Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, đất nước đang trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên rất cần những con người có tri thức, có khoa
học kỹ thuật. Trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi nền giáo
dục phải thay đổi mục tiêu đào tạo, cải tiến lại nội dung và phương pháp dạy
học. Đó là việc làm rất bức xúc và cần thiết hiện nay.
Chính vì vậy, chất lượng dạy và học trong
nhà trường đang là vấn đề được các nhà giáo dục hết sức quan tâm. Đây là một
trong những việc làm quan trọng, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. Vì
thế, biết bao thầy cô giáo ngày đêm miệt mài nghiên cứu để có những sáng kiến
mới, những kinh nghiệm hay, nhằm cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với
nhận thức của học sinh.
Trong giáo dục phổ thông nói chung và ở
trường tiểu học nói riêng, môn học Tiếng Việt là một môn quan trọng, chiếm vị
trí chủ yếu trong chương trình. Môn này có đặc trưng cơ bản là: Nó vừa là môn
học cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng được
những mục tiêu, nhiệm vụ của từng bài học, vừa là công cụ để học tập tất cả các
môn học khác. Trẻ em muốn nắm được kỹ năng học tập, trước hết cần nghiên cứu
tiếng mẹ đẻ chìa khóa của nhận thức, của sự phát triển trí tuệ đúng đắn, nó cần
thiết cho tất cả các em khi bước vào cuộc sống. Ở nước ta, môn Tiếng Việt có
vai trò quan trọng, là một môn học chính, trong đó không thể không kể đến môn
Tập đọc.
Tập đọc là một phân môn có vị trí quan
trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Dạy tốt phân môn
Tập đọc không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho
các em vốn từ ngữ phong phú tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác.
Đầu tiên trẻ phải học đọc sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp các em lĩnh hội
được ngôn ngữ, dùng trong giao tiếp và hoạt động học tập. Nó là điều kiện để
cho học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cho cả đời. Phân môn Tập
đọc còn trau dồi cho học sinh kiến thức Tiếng Việt, kiến thức văn học, kiến
thức đời sống giáo dục tình cảm, thầm mĩ. Tập đọc là môn khởi đầu, đồng thời
cũng là công cụ học tập không chỉ trong nhà trường mà còn trong cuộc sống nói
chung. Trước hết môn tập đọc giúp cho học sinh rèn kĩ năng đọc đúng, ngắt giọng,
nhấn giọng, đọc diễn cảm một bài văn, khổ thơ làm tiền đề cho việc tìm hiểu
bài. Các quá trình đó có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho
nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn hóa của dân tộc,
tiếp thu nền văn minh của loài người thông qua sách vở, biết đánh giá cuộc
sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động học, tình cảm thẩm mĩ của các em được nâng
cao nên tầm hiểu biết để nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức của
các em có chiều sâu hơn. Đọc đúng, đọc hay cũng là kĩ năng của ngôn ngữ văn
học. Qua đó có tác dụng tình cảm, đạo đức cao đẹp cho người học sinh. Đồng
thời phát huy óc sáng tạo và khả năng tư duy như quá trình phân tích tổng hợp
cho các em.
Mục đích của quá trình dạy học ở bậc tiểu
học là cung cấp trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã
hội. Mục đích đó được hình thành thông qua việc đổi mới chương trình nội dung
và phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ
trẻ, nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tính độc lập suy nghĩ của các em, để đáp
ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực và nhân tài cho đất nước.
Theo tinh thần đổi mới
phương pháp dạy và học, phân môn Tập đọc là môn học rất cần phải tạo điều kiện
cho học sinh tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong mọi hoạt động học
tập và rút kinh nghiệm và thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Với tầm quan trọng và thực tế trên,
việc rèn kỹ năng đọc theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập trong quá trình
giảng dạy phân môn Tập đọc là một nhân tố góp phần vào việc giáo dục học sinh
là một việc làm thực tiễn, có ý nghĩa sâu sắc. Trong kinh nghiệm này tôi xin đề
xuất một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh thông qua việc “Xây dựng bài tập rèn kỹ năng đọc theo hứơng
tích cực hóa hoạt động học tập cho học sinh lớp 2.”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
- Mục tiêu giúp học sinh học tốt phân môn
tập đọc các em sẽ học tốt các môn học khác trong chương trình Tiếng Việt.
- Giúp học sinh có cái nhìn sâu rộng về vạn vật xung quanh, từ đó các em
có khả năng diễn đạt tốt trong giao tiếp.
- Học sinh học tốt phân môn tập
đọc này các em sẽ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong cuộc sống.
- Giúp các em thích thú khi học môn tập đọc.
- Tôi chọn đề tài này nhằm tiếp cận, vận dụng có hiệu quả các phương
pháp dạy học. Qua đó đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp
2 theo hướng đổi mới.
- Xây dựng, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy – học phân môn tập đọc theo hướng lấy học sinh làm
trung tâm.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu qua nhiều
năm giảng dạy thực tế ở lớp 2 của trường Tiểu học.
- Nghiên cứu qua tài
liệu, sách giáo viên lớp 2, sách thiết kế lớp 2, sách tiếng việt lớp 2, sách
tham khảo.
- Nghiên cứu học tập qua
các bạn đồng nghiệp trong trường và các trường bạn.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Do điều kiện có hạn vì thế
tôi chỉ tập trung nghiên cứu: “Rèn kỹ
năng đọc theo hứơng tích cực hóa hoạt động học tập cho học sinh lớp 2.” trong
môn tập đọc, nhằm nâng cao chất lượng học Tiếng việt cho học sinh lớp 2a3
trường tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong đề tài này tôi nghiên
cứu qua các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thuyết
trình.
- Phương pháp đàm thoại
gợi mở.
- Phương pháp thực hành
luyện tập.
- Phương pháp thống kê….
II.
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Trong trường tiểu học Tiếng
Việt là môn học quan trọng, có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho học
sinh, được thể hiện qua bốn dạng hoạt động: nghe – nói – đọc – viết. Trong đó
tập đọc là phân môn đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ
năng quan trọng. Kỹ năng đọc. Vì vậy việc tìm hiểu một liệu pháp, để nâng cao
hiệu quả giờ dạy phân môn tập đọc, là một việc làm hết sức cần thiết của người
giáo viên tiểu học.
Đọc là một hoạt động tiếp
nhận thông tin thông qua kênh chữ. Hoạt động đọc chỉ xảy ra khi người đọc tiếp
nhận được nội dung, kiến thức trong bài đọc. Mà người đọc dùng mắt, nhìn, miệng
đọc, tâm để cảm thụ, phân tích nội dung thông tin vừa đọc.
2.
Thực trạng của vấn đề:
Nhiều năm giảng dạy và làm công tác dạy tiếng
việt ở bậc tiểu học nói chung và dạy tập đọc ở lớp 2 nói riêng tôi nhận thấy:
Khả năng tiếp thu môn học Tiếng Việt của các em cũng nhiều hạn chế so với các
môn Toán hay Tự nhiên Xã hội, ở phân môn tập đọc lớp 2 đa phần các em đó đọc
được, song một số em đọc cũng chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu
chấm, dấu phẩy, nhiều em phát âm chưa phân biệt rõ phụ âm đầu l/n; tr/ch; s/x
đặc biệt học sinh trường tôi đang công tác thì đa số các em đọc con ngọng phụ
âm l/n, về kĩ thuật đọc chưa thể hiện được tình cảm, nội dung mà văn bản đề cập
tới. Ví dụ như các em chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ trọng
tâm, từ chìa khoá, trong những trường hợp sắm vai hay đối thoại các em cũng
lúng túng, nhiều em cũng thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của mình.
Đối với đối tượng học sinh đọc còn chậm các em chưa xác định được đâu là giới
hạn những câu đối thoại của mình, với thực tế trên tôi đi sâu vào nghiên cứu
vấn đề rèn kỹ năng đọc cho học sinh khối 2 với mong muốn tích lũy thêm cho bản
thân những kiến thức và kinh nghiện chuyên môn nhằm đạt hiệu quả cao trong việc
dạy và học.
Khi
tiến hành làm sáng kiến này tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn tập đọc
lớp 2 để tìm hiểu nội dung cấu trúc của
chương trình, tìm hiểu việc học của các em, tìm hiểu các tài liệu hướng dẫn của
ngành, nghiên cứu rút kinh nghiệm qua từng tiết dự giờ. Nghiên cứu tài liệu có
liên quan đến phân môn Tiếng Việt nhất là phân môn tập đọc.
Quan sát đội ngũ giáo viên thường xuyên sử
dụng phương pháp gì? Những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong quá trình rèn đọc
cho học sinh.
Thường
xuyên dự giờ của giáo viên dạy khối 2 để rút kinh nghiệm trong quá trình dạy
học, nhất là môn tập đọc.
Một hạn chế rất phổ biến ở giáo viên khi dạy
Tập đọc là không phân biệt được sự khác nhau giữa tiết Tập đọc và tiết Tập đọc
- học thuộc lòng. Nhiều giáo viên chỉ thấy sự khác nhau ở các lớp đầu cấp khi
cho học sinh đọc đồng thanh, mà quên rằng nhiệm vụ chủ yếu của tiết Tập đọc là
luyện đọc cá nhân, còn nhiệm vụ của tiết Tập đọc - học thuộc lòng là vừa phải
luyện đọc vừa kết hợp rèn trí nhớ, ít chú ý đến đối tượng học sinh đọc chậm nhiều
giáo viên cố tình "bỏ quên" đối tượng này, coi như không có các em
trong lớp.
Có một số giáo viên mặc dù có nhiều kinh
nghiệm trong giảng dạy, nhưng do phương pháp dạy học truyền thống đó tiềm tàng,
khả năng nắm bắt phương pháp mới cũng hạn chế. Các bước lên lớp chưa linh hoạt.
Vì vậy tiết Tập đọc còn buồn tẻ, đơn điệu. Các em học vẹt. Khâu thực hành còn
yếu, nhất là khâu luyện đọc, đặc biệt là rèn đọc diễn cảm cho học sinh.
Trong những năm gần đây một số phụ huynh có
quan tâm đến con em mình như quan tâm học tập ở nhà, cũng như chuẩn bị bài hoặc
mua đầy đủ đồ dùng học tập,mua sách tham khảo cho con em đọc…
Nhiều học sinh thích đọc trước lớp cho cả lớp
nghe và nhận xét.
Nội
dung chương trình Tiếng việt ở sách giáo khoa khá gần gũi với cuộc sống hàng
ngày của các em. Chương trình nội dung gắn kết với các môn học khác như luyện
từ và câu, chính tả, kể chuyện, tập làm văn…
Học sinh sử dụng cách đọc
không có điểm nhấn hoặc nhấn giọng vào những tiếng không có trọng âm, khiến cho
giọng đọc trở nên đều đều, buồn tẻ hoặc làm cho nội dung thông báo bị hiểu sai
lệch. Ngắt giọng không chính xác ở các câu văn dài, có cấu tạo ngữ pháp phức
tạp (ngắt giọng ngẫu hứng theo nhịp thở). Học sinh đọc sai lệch do ảnh hưởng
của vùng miền.
Nhờ
nhiều năm dạy lớp 2 nên tôi áp dụng đổi mới phương pháp dạy học, từ đó giúp học
sinh khi học một tiết tập đọc diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả, có khá nhiều học
sinh thích học môn tập đọc. Qua nghiên cứu đề tài này học sinh lớp tôi học đạt
kết quả khá tốt.
Một số
em kết quả đọc còn thấp, cũng như thiếu tự giác và lơ là của các em hiện nay.
Các em thường mắc khá nhiều lỗi khi đọc. Các em chưa chịu khó rèn đọc.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp
Để nâng cao chất lượng môn tập đọc
cho học sinh lớp 2 đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì và bền bỉ, vì đây là
một công việc rất khó khăn.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp, nhiều hình thức
tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
không áp đặt, không cứng nhắc.
