nghệ thong tin trong dạy học  , qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc .

-Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.

- Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với nột học sinh đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.

Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm

 giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu.Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.

*Phần học các nét cơ bản:

Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.

* Phần học âm:

Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.

Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu.

Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.

VD: 

       Âm          -  a, g –

+ Âm  g   gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải.

   a   cũng có 2 nét : Nét cong kín  bên trái và nét móc ngược  bên phải.

+  Âm a   gồm 2 nét : Nét cong kín và nét cong phải.

   g     gồm 2 nét : Nét cong kín và nét khuyết dưới

Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cất tạo  và tên gọi của các âm.

VD:

+ Âm  d:    gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải.

                                       Đọc là : “ dờ”

+ Âm  b :         gồm 2 nét: Nét cong kín  nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái

                             Đọc là : “bờ”.

Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.

VD:

+ Các âm ghép:    ch     -      c

                              nh    -      n     

                      th     -      t

                      kh     -     k

                     gh    -      g

                     ph    -      p

                     ngh   -     ng

+ Còn lại các âm :

                     gi,tr, qu,ng  tôi cho học kỹ về cấu tạo

+ Phân từng cặp :

                              ch  -   tr ,      ng  -  ngh,     c - k,       g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết chính tả.

   - Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau) đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này  nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết , nhiều  giúp các em ghi nhớ tên âm .

Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm nhiều cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ….. từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

*Phần học vần

 Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.

Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen:nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.

VD:         Học vần ay :

         1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ay : vần ay gồm 2 âm: âm a và âm y đứng sau

               Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm y đứng sau.

          2/ Đánh vần vần ay : 

·                                  Hướng dẫn học sinh: âm a đứng trước , ta đọc a trước, âm y đứng sau ta đọc y sau  : a_ y _ ay .

·                                  Đọc trơn vần:                 : ay

Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh sử dụng bộ thực hành ghép chữ dành cho lớp Một  để học sinh tìm và ghép âm , thanh , tiếng mới trong mỗi bài Học vần .

Ví dụ : Yêu cầu các em: chọn đúng hai âm : a và y

                            Ghép đúng vị trí          : a trước y sau

Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ay

Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế , nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoaTiếng  việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc.Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu

ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.

          Luôn đưa ra cho học sinh  so sánh vần đã học với vần hôm nay học để học sinh so sánh .

VD: dạy vần ay cho học sinh so sánh với vần ai

 

 

 

 

 


Từ đây học sinh tìm ra âm giống nhau âm nào, khác nhau âm nào? Rồi so sánh cả hai vần trong bài học: ay / ây.Từ đây giúp các em có kỹ năng so sánh đối chiếu và khắc sâu các vần trong phân môn Học vần .

VD: dạy vần ay có từ máy bay .

Sau khi học sinh nắm vững vần ay, nhìn và đọc được vần ay một cách chắc chắn. Giáo viên đưa ra từ máy bay và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ay (âm b)  thanh gì ở trên vần ay(thanh ngang) vậy ta có thể ghép và đánh vần : bờ - ay–  bay- bay , đọc trơn : bay , ghép từ :máy bay .

Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học.

 

*/ Phần tập đọc:

- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài  là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh.Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.

VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1)

 1/ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:

- GV: Tiếng “trường” gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?

- HS: Tiếng “trường" gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.

- GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?

- HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.

- GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?

- Hs: Trường.

Rồi cho học sinh đọc nối tiếp:     trường em.

2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường

- GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.

- GV: Vần ương gồm có mấy âm?

- HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.

- GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?

- HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.

- GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.

- HS: ươ- ngờ- ương/ ương

- GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương.Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?

- HS: Trờ - ương – trương- huyền – trường / trường

và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.

c / Những phương tiện dạy học:

Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:

- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.

- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu.

- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.

- Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học .

- Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên.

d/ Phương pháp và hình thứ dạy học môn Tiếng Việt lớp 1:

Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là vạn năng , giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học :

* Phương pháptrực quan

Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật,tranh ảnh tự nhiên , hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu .

Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l , giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được . 

* Phương pháp đàm thoại, vấn đáp

            Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.

VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….)

-  Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anh-

chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu.Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.

* Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.

Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh giỏi – khá tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn.Còn đối với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên. Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô.Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi ( nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv… để các em thích thú và cố gắng hơn.

* Phương pháp học nhóm

        Ngay từ đầu năm học qua khảo sát , phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em học tốt ngồi gần em yếu để giúp bạn học tập, yêu tiên những học sinh yếu được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học tôi cũng cố gắng gọi các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để học sinh yếu đọc theo học sinh giỏi và học sinh yếu cũng được luyện tập nhiều hơn .

* Phương pháp tổ chức các trò chơi

Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.

VD:  Trò chơi “Đọc nhanh – Đọc đúng”

Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh,  đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học sinh trung bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.

Hay trò chơi “Chỉ nhanh – Chỉ đúng”

Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh khá, giỏi ) đọc cho hai học sinh còn lại chỉ vào âm, vần , tiếng , từ do bạn đọc. Trò chơi này học sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi.

·  Thi đọc đúng các từ, cụm từ có các phụ âm hay mắc lỗi khi đọc.

·  Thi đọc nối tiếp đoạn văn, câu thơ, khổ thơ trong bài đọc thuộc lòng.

·  Thi tìm các từ còn thiếu trong đoạn văn, thơ.....

* Phương pháp nhận xét nêu gương.

Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.

VD: Bạn Thắng, bạn P.Trân đọc to, rõ ràng vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt, đọc hay hơn.

 Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : đọc chưa thông,đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.

Và tôi đã cũng đọc với các bạn nhỏ trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh  thành tiếng vv…

6. Kết quả nghiên cứu:

Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1. Tôi thấy kỹ năng đọc của các em học sinh tiến bộ hẳn lên .

-  Số học sinh yếu giảm dần trong năm học:

TSHS/34

Đọc ngọng

Đọc sai p/âm

Đọc sai dấu

Đọc đúng

Đọc

diễn cảm

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

Khảo sát cuối HKI

2

5,8

7

20,5

5

14,7

20

58,8

0

0

 

   Đây là một  kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của cả thầy và trò trong quá trình rèn luyện, đã góp phần vào việc hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, thực sự nâng cao hiệu quả của giờ dạy, phát  huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú say mê của học sinh.

 

7. Kết luận:

Để mỗi tiết học mang lại hiệu quả cao, người giáo viên phải đầu tư thời gian một cách hợp lý nhằm lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho kỹ càng, phù hợp. Đồng thời người giáo viên phải thực sự năng động, sáng tạo, luông trăn trở tìm tòi suy nghĩ, hình thức tổ chức dạy học, ví dụ: có nhiều tiết dạy giáo án điện tử để gây hứng thú trong học tập cho học sinh; sao cho mọi học sinh đều có niềm say mê, hứng thú trong học tập.

Trong quá trình dạy - học Tập đọc phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. học sinh lớp 1, các em thích được động viên, khuyến khích, thích được chiều chuộng, gần gũi. Để thực hiện mỗi tiết dạy, giáo viên cần hiểu thật rõ, nắm vững nội dung, yêu cầu của từng tiết, toàn bài phải đọc giọng điệu chung như thế nào, tốc độ, cường độ, chỗ nào phải nhấn giọng, hạ giọng, từ nào, câu nào học sinh hay đọc sai, đọc lẫn… để giờ dạy có hiệu quả.

Nắm chắc đặc trưng của phân môn Tập đọc 1, trong giờ học, tôi phân bố thời gian theo trình tự giáo án nhưng chú trọng các yếu tố.

Đọc mẫu của giáo viên: Đọc mẫu nhằm giới thiệu, tạo hứng thú và tâm thế học tập.

Nếu giáo viên đọc mẫu cho học sinh tốt cũng đã dạy cho học sinh được rất nhiều. Đọc câu, đoạn nhằm minh họa, hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh tự tìm cách đọc. 

Trong chương trình Tiếng Việt mới, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rõ ràng hơn, đó là rèn luyện cho học sinh các kỹ năng đọc, nghe và nói. Đọc là quá trình tiếp nhận thông tin; do đó các kỹ năng đọc, nghe và nói có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự tạo thành các kỹ năng này giúp học sinh đạt kết quả cao trong giao tiếp. Sách giáo khoa Tiếng Việt mới thể hiện rõ quan điểm giao tiếp qua việc lựa chọn hệ thống ngữ điệu cho dạy học.

Qua quá trình tìm hiểu công việc học tập của học sinh và công tác giảng dạy của giáo viên đối với phân môn Tập đọc trong trường tiểu học, đồng thời thông qua chất lượng kiểm tra cuối năm, tôi thấy lớp 1A có nhiều tiến bộ. Song kết quả đạt được chưa hẳn là cao, bởi sự tìm tòi sáng tạo trong chuyên môn còn hạn chế. Vì vậy kết quả đạt được chưa được như mong muốn. Dạy Tập đọc quả là một vấn đề không đơn giản chút nào, nên muốn có kết quả cao thì cả thầy lẫn trò đều phải cố gắng, phải kiên trì trong quá trình rèn đọc. Muốn vậy giáo viên phải luôn luôn cố gắng đọc đúng, đọc chuẩn, diễn cảm.

Ngoài ra còn phải nêu cao tinh thần trách nhiệm của người giáo viên, luôn cải tiến phương pháp soạn giảng, sửa lỗi kịp thời cho từng học sinh.

Qua thực tế, tôi thấy mình cần cố gắng rèn luyện, học tập nghiên cứu tài liệu, sách báo, học hỏi những đồng nghiệp giàu kinh nghiệm giảng dạy.

Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau 1 năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đấu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm  của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau.

8. Đề nghị: 

- Đối với nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng Việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn .

- Đối với giáo viên:

+ Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán được tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để giải quyết tình huống đó.

+ Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh.

+ Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, dức tính chịu khó kiên trì, với đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của mỗi giáo viên.

+ Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũivà  tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học học, và yêu thích môn học.

-  Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dung học tập. Có ý thức tự giác trong học tập .

Trên đây là một số ý kiến nhỏ của bản thân. Rất mong thầy, cô và các đồng nghiệp quan tâm góp ý và bổ sung để nâng cao chất lượng giờ Tập đọc tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn!


9. Tài liệu tham khảo:

- Đặng Thị Lanh (CB), Sách Tiếng Việt tập 1, 2, NXB GD, 2002.

- Đặng Thị Lanh (CB), Sách GV Tiếng Việt tập 1, 2, NXB GD, 2002.

- Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Giáo dục học, tập 1, NXB GD, 1987.

- Lê Văn Hồng (CB): Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, NXB GD, 2002.

- Phan Trọng Ngọ, Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, NXB ĐHSP, 2005

- Nguyễn Văn Bản, Phạm Thị Sâm, Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học 1, NXB GD, 2006

Nguồn: ST

Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC