PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng của
quá trình sư phạm, đặc biệt là ở Tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban
đầu về mặt đạo đức cho học sinh, giúp các em có ứng xử đúng đắn qua các mối
quan hệ đạo đức hàng ngày. Nhân cách của học sinh Tiểu học thể hiện trước hết
qua cách ứng xử. Điều này thể hiện qua thái độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ,
mọi người xung quanh, với thầy cô giáo và bè bạn trong lớp, qua thái độ học tập
và rèn luyện hàng ngày. Đó là cơ sở quan trọng của việc hình thành những nguyên
tắc, chuẩn mực hành vi đạo đức của học sinh Tiểu học. Lúc sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc bồi dưỡng và xây dựng những con người xã hội
chủ nghĩa. Trong nhiều bài viết, bài nói chuyện của mình Người đều nhấn mạnh:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người
mới xã hội chủ nghĩa là những người có đạo đức và tri thức, là những người vừa
“hồng” vừa “chuyên”. Thực hiện lời dạy của Bác và để góp phần cùng với nhà
trường nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, ngoài việc giảng dạy
các bộ môn văn hóa, học tập các kiến thức về khoa học, xã hội trên lớp, học
sinh còn phải tu dưỡng và rèn luyện về đạo đức, kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập
với cộng đồng, kỹ năng ứng xử, … trong đó trau dồi, rèn luyện đạo đức là vấn đề
hàng đầu, vì đạo đức là nền tảng của gia đình, nền tảng của xã hội và hình mẫu
cho các em học sinh học tập và rèn luyện. Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức học
sinh thông qua các hoạt động trong nhà trường, góp phần chuyển biến nhận thức
của học sinh, qua đó giúp các em có ý thức trong từng việc làm, từng hành động,
giúp các em sống có ý tưởng, có ước mơ, nhận thức được những cái hay, cái đẹp
trong cuộc sống.
Khi nói đến nhân cách của việc học trong chế
độ mới chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Bây giờ phải học; học để yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức”. Học để có đạo đức,
để hành động có đạo đức, để yêu đạo đức. Đó là một tư tưởng lớn của thời đại,
một định hướng đúng đắn và quan trọng của nền giáo dục hiện đại. Thái độ đặc
biệt coi trọng nhân cách đã được Hồ Chủ Tịch dạy: “Có tài mà không có đức là
người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Đức là nền
tảng tạo đà cho tài phát triển, tài làm cho đức phát triển toàn diện vững chắc
làm gia tăng các giá trị xã hội cho mỗi người.
Người Việt Nam từ xưa đã có biết bao truyền
thống tốt đẹp. Truyền thống tôn sư trọng đạo được người Việt Nam tôn vinh,
người thầy được kính trọng và đề cao. Song, do sự du nhập của nhiều nguồn văn
hóa không lành mạnh và do cơ chế thị trường kinh tế chạy theo lợi nhuận thì
việc giáo dục đạo đức có ít nhiều ảnh hưởng. Trước đây trong các trường học,
hiện tượng vô lễ với giáo viên, nói tục chửi bậy là rất hiếm, ý thức kỷ luật
của học sinh rất tốt, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái là rất cao. Trong
gia đình con cháu yêu thương ông bà, cha mẹ:
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Song cũng thật đáng buồn là hiện nay chất
lượng đạo đức đang bị suy giảm xuống trông thấy, trong các nhà trường hiện
tượng vô lễ, nói tục chửi bậy tăng lên, phong trào học tập đi xuống, hiện tượng
lười học, chán học tăng vọt, truyền thống tôn sư trọng đạo bị chà đạp. Ngoài xã
hội xuất hiện nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng và tràn lan khắp mọi nơi.
Có những gia đình cha mẹ mải chạy theo cơn lốc xoáy của kinh tế thị trường, bị
cuốn theo tiền tài danh vọng mà quên đi trách nhiệm giáo dục con cái và chính
sự thiếu quan tâm giáo dục của gia đình làm cho chúng trở thành những đứa con
bất hiếu,đạo đức bị giảm sút. Trước thực trạng đó đạo đức càng trở nên cần
thiết và quan trọng. Thế hệ trẻ hôm nay là tương lai của đất nước ngày mai, nếu
chỉ chú trọng vào giáo dục “trí dục” mà xem nhẹ giáo dục “đức dục”
thì xã hội sẽ ra sao. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Chính vì vậy, mọi nhà trường tiến bộ, hướng về tương lai nhất thiết
phải coi trọng và ngày càng làm tốt hơn việc bồi dưỡng đạo đức mới cho thế hệ
trẻ đang lớn lên và tiến hành ngay từ bậc Tiểu học. Chính vì lí do đó, tôi chọn
đề tài: “Giáo dục đạo đức cho học sinh
lớp 4” để góp phần làm nền tảng, hành vi đạo đức cho các em trong cư xử
với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, với mọi người và bạn bè cùng trang lứa.
2. Mục đích nghiên cứu:
Việc giáo dục đạo đức là vấn đề cấp thiết
không chỉ ở một quốc gia nào. “Trong tương lai tri thức là quyền lực, giáo
dục đạo đức là chìa khóa cuối cùng mở cánh cửa vào tương lai”. Đảng và
nhà nước ta cũng xác định được rằng giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Để giáo dục đạo đức cho các em nhiệm vụ đó trước
hết của các thầy cô giáo. Trên cơ sở điều tra chất lượng giáo dục đạo đức đạo
đức của trường Tiểu học, từ đó rút ra một số kết luận về tâm lý lứa
tuổi điển hình, đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất
lượng đạo đức cho học sinh của trường Tiểu học Tam Hưng. Việc tìm hiểu và đánh
giá chất lượng đạo đức học sinh nhằm giúp giáo viên nắm được tình hình đạo đức
của lớp mình, trường mình, nhìn nhận được thái độ, ý thức của học sinh, hiểu
được yếu tố và nguyên nhân nào đã tác động đến đạo đức của các em. Từ đó tìm
cho mình phương pháp giảng dạy thông qua các môn học và các hoạt động tập thể
có hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục đạo đức cho các em học sinh nhằm nâng
cao chất phẩm chất đạo đức cho các em học sinh, cũng từ đó rút ra cho bản thân
những bài học quý báu trong việc hình thành nhân cách học sinh Tiểu học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 4A trường Tiểu học
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về quy mô: Là vấn đề giáo dục đạo
đức thông qua các môn học và các hoạt động tập thể ngoài giờ lên lớp.
- Phạm vi về không gian: Tại trường Tiểu học
- Phạm vi về thời gian:
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí luận của vấn đề giáo dục đạo
đức cho học sinh Tiểu học.
- Điều tra thực trạng trong công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học.
- Tìm hiểu nguyên nhân trực tiếp và gián
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 4A trường Tiểu
học.
- Đề xuất mới: Trang bị cho học sinh Tiểu học
những kiến thức về các chuẩn mực hành vi đạo đức và các khái niệm đạo đức thông
qua môn Đạo đức, các môn học khác để giúp các em đánh giá các hoạt động của bản
thân về đạo đức.
- Trên cơ sở những hiểu biết đó, từng bước bồi
dưỡng cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học ý thức, thái độ, hành vi
trong mối quan hệ với thầy cô, bạn bè, ông bà, cha mẹ.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng một số
phương pháp sau:
- Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan về
vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học.
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực
trạng trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Lấy ý kiến của giáo viên và
học sinh để thu thập thông tin nghiên cứu.
- Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò
chuyện với giáo viên, học sinh để tìm hiểu nhận thức như thế nào về vai trò, ý
nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ và quan sát giờ
dạy của giáo viên. Quan sát cử chỉ, thái độ, hành động, sự biểu hiện phẩm chất
đạo đức qua hành vi của học sinh trong học tập, giao tiếp thông qua các tiết
học trên lớp. Quan sát các hoạt động ngoại khóa trên sân trường, hoạt động tập
thể ngoài giờ lên lớp,… để từ đó điều chỉnh hành vi và ý thức đạo đức cho học
sinh.
- Phương pháp lấy ý kiến đồng nghiệp: Gặp trực
tiếp những giáo viên có kinh nghiệm, các nhà quản lý xin ý kiến, trao đổi về
những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm
tính khoa học, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
- Phương pháp thống kê toán học.
7. Kế hoạch nghiên cứu:
- Phân loại đối tượng học sinh theo kết quả
báo cáo đầu năm.
- Quan tâm đến các biểu hiện hành vi đạo đức
của học sinh trong các buổi sinh hoạt dưới cờ, trong các thời gian nghỉ giải
lao và các hoạt động khác của học sinh trong thời gian đến trường.
- Hàng ngày theo dõi sát thực những đối tượng
học sinh thường gây gổ với bạn bè, nói tục chửi thề...
- Thông qua tổ chức các phong trào vui chơi
cho các em.
- Thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm trong
thời gian quản lí, theo dõi học sinh cho đến thời gian thực hiện hoàn thành
sáng kiến.
PHẦN II: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI
I. CƠ SỞ LÝ
LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC:
1.Cơ sở lý luận:
Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự
bùng nổ của công nghệ thông tin, sự hội nhập của nhiều nền văn hóa của các nước
phương tây, của lối sống thực dụng… Gia đình, cha mẹ phải bươn chảy trong công
cuộc mưu sinh, bỏ quên con cái, dẫn đến sự buông lỏng trong quản lý, điểm tựa
gia đình đối với các em không còn nữa. Đã có thời gian chúng ta chỉ coi trọng
việc dạy văn hóa sao cho học sinh học thật giỏi mà quên đi điều quan trọng là
dạy cho học sinh “Học làm người”, quên đi việc tạo cho các em có một sân chơi
với các trò chơi mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, các em không được cung cấp
những kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng đồng. Ngoài việc học văn hóa, số còn
lại thì không quan tâm đến mọi việc xảy ra chung quanh, lạnh lùng, vô cảm chỉ
biết sống cho riêng mình. Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2007 của Bộ
Chính trị về tổ chức “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và
công văn số 307/KH- Bộ GDĐT về kế hoạch triển khai phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” như một làn gió mới mang đến sự lạc
quan và là kim chỉ nam để thôi thúc tôi thực hiện ý tưởng này.
2. Lịch sử của vấn đề đạo đức:
Trong công cuộc đổi mới vấn đề giáo dục đạo
đức cho học sinh Tiểu học được đặt ra với yêu cầu bức thiết:
- Đảm bảo cư xử với học sinh Tiểu học như một
chỉnh thể, một nhân cách đang hình thành. Nhà trường cần được giáo dục toàn
diện, thực hiện tốt các tiêu chuẩn quốc gia đối với một trường Tiểu học.
- Cần đảm bảo sự bình đẳng trong học sinh để
hình thành và phát triển đạo đức. Quan tâm đặc biệt đến những học sinh đang gặp
khó khăn bất lợi.
- Cần có sự định hướng đúng đắn cho sự phát
triển đạo đức tiếp theo của học sinh sau bậc Tiểu học.
Với những yêu cầu trên, nhà trường, gia đình
và các tổ chức xã hội cần nhận thức đầy đủ và có trách nhiệm cùng với các nhà
quản lý giáo dục tiến hành các hoạt động giáo dục thiết thực để giáo dục đạo
đức cho học sinh Tiểu học.
Theo tác giả Nguyễn Sinh Hùng (Tài
liệu Đạo đức và phương pháp dạy đạo đức ở trường Tiểu học của nhà xuất bản Hà
Nội năm 1992) muốn nghiên cứu và giảng dạy đạo đức, dù ở cấp độ nào
vấn đề đầu tiên là phải xác định rõ được các nguyên lý đạo đức và các phạm trù
cơ bản của đạo đức, với một quan điểm phương pháp luận khoa học chân chính; Các
vấn đề như bản chất của đạo đức, sự phát sinh và phát triển của đạo đức, các
tiêu chuẩn khoa học của đạo đức, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
chính là phạm trù cơ bản của đạo đức học Mác-Lê nin, đã được Mác và F.Anggen
trình bày, luận giả theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Cho đến nay, trong quá trình đổi mới, mặc dù trong nội hàm của từng
vấn đề đó đã có những dấu hiệu phát triển, phong phú thêm những giá trị, chuẩn
mực cơ bản của nó vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và vẫn còn ý nghĩa thực tiễn sắc
bén của nó.
Hiện nay vẫn có người “tế nhị” hơn
trong việc phủ nhận đạo đức học theo quan điểm Mác xít, biện lẽ rằng trong các
tác phẩm của Mác và Lê nin không hề thấy có một học thuyết, một định nghĩa
riêng cho đạo đức. về hiện tượng đúng là các nhà sáng lập chủ nghĩa mác không
có một tác phẩm riêng lĩnh vực đạo đức trong đó có nêu lên một khái niệm
về đạo đức, nhưng trong các tác phẩm của mình, Mác cũng như F.Angghen khi nêu
lên một vấn đề đạo đức đều quy về những nguyên tắc, quy phạm được quy định một
cách lịch sử của hành vi của con người kể cả cách đánh giá các hành vi ấy trong
các phạm trù Thiện và Ác, đến phẩm chất đạo đức của con người. Vì vậy có thể
rút ra kết luận rằng: Những nguyên tắc, quy phạm của hành vi của con người, đối
với phẩm giá của con người, trong quan hệ với những người khác, ngay trong quan
hệ với giai cấp mình hoặc với giai cấp đối lập, trong quan hệ với nhân dân, với
Tổ quốc… Chính biểu hiện lý luận về đạo đức, ngay cả mối quan hệ giữa cá nhân
với xã hội, việc kết hợp lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội luôn luôn là các vấn
đề trọng tâm của các học thuyết đạo đức - cũng chính là các vấn đề lý luận cơ
bản của đạo đức. Tuy nhiên, khi nghiên cứu và giảng dạy đạo đức, chúng ta không
chỉ dừng ở việc trình bày những nguyên lý chung nhất mà phải tiếp tục đi sâu
vào phạm trù đạo đức cụ thể làm cơ sở vững chắc cho quá trình giáo dục đạo đức
nói chung.
3. Một số khái niệm về đạo đức:
Đạo đức là một trong những hình thái sớm của ý
thức xã hội, bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người
trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (quan hệ gia đình, bạn bè, hàng
xóm, giai cấp, dân tộc).
Đạo đức được thể hiện ở các quan hệ về thiện
và ác, lòng nhân ái, lương tâm, danh dự, hạnh phúc, lẽ công bằng về những điều
cần phải làm, nên làm, được hay không được làm, … Căn cứ vào những chuẩn mực
đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người và của chính mình. Tuy chuẩn mực
đạo đức không được ghi thành văn bản pháp quy có tính chất bắt buộc mỗi người
phải thực hiện, nhưng vẫn được mọi người thực hiện do sự thôi thúc của lương
tâm cá nhân và dư luận xã hội. Đạo đức ra đời và phát triển là do nhu cầu xã
hội phải điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân, phải điều tiết hoạt động chung
của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội nhất
định, phản ánh các quan hệ xã hội. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, đạo đức có
tính giai cấp. “Xã hội nào thì đạo đức ấy”. Đạo đức của xã hội ta là đạo
đức xã hội chủ nghĩa. Đạo đức được xây dựng trên cơ sở một xã hội không có
người bóc lột người, trên cơ sở có sự kết hợp thỏa đáng giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội. Các hình thái kinh tế xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội giữ
lại những điều kiện sinh hoạt, những kiến thức chung. Do vậy đạo đức cũng có
tính chất kế thừa nhất định. Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những
hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Cụ thể, mọi thời đại đều
lên án cái ác, cái tàn bạo, tham lam, hèn nhát, … và đều khen ngợi cái thiện,
sự độ lượng, khiêm tốn. Xã hội càng tiến bộ, quan hệ giữa người với người càng
mang tính nhân đạo hơn.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là
hình thành cho các em lòng nhân ái mang bản sắc con người Việt Nam; Yêu quê
hương đất nước hòa bình, công bằng bác ái, kính trên nhường dưới, đoàn kết với
mọi người, … Có ý thức về bổn phận của mình đối với người thân, đối với bạn bè,
đối với cộng đồng và môi trường sống. Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật,
các quy định của nhà trường, khu dân cư, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin,
trung thực. Biết cách tự phục vụ, biết cách học tập, vận dụng làm được một số
việc trong gia đình.
Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh,
chúng ta phải hình thành cho các em những thói quen chuẩn mực đạo đức cụ thể
là: Lòng kính yêu ông bà, cha mẹ, kính trọng thầy giáo, cô giáo, quý mến bạn
bè, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn; thật thà dũng cảm trong học tập, lao động;
lòng biết ơn những người có công với đất nước… Những thói quen này, những đức
tính này thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức nhân đạo của loài người là các
yếu tố tạo thành nền tảng để hình thành và phát triển nhân cách đạo đức mới.
Những thói quen hành vi đạo đức này không đơn thuần là những hành động ứng xử
có được do lặp lại bằng luyện tập trong nhiều tình huống quen thuộc. Đó phải là
những hành động ứng xử chịu sự kích thích của những động cơ đạo đức đúng đắn.
Như vậy phẩm chất đạo đức của thế hệ trẻ, sự
ứng xử này được hình thành do trẻ rèn luyện những thói quen đạo đức, tình cảm
đạo đức, kiến thức đạo đức. Vì vậy giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là
cung cấp cho trẻ những biểu tượng và khái niệm đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm đạo
đức và tình cảm đạo đức, rèn luyện kỹ năng và thói quen đạo đức.
4. Vai trò của nhà trường Tiểu học trong việc
giáo dục đạo đức:
- Làm cho học sinh Tiểu học nhận thấy rằng cần
làm cho hành vi ứng xử của mình phù hợp với lợi ích của xã hội, giúp cho các em
lĩnh hội các lý tưởng đạo đức, các nguyên tắc đạo đức, các chuẩn mực đạo đức để
đảm bảo sự phù hợp đó.
- Bồi dưỡng tình cảm đạo đức tích cực và bền
vững các phẩm chất ý chí (thật thà, dũng cảm, kỷ luật, kiên trì…) để đảm bảo
cho hành vi đạo đức luôn luôn nhất quán với yêu cầu đạo đức.
- Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức, làm cho
chúng trở thành bản tính tự nhiên của cá nhân và duy trì lâu bền các thói quen
đó để ứng xử đúng đắn trong mọi hoàn cảnh.
- Giáo dục văn hóa ứng xử (hành vi văn minh)
thể hiện sự tôn trọng và quý trọng lẫn nhau của con người, bảo quản tính nhân
đạo, trình độ thẩm mĩ cao của các quan hệ cá nhân trong cuộc sống.
- Việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức và rèn luyện
thói quen hành vi đạo đức là nhằm hình thành bản lĩnh đạo đức vững vàng cho học
sinh. Song cần chú ý rằng nếu trình độ phát triển nhân cách về mặt đạo đức nhất
là về mặt ý thức đạo đức không tương ứng với trình độ phát triển của tình cảm
đạo đức, của thói quen hành vi đạo đức thì sẽ gặp nhiều khó khăn, không thuận
lợi, lung túng, thậm chí mắc sai lầm trong ứng xử đạo đức khi gặp các tình
huống khó khăn; niềm tin đạo đức và tình cảm đạo đức được hình thành không chắc
chắn, phiến diện. Mặt khác nếu việc truyền thụ kiến thức đạo đức được tiếp thu
một cách hình thức thì sẽ gặp tai họa là lời nói và việc làm không thống nhất
với nhau, lý trí và tình cảm không thống nhất với nhau, nảy sinh hiện tượng
phân đôi nhân cách, hiện tượng đạo đức giả. Chính vì vậy, việc xác định vai trò
của nhà trường trong giáo dục đạo đức cho học sinh là cực kỳ quan
trọng.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC TAM HƯNG
1. Đặc điểm tình hình nhà trường:
a)
Nhà trường:
Được sự chỉ đạo sát sao của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, được sự giúp đỡ nhiệt
tình có hiệu quả của các cấp các ngành; các bậc phụ huynh học sinh nhiệt tình
luôn tạo điều kiện tốt nhất để các giáo viên hoàn thành nhiệm vụ năm học.
b)
Giáo viên:
Phần lớn là những cán bộ giáo viên có thâm niên từ 5 năm trở lên, 98% là nữ.
Tất cả các đồng chí giáo viên trong trường đều biểu lộ tình đoàn kết thân ái
giúp đỡ lẫn nhau. Các đồng chí xuất thân từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, tuổi
đời, tuổi nghề cũng có nhiều khác biệt. Cả tập thể ấy mang theo phong tục tập
quán của nhiều địa phương khác nhau, cá tính, năng lực, sở trường khác nhau
nhưng trước yêu cầu của cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đồng chí đã
tập hợp thành một khối xây dựng một tổ ấm đoàn kết nhất trí, khắc phục những
mặt yếu, phát huy những mặt mạnh cùng nhau gánh vác công việc chung để đẩy mạnh
công tác giáo dục của nhà trường.
c)
Học sinh:
Toàn trường có 927 học sinh trong đó: Khối 1 có 219 em; khối 2 có 203 em; khối
3 có 199 em; khối 4 có 152 em; khối 5 có 154 em. Các em hầu hết là con em nhân
dân lao động ở địa phương xã Tam Hưng cũng như nhiều trường khác, đó là một tập
thể nam nữ Thiếu niên Nhi đồng sôi nổi hiếu động, có nhiều mặt tốt cần phát huy
nhưng cũng có những biểu hiện ứng xử chưa hay của một số học sinh cá biệt. Một
số nhỏ học sinh về mặt ý thức chấp hành kỷ luật, nội quy của lớp và của nhà
trường chưa tốt vẫn còn ở rải rác các lớp. Mặt khác, còn có một số không nhỏ
phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, việc học
hành, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của các em còn phó mặc cho nhà trường và các
thầy cô giáo.Trước tình hình này thôi thúc nhà trường phải tập trung suy nghĩ
cải tiến cách dạy, cách giáo dục học sinh phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu
của xã hội hiện nay.
2. Chất lượng đạo đức của học sinh hiện nay ở
trường Tiểu học:
Muốn có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh thì phải
nắm chắc và đánh giá đúng tình hình đạo đức của học sinh trường mình. Tôi đã
dùng nhiều hình thức điều tra như nghiên cứu hồ sơ, học bạ, nghiên cứu dư luận
của giáo viên, của cha mẹ học sinh và nhân dân địa phương, theo dõi các hoạt
động của học sinh trên lớp cũng như các buổi sinh hoạt tập thể ngoài trời. Qua
điều tra tôi thấy, nhìn chung các em đều tốt, đều mong muốn xây dựng lớp mình
thành lớp tốt. Riêng một số em có biểu hiện sai về mặt đạo đức đều rơi vào
những em có năng lực, phẩm chất, kỹ năng chưa hoàn thành; Số còn lại là do
những yếu tố ảnh hưởng bởi những tác động xấu, chưa có ý thức phân định và tiếp
thu một cách có chọn lọc. Hơn nữa đây cũng là độ tuổi rất hiếu động, còn thích
ham chơi, ý thức định hướng chưa rõ ràng. Sự thiếu quan tâm từ phía gia đình:
Cha mẹ vì quá bận rộn không có điều kiện thời gian để chăm sóc con cái; không
khí gia đình cũng ảnh hưởng rất lớn đến các em như cha mẹ bỏ nhau, cha mẹ không
hòa thuận khiến các em thiếu thốn tình yêu thương, nghe lời rủ rê của những kẻ
xấu, xa lánh những người bạn tốt từ đó trở nên hư hỏng. Một số em có hoàn cảnh
khó khăn, không có điều kiện vật chất đầy đủ như các bạn bè khác trong lớp mà
không vượt lên được hoàn cảnh sinh ra tự ty, co mình lại, không chịu nhận sự
giúp đỡ từ phía bạn bè và nhà trường. Những em này thường có biểu hiện rất đa
dạng, có thể xếp thành mấy nhóm như sau:
*Ở trường:
- Thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, chây lười trong học tập, lao động; Học bài, làm
bài không đầy đủ. Ăn mặc chưa sạch sẽ, không tuân thủ theo quy định chung của
trường.
- Thiếu lễ phép với thầy cô giáo; lừa dối thầy cô giáo; xúc phạm cô giáo, thầy
giáo,...
- Phá phách tài sản của nhà trường, của bạn; gây gổ đánh nhau với bạn bè trong
lớp, trong trường, dọa nạt cán bộ lớp, nói tục, chửi bậy, ăn cắp vặt, …
*Ở
ngoài trường:
- Thiếu lễ phép với cha mẹ, người lớn, nói dối gia đình, gây mất trật tự làng
xóm…
- Một số học sinh cá biệt có những biểu hiện
gần giống hành vi trẻ lang thang phạm pháp như: Trộm cắp, đánh nhau, lừa dối
gia đình để lấy tiền tiêu sài.
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 4, tôi
nhận thấy cách ứng xử, giao tiếp với người lớn, thầy cô, bạn bè của học sinh ở
đây chưa được tốt. Cụ thể như sau:
Năm
học |
Sĩ
số |
Ứng
xử tốt |
Ứng
xử với người lớn, thầy cô chưa đạt |
Chưa
biết giúp đỡ, xưng hô, ứng xử với bạn bè |
|||
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
||
2013-2014 |
35 |
27 |
77% |
4 |
11,5% |
4 |
11,5% |
2014-2015 |
37 |
29 |
78% |
3 |
8,5 |
5 |
13,5 |
Đầu
năm 2015-2016 |
42 |
35 |
83% |
3 |
8% |
4 |
9% |
Qua thực tế tìm hiểu thực trạng trên, cho thấy
nguyên nhân là:
- Giáo viên chưa kịp thời sửa sai hành vi đạo
đức của các em khi các em vi phạm.
- Việc kết hợp 3 môi trường giáo dục chưa chưa
chẽ, chưa thường xuyên vì vậy đôi lúc chưa uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những
sai lệch của các em ở gia đình, ngoài xã hội.
- Đặc trưng của môn đạo đức lớp 4 ít bài dạy
liên quan đến hành vi ứng xử giao tiếp với người lớn, bạn bè xung quanh nhưng
giáo viên ít liên hệ, lồng ghép giáo dục những hành vi đạo đức mà các em còn
hạn chế.
Tôi cho rằng những em học sinh chưa biết cách
ứng xử tốt này nếu được giáo dục đúng cách thì sẽ trở thành những học sinh
ngoan, học giỏi, có ích cho gia đình, nhà trường, xã hội. Vì vậy không thể giáo
dục các em theo từng phần, từng mặt riêng biệt mà luôn phải giáo dục toàn bộ
nhân cách.
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Các giải pháp giáo dục đạo đức, hành vi ứng
xử cho học sinh:
Tuổi học sinh Tiểu học là giai đoạn lĩnh hội các Chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng
xử và quy tắc hành vi đạo đức một cách hệ thống. Hơn nữa, nhà trường còn kiểm
tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử một cách thường xuyên
và có mục đích. Việc giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh không tách
rời việc giáo dục nhân cách học sinh và có thể thực hiện với nhiều hình thức
thích hợp, đa dạng trong đó nổi bật là các hình thức sau:
a) Giáo dục đạo đức, hành vi
ứng xử của học sinh thông qua quá trình đứng lớp và dạy học các môn học khác:
Bản thân quá trình dạy học và ngay trong các nhiệm vụ dạy học là nhằm góp phần
giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử, nhân cách cho học sinh. Tính chất giáo dục
của việc dạy học đòi hỏi nhà giáo phải khai thác đúng đắn, sâu sắc nội dung các
môn học, thông qua việc dạy học mà thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục
nhằm phát triển các phẩm chất đạo đức, hoàn thiện nhân cách học sinh.
Trước hết phải nói tới quá trình dạy học môn Đạo đức ở trường. Thông qua môn
học này mà học sinh có được một hệ thống khái niệm, tri thức đạo đức. Nhờ đó
học sinh có thể hiểu được mục đích hành động, biết được cần phải làm gì, phân
biệt được “cái tốt và cái xấu”, “cái đạo đức và cái vô đạo đức”
v.v… Trên cơ sở đó, các em định hướng đúng trong các hiện tượng phong phú và
phức tạp ở quanh mình và có được tính tự giác trong quá trình học tập. Ở bậc
Tiểu học, việc dạy và học môn Đạo Đức với tư cách là môn học cũng có tác dụng
đặc biệt; thông qua việc dạy học môn Đạo Đức nhằm thực hiện được các nhiệm vụ:
- Cung cấp cho học sinh các tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực đạo đức gắn với
kinh nghiệm sống, giúp học sinh hình thành, định hướng về giá trị đạo đức, biết
các nghĩa vụ, trách nhiệm và phân biệt được cái đúng cái sai, cái thiện cái ác.
Từ đó có nguyện vọng thông qua hoạt động mà đưa các chuẩn mực, các giá trị ấy
vào mọi lĩnh vực của cuộc sống (phù hợp với trình độ nhận thức, tập quán hành
vi đạo đức đang hình thành ở mỗi em).
- Trên cơ sở đó giúp các em tập luyện trong đời sống thực tế, hình thành các
hành vi, tập quán hành vi lành mạnh, góp phần tạo nên lối sống phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức văn hóa.
Nếu thực hiện tốt các nhiệm vụ trên chúng ta đã và sẽ đặt được những viên gạch
hồng đầu tiên trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng hình thành cơ sở ban đầu của
tư cách đạo đức người công dân, người chiến sĩ, những người chủ tương lai của
đất nước, của dân tộc. Các em cũng hiểu bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình trong các mối quan hệ xã hội, đòi hỏi trong giao lưu, giao tiếp ứng xử
phải tuân theo các chuẩn mực đạo đức, nhất là trong điều kiện xã hội phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ và phức tạp trong cơ chế thị trường. Cụ thể là:
+ Các quan hệ với gia đình (cha mẹ, ông bà, anh chị em);
+ Quan hệ với nhà trường (thầy cô giáo, bạn bè);
+ Quan hệ với cộng đồng (làng xóm, đoàn thể, xã hội);
+ Thái độ và quan hệ với lao động, với công việc hàng ngày;
+ Thái độ và quan hệ với tài sản công cộng, với môi trường, với các di
sản văn hóa, với thiên nhiên, …;
+ Ý thức về nghĩa vụ đối với Tổ quốc, đối với dân tộc;
+ Ý thức đối với trách nhiệm bổn phận, lợi ích chính đáng của bản thân, …
Ngoài môn Đạo đức, tất cả các môn học khác ở Tiểu học, đặc biệt là môn Tiếng
Việt, Tự nhiên và Xã hội, môn Toán đều có khả năng tiềm tàng, nếu được khai
thác tốt, đúng hướng, nhằm vào việc giáo dục đạo đức. Chẳng hạn ở môn Tiếng
Việt qua các câu chuyện kể, các bài văn, bài thơ có nội dung phong phú, sinh
động ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, ca ngợi văn hóa, các tập quán truyền thống
tốt đẹp của đất nước, của dân tộc nếu được khai thác, tiến hành đúng đắn sẽ mở
rộng được kiến thức về đạo đức, về truyền thống văn hóa, về kinh nghiệm, lối
sống mang tính dân gian, phản ánh bản sắc đạo đức của dân tộc. Tất cả sẽ giáo
dục, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc và
kể cả các chuẩn mực sơ giản trong giao tiếp, ứng xử về đạo đức …
Khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài nhờ vận dụng đúng các nguyên tắc và
phương pháp giáo dục và dạy học sẽ giúp học sinh đi từ mức độ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp và nâng cao dần,… sẽ tập luyện cho học sinh thói quen
vượt khó khăn hoàn thành nhiệm vụ học tập, bước đầu hoàn thành các phẩm chất ý
chí, các nét tính cách, lòng yêu chân lý, yêu văn hóa khoa học. Cũng nhờ vậy mà
tầm mắt của các em ngày càng mở rộng, càng phong phú thêm, góp phần làm cho
kiến thức đạo đức, thái độ đạo đức về cuộc sống, vốn sống, kinh nghiệm sống của
các em phát triển dần.
Trong quá trình học tập cùng nhau, các mối quạn hệ về lợi ích giữa cá nhân với
tập thể sẽ hình thành tinh thần đoàn kết gắn bó với nhau vì lợi ích chung cũng
sẽ phát triển nâng cao dần. Hơn thế nữa do được giáo dục tốt, được gia đình
quan tâm theo dõi, chăm sóc hàng ngày, học sinh dần dần sẽ ý thức được mối quan
hệ giữa cá nhân với tư cách là con cái, là học sinh với lợi ích của gia đình và
bản thân. Tất cả sẽ là cơ sở để xây dựng nên ý thức của học sinh về nghĩa vụ,
trách nhiệm, về bổn phận với mọi người, với gia đình và xa hơn nữa là với xã
hội. Khi hoàn thành tốt các nhiệm vụ học tập, phù hợp với sự mong đợi của gia
đình, của xã hội, các em sẽ được đánh giá, khen thưởng, sẽ hình thành được những
tình cảm trong sáng, tích cực phù hợp với lứa tuổi học
đường.
Tất nhiên đều cần và có thể bồi dưỡng cho các em thông qua việc dạy môn Đạo đức
và quá trình dạy học nói chung ở Tiểu học. Các quan hệ nêu trên đòi hỏi phải có
sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội nhằm vào mục tiêu chung: Bồi
dưỡng, hình thành nhân cách của người công dân tương lai từ trong nhà trường
Tiểu học.
Ngoài việc giáo dục hành vi ứng xử với người
lớn, thầy cô, bạn bè cho các em thông qua môn học đạo đức bắt buộc trong chương
trình, trong quá trình giảng dạy, tôi đều tận dụng tối đa việc giáo dục cho các
em thông qua giao tiếp giữa giáo viên – học sinh và lồng ghép giáo dục kịp thời
qua nội dung môn học khác có liên quan với việc giáo dục đạo đức học sinh. Việc
giáo dục đạo đức học sinh thông qua giao tiếp trong quá trình dạy học giúp tôi
điều chỉnh kịp thời những hành vi chưa đạt ở học sinh khi nói chuyện với thầy
cô, người lớn cần phải dạ thưa, nói có đầu có đuôi, không nói cộc lốc, trống
không. Khi nhận vật gì mà người lớn đưa đều phải nhận bằng hai tay và nói lời
cảm ơn…
Ví dụ: Trong quá trình dạy học, khi đặt câu
hỏi cho học sinh: “Tại sao ở Đà Lạt có nhiều hoa, quả, rau xứ lạnh?” nếu học
sinh trả lời: “Vì khí hậu mát mẻ” thì tôi liền yêu cầu em trả lời lại cho có
đầu có đuôi và phải có lời “Thưa cô” đầu tiên khi trả lời câu hỏi: “Thưa cô, vì
ở Đà Lạt có khí hậu mát mẻ quanh năm”. Hoặc khi học sinh lên bảng làm bài tôi
đưa cho em một viên phấn để viết bảng. Nếu như em chỉ nhận bằng một tay và
không nói lời cảm ơn, tôi cũng liền nhắc nhở cho các em khi nhận vật gì của
người lớn trao cũng phải nhận bằng hai tay và nói lời cảm ơn… Đến cuối tiết học
khi nhận xét, tôi nhắc lại những hành vi chưa đúng của học sinh và liên hệ giáo
dục cách giao tiếp ứng xử với người lớn cho đúng mực.
Đối với việc giáo dục học sinh thông qua nội
dung bài học tôi cũng tận dụng kịp thời để giáo dục hành vi đạo đức của các em.
Ví dụ: Qua bài tập đọc: “Đôi giày ba ta màu
xanh” ngoài việc giáo dục học sinh ngoan ngoãn lễ phép như bạn “Lái” trong câu
chuyện, tôi còn giáo dục cho học sinh của tôi khi nhận quà của bất cứ ai thì
phải nói lời cảm ơn, với người lớn thì phải nhận bằng hai tay…
Hoặc qua bài dạy môn Luyện từ và câu: “Giữ
phép lịch sự khi đặt câu hỏi” tôi giáo dục cho học sinh khi yêu cầu, đề nghị
phải giữ phép lịch sự. Muốn cho lời yêu cầu, đề nghị được lịch sự các em cần có
cách xưng hô cho phù hợp với từng đối tượng giao tiếp như: Với người lớn khi
yêu cầu người lớn chỉ đường cần phải nói “Bác làm ơn chỉ cho cháu biết nhà của
bạn Lan ở đâu ạ?” với bạn bè, em nhỏ phải có thái độ vui vẻ, hoà nhà, lịch sự…
Như vậy, với việc giáo dục học sinh trong mọi
hoạt động dạy học, giúp học sinh lớp tôi có những hành vi ứng xử tiến bộ rõ rệt
các em biết nói dạ thưa với người lớn, xưng hô đúng mực với bạn bè, thầy cô
giáo và các em học sinh ở những lớp dưới.
b) Giáo dục đạo đức, hành vi
ứng xử thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp:
- Tổ chức các buổi sinh hoạt dưới cờ vào mỗi thứ hai hàng tuần, biểu dương các
tập thể, cá nhân, uốn nắn những thiếu sót và giới thiệu, định hướng những nội
dung cần giáo dục cho học sinh.
- Tổ chức tốt các ngày chủ điểm trong năm học gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn
của dân tộc; thông qua đó giáo dục truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc,
ý chí quật cường và tình yêu quê hương đất nước cho học sinh. Thông thường mỗi
tháng trong năm học đều có ngày lễ lớn chẳng hạn: Kỷ niệm cách mạng tháng Tám
và Quốc khánh 2/9 . Ngày 15/10: Bác Hồ gửi lá thư cuối cùng cho ngành giáo dục
- Đào tạo trước khi Bác ra đi, đồng thời cũng là ngày anh Nguyễn Văn Trỗi hy
sinh. Ngày 20/10: Thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. 20/11: Ngày nhà giáo
Việt Nam. 22/12: Ngày thành Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày quốc phòng toàn
dân. 03/02: Ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. 08/3: Ngày Quốc tế phụ nữ và
khởi nghĩa Hai Bà Trưng. 26/3: Ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh. 10/3 âm lịch (thường vào tháng 4 dương lịch): Ngày giỗ Tổ Hùng
Vương. 30/4: Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. 19/5: Kỷ niệm ngày
sinh của Hồ Chủ Tịch. 01/6: Ngày Quốc tế Thiếu nhi. 27/7: Ngày thương binh liệt
sĩ… Ngoài ra còn nhiều ngày kỷ niệm khác nữa. Dựa vào các ngày lễ vừa nêu trên,
có thể tổ chức cho các em sinh hoạt theo chủ đề với nhiều nội dung phong phú
chẳng hạn:
+ Tháng 9-10: Hãy viết và nói gì về kỷ niệm một ngày khai trường để lại cho em
nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Hãy nói và kể những công việc em đã làm để làm
sạch đẹp trường lớp…;
+
Tháng 11: Trao đổi về tình thầy trò, ca hát, đọc thơ, kể chuyện, tiểu phẩm nói
về thầy giáo, cô giáo;
+ Tháng 12: Hãy tìm tấm gương về người con anh hùng của đất nước, của quê
hương;
+ Tháng 01-02: Mùa xuân và ước mơ của các em về nghề nghiệp; tìm hiểu lịch sử
truyền thống nhà trường, truyền thống văn hóa địa phương.
+ Tháng 3: Hãy nói tình cảm của mình với bà, với mẹ, cô giáo; hát những bài hát
về bà, mẹ, cô giáo, …;
+
Tháng 4: Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu về Quân đội nhân dân Việt Nam;
+ Tháng 5: Trao đổi về thái độ học tập, về 5 diều Bác Hồ dạy, nói những gì em
biết về thời niên thiếu của Bác Hồ, …
Với những chủ đề trên, các em trao đổi, thảo luận sôi nổi, được phép trình bày
quan điểm riêng của mình về chủ đề đó. Giờ sinh hoạt trở nên hấp dẫn, hứng thú
và qua đó, giáo viên chủ nhiệm nắm bắt được suy nghĩ và hành động của học sinh
trên cơ sở đó có biện pháp giáo dục đạo đức cho phù hợp.
- Tổ chức cho học sinh tiếp xúc, giao lưu trò chuyện với người thật việc thật.
Nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn tùy nội dung cần giáo dục thông qua các ngày lễ ấy
nhà trường mời các vị lão thành cách mạng, các anh hùng lực lượng vũ trang,
những người đạt thành tích cao trong lao động sản xuất, …, về trường gặp gỡ,
trò chuyện, giao lưu với học sinh.
- Đẩy mạnh các hoạt động thiết thực phù hợp với lứa tuổi mang tính giáo dục
như:
+ Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao (yêu quê hương đất nước, mừng Đảng mừng
xuân, nhớ ơn Bác Hồ, hướng về ngày 20/11,…). Đây là loại hình hoạt động khá hấp
dẫn đối với học sinh Tiểu học, thu hút được nhiều em tham gia.
+ Hoạt động đền ơn đáp nghĩa như: Áo lụa tặng bà, chăm sóc giúp đỡ gia đình
thương binh liệt sĩ, viếng và chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, trồng cây nhớ ơn
Bác, …
+ Hoạt động mang tính giáo dục lòng nhân ái như tham gia các đợt ủng hộ đồng
bào bị thiên tai, bão lụt, tham gia các chương trình vì người nghèo, phong trào
giúp bạn vượt khó, …
+ Hoạt động “Hội thi thiếu nhi”: Hội thi thiếu nhi là đỉnh cao của phong
trào thiếu nhi, là kết quả của quá trình phấn đấu, học tập, rèn luyện theo mục
tiêu giáo dục toàn diện. Qua hội thi thiếu nhi, các em sẽ đánh giá được kết quả
rèn luyện của mình và đó chính là cơ hội, là môi trường để các em trao đổi thêm
kinh nghiệm học tập, hoạt động với các bạn của mình. Hội thi thiếu nhi còn là
ngày hội của các em, vừa mang tính chất của cuộc thi tài, nên đã tạo được bầu
không khí thi đua hào hứng, sôi nổi, hấp dẫn trong các hoạt động.
- Tổ chức các hoạt động tập thể trong phạm vi toàn trường tạo điều kiện để các
em hình thành các mối quan hệ, gắn bó với nhau vì quyền lợi, danh dự chung, gây
niềm vinh dự, tự hào về lớp mình, rất có ý nghĩa và tác dụng sâu sắc đến nhận
thức, tình cảm của học sinh. Thực tế hoạt động tập thể của các nhà trường có
thể là các hoạt động như: Lao động tập thể, các cuộc thi tài năng, sáng
kiến của cá nhân, tổ chức giao lưu trong tập thể giữa các khối lớp, ... Mỗi
giáo viên cần nhận thức về tác dụng giáo dục của tập thể, biết dựa vào các giai
đoạn hình thành và phát triển của tập thể và các nhiệm vụ giáo dục để tìm ra
các biện pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong tập thể đạt tới hiệu quả giáo
dục theo mục tiêu của cấp học. Từ đó nếp sống đạo đức của các em sẽ có chuyển
biến tốt, trước hết là tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể, biết giúp đỡ nhau
trong mọi hoạt động. Qua hoạt động tập thể, lòng nhân ái, tính vị tha, tinh
thần dũng cảm, trách nhiệm vì tập thể được thể hiện rõ và chính những hoạt động
đó đã đẩy mạnh phong trào học tập của các em hơn.
Để các hoạt động nêu trên được thực hiện có hiệu quả góp phần tích cực trong
công việc giáo dục đạo đức cho học sinh người giáo viên cần lưu ý: Phát huy vai
trò, chức năng của các tổ chức và cá nhân trong nhà trường trong đó giáo viên
chủ nhiệm giữ vai trò rất quan trọng. Phối hợp tốt các tổ chức đoàn thể ngoài
nhà trường như: Hội cha mẹ học sinh, các cấp chính quyền địa phương trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh.
Việc sinh hoạt tập thể như sinh hoạt
dưới cờ đầu tuần, sinh hoạt vui chơi, lao động đều góp phần vào việc giáo dục
những hành vi ứng xử cho học sinh đạt hiệu quả. Tuy nhiên việc tổ chức cho học
sinh hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là để cho học sinh
được vui chơi lành mạnh. Để giáo dục kịp thời những hành vi ứng xử trong các
buổi sinh hoạt tập thể, tôi luôn lồng ghép những nội dung giáo dục đạo đức cho
học sinh như kể chuyện về gương “Người tốt – việc tốt”, tuyên dương những học
sinh ngoan, lễ phép với người lớn, thầy cô. Đối với tiết hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp tôi thường cho học sinh “sắm vai”, xử lý tình huống hay kể
chuyện những tấm gương tốt trong việc giúp đỡ mọi người, những mẩu chuyện về
những học sinh ngoan, lễ phép.
Ví dụ: “Tiết hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp, tôi cho học sinh xử lý tình huống: “Giúp đỡ người già”; “Khi bạn quên áo
mưa” …
Như vậy, với cách lồng ghép vào các buổi sinh
hoạt tập thể để giáo dục đạo đức cho học sinh, sự tiến bộ của các em về hành vi
ứng xử ngày được nâng cao, các em ngoan hơn, ý thức hơn và biết điều chỉnh hành
vi một cách tích cực. Điển hình như em Đoàn Duy Cảnh khi vào nhận lớp hình như
lúc nào tôi cũng nghe em nói chuyện với các bạn chỉ sử dụng “mày-tao” nhưng với
những lần sinh hoạt tập thể tôi thấy em tiến bộ rất nhiều. Bây giờ em giao tiếp
với bạn đã gọi “bạn” xưng “tôi”.
Ngoài ra, trong tuần tôi dành riêng một khoảng
thời gian cho việc sinh hoạt Đội, qua đó tôi dạy cho các em những bài hát, kể
những câu chuyện có nội dung giáo dục hành vi ứng xử tốt. Đồng thời, trong
những lần sinh hoạt Đội tôi yêu cầu các em tìm những gương tốt của các bạn về
chăm ngoan, lễ phép,… để kể cho nhau nghe. Qua việc sinh hoạt Đội đều đặn, học
sinh trước đây vốn rụt rè, nhút nhát, nhiều em khi giáo viên hỏi mãi vẫn không
trả lời, hoặc không biết ứng xử giao tiếp với bạn bè, nay đã có những hành vi
ứng xử tốt hơn và tiến bộ rõ rệt.
Ví dụ: Như em Nguyễn Khánh lúc trước khi hỏi
đến em, em không trả lời, thậm chí tôi hỏi nhiều lần “Nhà em ở đâu?” em cũng
không trả lời, tôi hỏi mãi em mới lí nhí trong miệng mà tôi cũng chẳng nghe
được gì. Nhưng bây giờ em tiến bộ rất nhiều, em đã nói to trong những lần sinh
hoạt tập thể, đồng thời cũng mạnh dạn tham gia phát biểu ý kiến trước đám đông…
c) Vận động mọi lực lượng tham gia
giáo dục đạo đức,hành vi ứng xử cho học sinh:
Việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là một công
việc khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh tiếp
nhận những tác động từ nhiều phía: Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Công tác
giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao khi phối hợp thống nhất được tác động theo hướng
tích cực. Đối với học sinh Tiểu học thì tác động giáo dục của nhà trường, gia
đình, xã hội có vai trò quan trọng. Vì vậy, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà
trường, gia đình, xã hội trong lĩnh vực này có tác dụng to lớn về nhiều mặt đó
là: Làm cho các tác động giáo dục đến với học sinh được thực hiện theo những
yêu cầu thống nhất; Giúp cho cha mẹ học sinh và giáo viên hiểu đầy đủ hơn về
đối tượng giáo dục của mình, nhờ đó đề ra được những biện pháp giáo dục phù
hợp; Tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong công tác giáo dục. Với ý nghĩa đó, sự kết
hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội từ lâu đã được xem là nguyên lý
cơ bản của giáo dục. Song làm thế nào để sự kết hợp này đáp ứng được những yêu
cầu của công tác giáo dục vẫn đang là vấn đề chưa có lời giải đáp. Ở trường
chúng tôi việc kết hợp giáo dục đạo đức cho học sinh giữa nhà trường, gia đình,
xã hội đã được thực hiện theo cơ chế phân công - Hợp tác bằng việc làm cụ thể,
thiết thực của cha mẹ học sinh, giáo viên và địa phương. Cụ thể là:
- Xác định rõ nhiệm vụ của nhà trường, gia đình dựa trên cơ sở vai trò, chức
năng và thế mạnh của mỗi bên. Nhà trường là cơ quan chuyên trách về giáo dục.
Vì vậy, nhà trường và giáo viên có nhiệm vụ thông báo kết quả học tập, rèn
luyện của học sinh ở trường, thông báo chủ trương, kế hoạch công tác của nhà
trường cho cha mẹ học sinh. Chủ động thu hút cha mẹ học sinh tích cực tham gia
công tác giáo dục. Nhà trường phải chú ý đúng mức đến một số nội dung liên quan
đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh như trao đổi về ưu, nhược điểm ở nhà
trường, ở gia đình để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. Đặc biệt, nội dung bồi
dưỡng kiến thức sư phạm, kiến thức gia đình cho cha mẹ học sinh đã trở thành
mối quan tâm của cả hai phía.
- Xây dựng quy định nếp sống hằng ngày ở nhà, ở trường, ở địa phương của học
sinh làm cơ sở cho việc thống nhất yêu cầu, nội dung giáo dục cũng như việc
đánh giá kết quả giáo dục. Nội dung của bản quy định bao gồm các việc làm và các
quan hệ hằng ngày của học sinh ở nhà, ở trường, ở địa phương; Nội dung của từng
việc làm, yêu cầu cần đạt được khi thực hiện. Các việc làm đó được sắp xếp theo
một trật tự nhất định tùy điều kiện cụ thể của gia đình, nhà trường, địa phương
và trình độ phát triển của học sinh từng lớp. Quy định này là do giáo viên cùng
cha mẹ học sinh xây dựng từ đầu năm học trong phiên họp cha mẹ học sinh đầu
năm. Những điều chỉnh cần thiết sẽ được hai bên thông báo kịp thời cho nhau
trong suốt năm học.
- Xác định những hình thức phối hợp nhằm đảm bảo mối quan hệ thường xuyên giữa
gia đình, nhà trường, xã hội. Hình thức trao đổi trực tiếp được thực hiện qua
việc giáo viên đến thăm gia đình học sinh, qua các cuộc họp cha mẹ học sinh,
qua điện thoại. Những cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp nêu trên cho phép được đề
cập nhiều vấn đề và đi sâu vào từng trường hợp cụ thể, tạo được mối quan hệ
thân mật hiểu biết lẫn nhau giữa giáo viên và cha mẹ học sinh, giúp giáo viên
hiểu rõ hoàn cảnh của từng học sinh, nhờ đó đưa ra những lời khuyên phù hợp cho
gia đình. Hình thức trao đổi gián tiếp như thông qua sổ lien lạc, qua đại diện
hội cha mẹ học sinh hoặc đại diện cộng đồng dân cư nơi gia đình học sinh cư
trú. Trong các hình thức này, việc trao đổi qua sổ liên lạc có tính khả thi hơn
cả. Song, sổ liên lạc phải được sử dụng một cách thường xuyên khi cần chứ không
phải theo định kỳ hàng tháng. Đồng thời, cần cải tiến hoạt động của cha mẹ học
sinh. Hội cha mẹ học sinh phải thực sự trở thành lực lượng hỗ trợ đắc lực cho
việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội. Vì vậy, về mặt tổ
chức, bên cạnh ban chấp hành Hội cần có tổ phụ huynh (của lớp) theo địa bàn học
sinh cư trú. Tổ trưởng phụ huynh sẽ hoạt động theo tư cách là cầu nối trao đổi
thông tin giữa nhà trường và gia đình.
Nếu nhà trường, gia đình, xã hội tác động đến học sinh theo cùng hướng trên
những quan điểm, nguyên tắc đúng đắn và thống nhất thì việc hình thành chuẩn
mực đạo đức cho học sinh sẽ có hiệu quả. Nếu các yếu tố đó tác động lệch hướng
đến từng học sinh thì sẽ vô hiệu hóa lẫn nhau, gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức
của trẻ. Để có được sự thống nhất, tạo ra sự cộng hưởng giữa nhà trường, gia
đình, xã hội nhà trường cần trở thành trung tâm văn hóa giáo dục, trở thành nơi
chỉ đạo thống nhất tác động của các lực lượng giáo dục.
Việc giáo dục hành vi ứng xử của học sinh mọi
lúc mọi nơi giúp điều chỉnh kịp thời những biểu hiện lệch lạc trong mọi hành vi
ứng xử của các em. Tuy nhiên, trong thực tế các em không được giáo dục kịp thời
do người lớn không chú ý sửa sai, điều chỉnh cho các em trong thời gian các em
ở nhà hoặc ngoài xã hội. Đối với thời gian ở lớp, ở trường học sinh luôn được
thầy cô điều chỉnh hành vi ứng xử khi biểu hiện sai lệch. Nhưng đó là thời gian
có thầy cô bên cạnh, giáo viên không bao quát được mọi hành vi ứng xử của các
em như trong giờ chơi, thời gian đến trường, trên đường đi học về, ở nhà, …
Gia đình, nhà trường, xã hội luôn được coi là
“tam giác đều” trong công tác giáo dục hành vi đạo đức, học tập cho học sinh có
hiệu quả. Tầm quan trọng của mỗi lực lượng cũng như mối quan hệ giữa gia đình,
nhà trường, xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh ai cũng biết và
thực hiện tuy nhiên luôn còn khoảng cách lớn giữa nói và làm.
Vì vậy, muốn giáo dục kịp thời, chấn chỉnh
những sai lệch cho các em trong cuộc sống, học tập hàng ngày tôi tiến hành thực
hiện như sau: Mời phụ huynh học sinh họp, nêu lý do, tầm quan trọng của việc
giáo dục kịp thời những hành vi ứng xử cho học sinh. Từ đó giáo viên cùng phụ
huynh ký bản thoả ước, cùng phối hợp thực hiện giáo dục con em ở nhà, đồng thời
luôn có sự thông tin kịp thời giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh về hành vi
đạo đức của các em. Vào đầu năm học giáo viên cho mỗi học sinh chuẩn bị một
quyển tập để ghi chép và trao đổi những điều giáo viên cùng phụ huynh học sinh.
Qua thực hiện tôi đã nhận được thông tin phản hồi của phụ huynh học sinh hàng
tuần.
Ví dụ: Thông tin từ phụ huynh học sinh em Đoàn
Duy Cảnh: “Cô ơi! Em Cảnh về nhà không thực hiện những điều cô dạy, em nói
chuyện với tôi không dạ thưa, em không học bài mà cứ xem ti vi. Cô làm ơn giáo
dục em giùm tôi, tôi rất cảm ơn cô!” chính nhờ thông tin phản hồi của phụ huynh
học sinh mà tôi có cơ hội điều chỉnh hành vi ứng xử của các em một cách kịp
thời và nhanh chóng. Tôi còn thường xuyên trao đổi với người dân xung quanh nhà
em để nắm thông tin về hành vi đạo đức của các em.
Vôùi caùch laøm naøy ñaõ giuùp chaán chænh kòp
thôøi nhöõng haønh vi ñaïo ñöùc maø hoïc sinh bieåu hieän chöa ñuùng, goùp
phaàn raát lôùn trong coâng taùc giaùo duïc ñaïo ñöùc hoïc sinh.
d) Giaùo duïc dao dức, haønh vi öùng xöû cuûa hoïc sinh moiï luùc moïi
nôi:
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi đang
hình thành nhân cách. Nếu chúng ta định hướng kịp thời và đúng lúc cho các em
thì nhân cách ấy ngày càng hoàn thiện, các em sẽ trở thành một người có đạo đức
tốt. Tuy nhiên, nếu thiếu sự quan tâm, sửa chữa kịp thời của người lớn, thầy cô
thì hành vi đạo đức của các em sẽ bị mai một, các em sẽ dần dần tạo những thói
quen xấu, bắt chước những hành vi đạo đức xấu như nói chuyện với bạn là “mày –
tao” trong lúc chơi đùa, không biết giúp đỡ người khác,… Việc giáo dục hành vi
đạo đức cho học sinh không chỉ dành riêng cho các buổi học, các giờ lên lớp mà
phải luôn được quan tâm mọi lúc mọi nơi. Việc làm này đòi hỏi người giáo viên
phải có tâm huyết, yêu thương học sinh hết mực do phải mất nhiều thời gian. Để
thực hiện tốt việc giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh mọi lúc mọi nơi giáo
viên phải thường xuyên để mắt đến tất cả những sinh hoạt của học sinh bên trong
nhà trường từ trong học tập, vui chơi, giao tiếp với thầy cô, người lớn, bạn
bè,… khi các em có những biểu hiện bất thường về việc vi phạm hành vi đạo đức,
giáo viên phải kịp thời điều chỉnh cho các em em một cách thật tế nhị, mềm dẻo,
linh hoạt, tránh những lời nói xúc phạm như quát, mắng, phạt học sinh. Không
chỉ dừng lại ở khía cạnh giáo dục hành vii đạo đức đối với những học sinh vi
phạm mọi lúc mọi nơi, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên, kịp thời tuyên
dương những học sinh có những biểu hiện hành vi đạo đức tốt, nhằm gây lan toả,
nhân rộng hành vi đạo đức tốt trong lớp.
Ví dụ: Trong giờ chơi của học sinh, giáo viên
có thể ngồi ở một nơi nào đó để quan sát học sinh vui chơi, nếu các em có những
biểu hiện vi phạm về hành vi đạo đức như nói chuyện với bạn bằng “mày – tao”
thì giáo viên kịp thời đến điều chỉnh cho các em.
Phân công học sinh có hành vi đạo đức tốt kèm
sát một học sinh có hành vi ứng xử không tốt trong giờ ra chơi hoặc trên đường
đi học về để kịp thời báo cáo cho giáo viên những biểu hiện sai lệch của bạn
như không lễ phép với người lớn, không chào hỏi người lớn tuổi, xưng hô với bạn
bè “mày – tao”… Với việc làm tôi được học sinh cung cấp thông tin kịp thời nên
điều chỉnh có hiệu quả những hành vi sai lệch cho các em.
Ví dụ: Việc phân công một học sinh có hành vi
đạo đức tốt kèm một học sinh có hành vi đạo đức chưa tốt tôi thấy có kết quả rõ
rệt. Hằng ngày tôi có thói quen lên lớp trước 15 phút. Một hôm, có một học sinh
chờ tôi sẵn ngay bàn giáo viên, khi tôi bước vào lớp thì em liền bảo: “Thưa cô,
trưa hôm qua đi học vè bạn Nhung gặp người lớn không chào, em nhắc bạn còn chửi
em và còn thách em ngày mai vào thưa cô đi”. Lúc ấy tôi liền mời Nhung đi chỗ
khác và tìm cách giáo dục em. Tôi nói: “Em là học sinh mà gặp người lớn không
chào hỏi là học sinh chưa ngoan và chưa được mọi người yêu mến”. Trao đổi với e
hồi lâu thì em hứa với tôi là em sẽ thực hiện những điều tôi chỉ bảo. từ đó em
Nhung khi gặp người lớn tuổi chào hỏi rất lẽ phép.
Với viecj giáo dục đạo đức cho học sinh mọi
lúc mọi nơi mà hành vi ứng xử đạo đức của lớp tôi ngày được hoàn chỉnh, các em
ngày càng ngoan và những hành vi ứng xử chưa có đạo đức của các em không còn
nữa.
2. Kết quả:
Qua quá trình thực hiện các biện pháp nêu trên vào việc giáo dục đạo đức cho
học sinh trong nhà trường tôi thấy các em học sinh có chuyển biến rõ rệt, có ý
thức cao trong học tập và rèn luyện, biểu hiện cụ thể như sau:
- Xác định được mục đích học tập, chuyên cần, ham học, trung thực trong học tập
và đạt kết quả tốt. luôn khiêm tốn và giúp đỡ nhau cùng học tập tiến bộ; mạnh
dạn đấu tranh thói lười biếng, ỷ lại, thiếu trung thực trong học tập.