Nghiên cứu đề tài này giúp
học sinh kĩ năng đọc tốt nhằm nâng cao chất lượng phân môn tập đọc, để vận dụng
tốt khi nói và viết.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Đổi mới phương pháp dạy –
học là vấn đề được đặt lên vị trí hàng đầu được các cấp quản lý giáo dục đặc
biệt quan tâm. Vì nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến chất
lượng và hiệu quả giáo dục. Vì vậy mỗi giáo viên chúng ta trực tiếp giảng dạy
cần xác định rõ chính xác, nắm vững về việc đổi mới sao cho phù hợp với tình
hình, năng lực của học sinh. Nghĩa là giáo viên không đóng vai trò truyền thụ
kiến thức cho học sinh bằng các phương pháp như: thuyết trình giảng giải, song
song đó là học sinh chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Mà được vận dụng
bằng các phương pháp sao cho giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh
bằng các câu hỏi gợi ý, gợi mở – song song đó là học sinh tích cực tham gia
hoạt động học tập một cách tích cực nhằm tiếp thu bài một cách chủ động và hiệu
quả hơn. Muốn làm được công việc trên thì bản thân giáo viên phải nỗ lực nhiều
so với phương pháp dạy học thụ động và phải kiên trì vận dụng phương pháp đổi
mới nhằm tạo cho các em thích ứng dần với phương pháp học tập chủ động một cách
vừa sức, từ thấp đến cao. Trong đổi mới phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự
phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học thì mới thành công.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Như vậy khi nhấn mạnh vai
trò chủ thể nhận thức, cảm thụ của học sinh. Phương pháp dạy học theo hướng đổi
mới. Giáo viên không chỉ đơn giản là truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành
động, với phương pháp dạy học trên thì vai trò của giáo viên không những không
bị hạ thấp mà còn được đề cao với tư cách là người gợi mở, hướng dẫn, cố vấn,
trọng tài trong hoạt động học tập của học sinh.
Khi dạy môn tập đọc không
phải dạy gói gọn trong môn này, mà tôi dạy thông qua nhiều môn học khác như môn
kể chuyện và môn luyện từ và câu, tập làm văn nhằm học sinh đọc tốt. Để học
sinh có khả năng cảm nhận nhanh trong khi học môn tập đọc, chính vì vậy tôi đưa
ra những biện pháp cụ thể như sau:
- Bài tập rèn kỹ năng đọc theo hướng tích cực
hoá hoạt động học tập cho học sinh lớp 2.
Biện pháp thứ nhất: Bài tập luyện chính âm (còn gọi là bài tập luyện
phát âm đúng).
Đây là loại bài tập dễ
thực hiện nhưng ít xuất hiện trong sách giáo khoa, nên ít được giáo viên sử
dụng. Hình thức bài tập có thể là tìm (gạch dưới, đóng khung, liệt kê) những từ
ngữ khó đọc trong bài.
Cách thực hiện: Để đổi mới
cho phù hợp với tình hình năng lực thực tế học sinh của lớp, ta không nên chọn
và ghi sẵn các từ ngữ khó cho học sinh luyện đọc. Và sau khi cho học sinh thực
hiện bài tập, giáo viên không đọc mẫu, yêu cầu học sinh đọc từ ngữ, câu có chứa
tiếng học sinh hay mắc lỗi rồi giáo viên mới chữa, hoặc giáo viên đọc mẫu những
từ ngữ, câu có chứa tiếng trong đó có âm vần học sinh hay đọc lẫn rồi yêu cầu
học sinh đọc theo.
* Bài tập minh họa
Ví dụ 1: Đọc thầm đoạn 2 của bài
“Câu chuyện bó đũa” (TV2 – tập 1 tr112) ghi lại những tiếng có phụ âm đầu g,
r vào chỗ trống.
- g ………
- r ………
*Giải đáp: + g: gọi, gái, gãy + r: rồi, rất, rể, ra
Ví dụ 2: Đọc thầm đoạn 4 của bài
“Chim sơn ca và bông cúc trắng” (TV 2 – Tập 2 – Trang 23) và ghi lại những
tiếng có chứa ao, au… rồi điền vào chỗ trống dưới đây
+ au:……………..
+ ao:………….
* Giải đáp: + au: sau + ao: vào
Ví dụ 3: Đọc đoạn 1 của bài “Chuyện
bốn mùa” (TV 2, tập 2, Tr 4) vô ghi lại những tiếng có chứa i, y
vào chỗ trống dưới đây:
+ i: ………..
+ y: …………
* Giải đáp: + i: chị , nhi, thỉ, nghỉ + y: Ngày, nảy, tay
Ví dụ 4: Chọn trong đoạn 1 của bài
“Cây đa quê hương” (TV2, Tập 2, Trang 93) những tiếng có thanh hỏi và thanh ngã
rồi viết vào 2 dòng dưới đây
-Những tiếng có thanh hỏi: ………………………………………….
-Những tiếng có thanh ngã: ………………………………………….
* Giải đáp: (?) cổ, xuể,
hổ, tưởng, gẩy (~) giữa, rễ, dữ, lững thững
Với dạng bài tập này sẽ
giúp cho học sinh nhanh chóng hiểu và phát âm chính xác các tiếng, từ khó dễ
lẫn mà nguyên nhân chính là do học sinh chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thổ âm của
môi trường mình sinh sống.
Biện pháp thứ hai: Bài tập luyện đúng trọng
tâm.
Đây là kiểu bài tập giúp
học sinh đọc rõ, nhấn giọng hay kéo dài, những từ chìa khóa của bài đọc
* Cách thực hiện: Khi đến
phần hướng dẫn học sinh đọc đoạn. Theo cách dạy thông thường, giáo viên ghi sẵn
câu hoặc đoạn vào băng giấy hoặc bảng phụ. Dùng các ký hiệu (/; //) ngắt, nghỉ
hoặc gạch chân các từ cần nhấn giọng … với cách hướng dẫn trên thì chưa phát
huy được tính tự giác, chủ động của học sinh. Vì học sinh chỉ làm theo mẫu có
sẵn. Nó mang tính chất áp đặt, chưa khơi dậy được ở học sinh óc sáng tạo, cũng
như sự đam mê hứng thú trong học tập.
Với hình thức luyện đọc trên tôi thay thế bằng
cách xây dựng Bài tập luyện đúng trọng âm.
Ví dụ 1: Ghi dấu dưới
tiếng cần nâng cao giọng và dấu bằng (=) dưới tiếng cần hạ thấp giọng khi đọc
các câu sau:
Bạn là ai? Vì sao bạn khóc?
Tôi là
cá sấu. Tôi khóc vì chả ai chơi với tôi (Quả tim khỉ, TV 2, tập 2, tr.51).
* Giải đáp
Bạn là ai? vì
sao bạ n khóc?
Tôi là Cá Sấu. Tôi
khóc vì chả ai chơi với tôi
Ví dụ 2: Gạch dưới các từ
cần nhấn giọng khi đọc 4 dòng thơ sau của bài Cây dừa (TV 2, tập 2, Tr 88)
Cây dừa
xanh / tỏa nhiều tàu, /
Dang tay đón gió, / gật đầu
gọi trăng. //
Thân
dừa / bạc phếch tháng năm, /
Quả dừa –/ đàn lợn con /
nằm trên cao. //
* Giải đáp
Cây dừa
xanh / tỏa nhiều tàu, /
Dang tay đón gió, / gật
đầu gọi trăng. //
Thân
dừa / bạc phếch tháng năm, /
Quả dừa –/ đàn lợn con
/ nằm trên cao. //
* Cách tiến hành
Khi hướng dẫn học sinh
luyện đọc giáo viên không ghi sẵn mà yêu cầu học sinh nêu cách đọc của cá nhân.
Cuối cùng giáo viên kết luận cách đọc rồi hướng dẫn các em đọc theo yêu cầu.
Qua đó hướng dẫn học sinh nâng
dần lên khả năng biết đọc ngắt nghỉ trong câu văn, câu thơ,… cũng là căn cứ để
xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
Biện pháp thứ ba: Bài tập luyện đọc ngắt
giọng đúng chỗ.
Qua điều tra thực tế
tôi thấy ở học sinh lớp 2 nói chung chưa biết cách đọc ngắt giọng. Để học sinh
biết ngắt giọng trong khi đọc, trước hết phải hướng dẫn các em đọc đúng. Từ
việc đọc đúng đó sẽ hướng dẫn các em đọc đúng cách ngắt giọng. Muốn đạt được
điều đó cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt
hơi cho đúng. Khi đọc tuyệt đối không được tách từ ra làm hai, không tách từ chỉ
loại với danh từ nó đi kèm theo. Không tách giới từ với danh từ đi sau nó,
không tách quan hệ từ là với danh từ đi sau nó.
Ví dụ: Không được đọc ngắt giọng:
Tự xa/ xưa thủa nào
Trong
rừng/ xanh sâu thẳm
(Gọi
bạn- Tiếng Việt 2 tập 1 trang 28)
Hay:
Con ve cũng/
mệt vì hè nắng oi
Mẹ là/ ngọn gió cảu con suốt đời.
(Mẹ- Tiếng Việt 2 tập 1 trang 101)
Mà phải đọc:
Tự xa xưa / thủa nào
Trong rừng xanh / sâu thẳm
Con ve cũng
mệt / vì hè nắng oi…
Mẹ là ngọn
gió / của con suốt đời.
Khi đọc các bài văn xuôi cũng vậy, việc
ngắt giọng phải phù hợp với dấu câu. Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu
chấm, trùng hợp với danh giới ngữ đoạn.Trên thực tế học sinh thường mắc lỗi
ngắt giọng ở những câu văn dài có cấu trúc phức tạp hoặc mắc lỗi ngay ở câu
ngắn. Nhưng các em chưa nắm được quan hệ ngữ pháp giữa các từ.
Ví
dụ: Ông già bẻ bó đũa một/
cách dễ dàng
Dê
trắng thương/ bạn quá
Bàn
tay mẹ/ quạt mẹ đưa gió về
Vì vậy trước khi giảng một bài cụ thể
giáo viên cần dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm
cần luyện ngắt giọng.
Ví
dụ: Bài: Dậy sớm
Tinh
mơ / em thức dậy
Rửa
mặt / rồi đến trường
Núi giăng hàng /
trước mặt
Phải lưu ý về cách ngắt nhịp vì theo
dự tính học sinh sẽ ngắt
Tinh
mơ em / thức dậy
Rửa
mặt rồi / đến trường
Núi
giăng / hàng trước mặt
Trong khi đó xét về mặt ý nghĩa và lí
thuyết trọng âm hai câu đầu ngắt nhịp 2/3 và câu sau ngắt nhịp 3/2. Bên cạnh
dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp còn cần phải
dạy ngắt giọng biểu cảm, nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, nhằm tập trung sự chú ý
của người nghe vào những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa.
Ví dụ: Đó là chỗ ngừng lâu hơn trong
các câu thơ cuối bài:
Mẹ/
là ngọn gió của con suốt đời.
Biện pháp thứ tư: Bài tập luyện đọc diễn cảm
Muốn rèn cho các em đọc đọc diễn cảm thì
trước hết phải rèn cho các em đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng đã. Đọc
diễn cảm là đọc văn bản sao cho giọng điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong
văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm,
thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Đọc
diễn cảm có nhiều mức độ:
-
Biết
nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu.
Ví dụ:
Trong bài “Cây dừa” - Tiếng Việt 2 tập 2 trang 88 có câu
Cây dừa xanh toả nhiều tàu
Dang tay
đón gió, gật đầu gọi trăng.
Khi đọc giáo viên phải lưu ý học
sinh đọc nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm như: toả, dang tay, gật đầu.
- Biết thể hiện ngữ điệu (Sự thay đổi cao
độ, trường độ của giọng đọc) phù hợp với
từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến).
- Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác
giả và lời nhân vật.
- Biết đọc phân biệt lời của của các nhân
vật.
Ví dụ: Trong bài Tập đọc “Một trí khôn hơn
trăm trí khôn” - Tiếng Việt 2 tập 2 trang 31.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
- Khi đọc giọng Chồn lúc hợm hĩnh, lúc thất vọng, cuối truyện lại rát
chân thành. Còn giọng Gà Rừng lúc khiêm tốn, lúc bình tĩnh, tự tin.
Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với
tình huống miêu tả trong đoạn văn hoặc văn
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Trong 3 biện pháp trên không
có biện pháp nào xem nhẹ bởi biện pháp nào cũng gắn kết chặt chẽ với nhau, đặc
biệt là biện pháp bài tập luyện chính âm, biện pháp bài tập luyện đúng trọng âm
và biện pháp bài tập ngắt giọng đúng chỗ, các biện pháp đều có sự quan hệ mật
thiết trong môn tập đọc. Là giáo viên, bản thân luôn thường xuyên thay đổi, cải
tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, động
viên, khuyến khích các em tư duy, sáng tạo, bày tỏ ý kiến của mình, tự tin
trước tập thể.
Giáo viên xác định được mục tiêu dạy học theo
phương pháp mới, phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh
trong giờ học. Giáo viên đóng vai trò người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh
hoạt động.
Xác định đúng đặc trưng bộ môn, vị trí, mục
tiêu theo chuẩn kiến thức kỹ năng.
Kiểm tra thường xuyên, kịp thời để phát hiện những thiếu sót của các em và
có hướng sửa chữa, nhất là học sinh chưa hoàn thành.
Có tinh thần trách nhiệm cao “Vì sự
nghiệp giáo dục toàn diện trẻ”, có lòng tận tụy, yêu thương học sinh.
Nghiên cứu bài dạy, chuẩn bị chu đáo các hoạt động dạy học cũng như các dụng cụ
trực quan hỗ trợ cho tiết học đạt hiệu quả cao.
Luôn động viên, khen ngợi kịp thời các em học
sinh chưa hoàn thành dù là những tiến bộ nhỏ nhất. Không áp đặt, không chê bai
khi học sinh đọc chưa tốt.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Trải qua quá trình nghiên cứu và thực hiện
chất lượng học sinh lớp tôi đạt kết quả như sau:
- Giờ học tập đọc học sinh học rất
hứng thú.
- Kết quả học sinh học môn tập đọc bước
đầu chất lượng được nâng lên đáng kể. Đây là một việc làm hết sức
quan trọng về nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt cho học sinh.
- Học sinh được phát huy tính tính cực,
chủ động sáng tạo của học sinh, phát
huy được khả năng tìm tòi, khám phá của các em, khuyến khích, phát triển năng
lực – năng khiếu sở trường của cá nhân học sinh. Làm cho hiệu quả giáo dục ngày
một nâng lên.
Qua một số phương pháp rèn
kỹ năng đọc cho học sinh đã nêu ở trên , sau khi áp dụng với học sinh lớp 2a3
từ đầu năm học cho đến cuối năm học, đã thu được kết quả dạy học chủ yếu sau:
- Phần lớn học sinh trong lớp có ý
thức, tự giác hơn trong quá trình luyện đọc, cũng như quá trình học tập, các em
trở nên yêu thích môn học, thích được làm việc tích cực tham gia các hoạt động
học tập.
- Các em có một thói quen học tập nhất
định, là tích cực tham gia các hoạt động học tập ở hầu hết các môn học.
- Kết quả học tập của các em được nâng lên
một cách rõ rệt, đặc biệt là kỹ năng đọc của các em được thể hiện cụ thể như
sau:
1. Kết quả thống kê cuối kì 1 môn Tiếng Việt
phân môn tập đọc năm học 2016 – 2017 như sau:
Tổng
số HS |
Kết
quả cuối kì 1 |
|||||
Hoàn
thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa
hoàn thành |
||||
SL |
TL% |
SL |
TL% |
SL |
TL% |
|
34 |
15 |
44,1 |
16 |
47 |
3 |
8,8 |
Kết quả cho thấy học sinh đọc ở
mức hoàn thành tốt còn chưa cao mà tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành 14,3%.
Sau khi áp dụng biện pháp nghiên cứu vào thực tiễn lớp 2a3 năm học 2016
– 2017 đã thu được kết quả sau :
2. Kết quả
xếp loại cuối năm học môn Tiếng Việt phân môn tập đọc như sau:
Tổng
số HS |
Kết
quả cuối năm học |
|||
Hoàn
thành tốt |
Hoàn
thành |
|||
SL |
TL% |
SL |
TL% |
|
34 |
19 |
58,9 |
16 |
44,1 |
Với kết quả đạt được sau một thời gian
áp dụng biện pháp nghiên cứu, cho ta thấy rằng đã giải quyết tốt được thực
trạng thực tế nêu trên. Tôi tin tưởng rằng, các em học sinh lớp 2a3 do
tôi phụ trách này sẽ đủ điều kiện lên lớp 3, để tiếp tục học tập và tiếp cận
với chương trình sách giáo khoa, cũng như những phương pháp dạy học theo hướng
đổi mới của những năm học tiếp theo.
III.
PHẦN KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1 Kết
luận:
Môn
Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho
học sinh tiểu học nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao. Vì thế là một
giáo viên trực tiếp giảng dạy ở tiểu học phải không ngừng học hỏi nghiên cứu
các tài liệu giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. Trong quá
trình dạy học giáo viên cần phối hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức
tổ chức dạy học sao cho không khí lớp học trở nên sôi nổi, trong sôi nổi lại
mang tính kỹ thuật, nền nếp cao nhằm tạo tính tự giác, sáng tạo, trong hoạt
động học tập của học sinh.
Trên
đây là xây dựng bài tập rèn kỹ năng đọc theo hướng tích cực hóa hoạt động học
tập cho học sinh lớp 2.Tôi nghiên cứu mấy năm gần đây. Học sinh lớp tôi đã vận
dụng đạt kết quả khá tốt. Song trong quá trình rèn luyện cho các em không
thể diễn ra một sớm một chiều mà đòi hỏi trải qua thời gian thực hiện trong
giảng dạy. Vì thế mỗi người thầy cô luôn nhiệt tình, tận tâm, tận lực dạy
cho học sinh chắc chắn các em học tốt hơn…Với khả năng của bản thân có hạn
không tránh phần thiếu sót. Trong
khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm, những vấn đề nêu ra và giải quyết
còn bó hẹp trong phạm vi có giới hạn. Vì vậy vấn đề đặt ra rất có
thể sẽ là sự quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu của tôi trong thời gian
tới. Vì điều kiện, thời gian và khả năng
có hạn, chắc chắn bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân
tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp xây dựng
và bổ sung những ý kiến quý báu giúp tôi có thêm kinh nghiệm để hoàn
thiện.
2. Kiến nghị:
Trước thực tế giảng dạy
trong nhiều năm học qua nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học cũng như việc
rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong phân môn tập đọc. Tôi xin đưa ra một
vài kiến nghị sau:
Khi trẻ bắt đầu đến trường, giáo
viên cùng với gia đình, nhà trường, xã hội phải giáo dục và rèn kỹ năng đọc cho
các em một cách hiệu quả nhất.
Mỗi
giáo viên, cần dành nhiều thời gian hơn vào việc nghiên cứu, vận dụng các
phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh sao cho tốt hơn, hiệu quả hơn.
Dạy phân môn tập đọc giáo viên phải thực
hiện đúng chuẩn kiến thức kĩ năng theo mục tiêu bài dạy và thực hiện tốt
điều chỉnh nội dung học theo công văn 5842/BGD- ĐT.
Cần tổ chức, tạo điều kiện cho giáo
viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy trong và ngoài trường
theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học.
Giáo viên cần tạo tình huống gây hứng
thú cuốn hút học sinh tập trung vào bài học:
đọc mẫu thể hiện đúng giọng điệu của bài; khi
yêu cầu học sinh đọc thầm cần nêu câu hỏi để
hướng cho học sinh tìm hiểu nội dung bài. Đối với những bài có lời thoại, cần
cho học sinh xác định lời các nhân vật sau đó cho thi đọc phân vai để gây không
khí hào hứng, sôi nổi trong giờ học.
Bố trí chỗ ngồi hợp lý để giáo viên tiện theo dõi
những em còn yếu và để cho các em đọc tốt giúp giáo viên kèm cặp thêm
những em đó.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện nhằm
mục đích rèn luyện kĩ
năng đọc, góp phần nâng cao chất lượng học tập
của học sinh, tạo cho các em có một cơ sở
ban đầu vững chắc để học lên các bậc học trên. Chắc rằng trong
quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khiếm khuyết mà bản thân chưa chỉ ra được.
Rất mong được học tập thêm ở các bạn đồng nghiệp, Hội đồng ban giám khảo.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách tiếng việt tập 1 tập 2, sách
giáo viên, sách thiết kế lớp 2.
2. Sách hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 2.
3. Công văn 896/BGDĐT– GDTH, công văn
5842/BGDĐT hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học cấp tiểu học.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/