- Tham gia đầy đủ và thực hiện tốt các buổi lao động, hoạt động tập thể. Có ý
thức thực hành tiết kiệm, quý trọng và bảo vệ tài sản của nhà trường, của lớp
học, sẵn sàng tham gia lao động góp phần xây dựng địa phương do nhà trường tổ
chức.
- Tích cực rèn luyện thân thể và tham gia các buổi thể dục chính khóa và ngoại
khóa; luôn giữ vệ sinh cá nhân, giữ sạch đẹp trường lớp.
- Thực hiện nếp sống lành mạnh, có văn hóa, có kỷ luật. Sống trung thực, đúng
mực trong các mối quan hệ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, gia đình và những
người xung quanh.
- Có ý thức thực hiện tốt pháp luật, chính sách liên quan đến bản thân. Có thái
độ rõ ràng ủng hộ cái đúng, cái tốt; không đồng tình với những biểu hiện sai
trái trong và ngoài nhà trường. Tích cực tham gia các hoạt động do nhà trường
tổ chức, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn.
Dưới đây là bảng tổng hợp chất lượng rèn luyện đạo đức và hành vi ứng xử đạo
đức của học sinh lớp 4A trường Tiểu học Tam Hưng tính đến hết tháng 9 năm 2015:
Thời
gian |
Sĩ
số |
Ứng
xử tốt |
Ứng
xử với người lớn, thầy cô chưa đạt |
Chưa
biết giúp đỡ, xưng hô, ứng xử với bạn bè |
|||
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
Số
lượng |
Tỉ
lệ |
||
01/8/2015 |
42 |
35 |
83% |
3 |
8% |
4 |
9% |
25/9/2015 |
42 |
40 |
95% |
0 |
0% |
2 |
5% |
3. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh
Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của
mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời là trách nhiệm nặng nề
của ngành giáo dục trong đó vai trò của các trường học rất quan trọng. Giáo dục
đạo đức cho học sinh bậc tiểu học góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhân
cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh. Từ việc đề xuất một số biện pháp giáo dục
đạo đức cho học sinh, qua tìm hiểu thực tế giáo dục đạo đức ở một số lớp, ở một
số giáo viên có kinh nghiệm, tôi khái quát dưới đây một số bài học kinh nghiệm
về giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học như sau:
- Phải lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là
linh hồn, là cố vấn tối cao của một lớp, là lực lượng giáo dục nòng cốt của nhà
trường. Họ là người trực tiếp tổ chức, quản lý toàn diện các hoạt động giáo dục
của một lớp. Cho nên giáo viên chủ nhiệm có tâm huyết với học sinh, theo tôi đó
là yếu tố trước hết để có thể cảm hóa, giáo dục học sinh trở thành người tốt.
- Nắm vững nguyên nhân dẫn đến dẫn đến hành vi không tốt để đề xuất biện pháp
giáo dục thích hợp với từng loại đối tượng học sinh. Công việc này chẳng khác
nào một người thầy thuốc chữa bệnh, chuẩn đoán đúng sẽ điều trị có hiệu quả; mà
muốn chuẩn đoán đúng, giáo viên chủ nhiệm phải là người hết sức sâu sát, nắm
vững đặc diểm, tâm lí học sinh cũng như hoàn cảnh gia đình của các em.
- Kết hợp chặt chẽ với gia đình để giáo dục các em. Hầu như những học sinh hư,
dù ở mức độ nào cũng đều có nguyên nhân từ phía gia đình. Gia đình là một môi
trường, lực lượng giáo dục đầu tiên, trực tiếp, gần gũi, thường xuyên và lâu
dài nhất đối với mọi trẻ em. Vì vậy, nhà trường, đặc biệt là giáo viên chủ
nhiệm cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với gia đình để tạo môi trường giáo dục
thống nhất, đồng bộ đối với học sinh hư.
- Xây dựng đôi bạn, nhóm bạn tốt để thường xuyên kèm cặp, uốn nắn kịp thời
những hành vi tái phạm của những học sinh hư. Trong biện pháp này, giáo viên
chủ nhiệm phải xử lí khéo léo các thông tin mà học sinh trong nhóm phản ánh cho
mình, đồng thời giáo dục các em đó có lòng thương yêu, đặt niềm tin vào sự tiến
bộ của bạn. Khéo léo sử dụng dư luận tích cực của tập thể để điều chỉnh hành vi
sai trái của những học sinh hư. Dư luận tập thể có tác dụng điều chỉnh hành vi
của từng thành viên theo yêu cầu của tập thể. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần
kịp thời phát hiện dư luận và có biện pháp xử lí thích hợp, giúp học sinh có
biểu hiện sai trái tiếp nhận ý kiến của tập thể, tránh sự áp đặt gây nên mặc
cảm, tự ti hoặc chống đối ở các em.
- Thuyết phục là phương pháp giáo dục nhằm tác động vào ý thức, tình cảm, niềm
tin, ý chí của học sinh. Đây là phương pháp có vai trò mở đường cho mọi quá
trình giáo dục bất kỳ một phẩm chất, năng lực nào. Đối với việc giáo dục học
sinh hư, khi thực hiện phương pháp này cần hết sức tránh nóng vội và cần nắm
bắt cụ thể đặc điểm tâm lí, tính cách cũng như hoàn cảnh gia đình, quan hệ bạn
bè của đối tượng này để có biện pháp giáo dục.
- Phát hiện, động viên kịp thời những tiến bộ dù nhỏ để xây dựng niềm tin ở học
sinh. Theo số liệu điều tra, số học sinh có biểu hiện sai trái về đạo đức đã
mất hết niềm tin vào bản thân. Vì vậy, việc khích lệ những cố gắng, tiến bộ của
các em sẽ có tác dụng như một động lực, một sinh khí mới cho các em phấn đấu.
Giáo dục lại đạo đức cần gắn liền với giáo dục lòng say mê học tập. Phần đông
học sinh hư đều lười biếng học tập, việc thu hút các em vào hoạt động học tập
sẽ dần dần tách các em khỏi những quan hệ xấu và bản thân nội dung các môn học
cũng góp phần nâng cao nhận thức giúp các em tự điều chỉnh mình.
Tóm lại, kinh nghiệm thành công của thầy cô giáo trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh trước hết là phải nghiên cứu, nắm chắc nguyên nhân và đặc điểm tâm
sinh lí, khả năng của từng học sinh. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch phù hợp
và tổ chức được các lực lượng giáo dục thống nhất tác động. Trong các lực lượng
giáo dục đó phải chú ý đúng mức đến sức mạnh đồng bộ của tập thể thầy cô giáo,
tập thể học sinh và gia đình học sinh. Phương pháp giáo dục đúng và thích hợp
từng học sinh cũng là một yếu tố quan trọng đảm bảo thành công đối với học sinh
yếu đạo đức còn đòi hỏi cao ở nhiều người thầy, cô giáo về mặt uy tín,về thái
độ nhiệt tình, về tính kiên trì, lòng độ lượng, bao dung. Đó cũng là những phẩm
chất làm nên sức mạnh giáo dục đạo đức đối với học sinh hư. Nguyện vọng thiết
tha của đông đảo thầy cô giáo là được hướng dẫn, cung cấp những kinh nghiệm
hiện đại để giáo dục tốt phẩm chất đạo đức cho học sinh. Đó cũng chính là yêu
cầu cấp bách phải nghiên cứu, tìm ra những giải pháp giáo dục mới, cụ thể, có
hiệu quả cao đối với học sinh yếu kém về đạo đức.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Từ chiều sâu lịch sử, dân tộc Việt Nam sớm
hình thành một nền đạo đức và luôn có ý thức tu dưỡng, giữ gìn truyền thống đạo
đức của dân tộc; luôn xem đạo đức cách mạng là phẩm chất đầu tiên, là cái gốc
của mỗi con người. Bác Hồ đã dạy: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” và Bác
Hồ cũng chỉ rằng: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà
nên”. Từ thực tiễn, xây dựng, bảo vệ đất nước, từ những ý kiến chỉ dạy của
Bác Hồ cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh
bậc Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm
của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời cũng là trách nhiệm
nặng nề của ngành giáo dục và đào tạo trong đó vai trò của các trường học rất
quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh bậc Tiểu học thông qua các hoạt động
tập thể, thông qua sự phối hợp với gia đình, nhà trường và xã hội góp phần
không nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh. Để
hoạt động này có hiệu quả người giáo viên Tiểu học có thể kết hợp nhiều phương
pháp, nhiều biện pháp giáo dục. Vì có điều kiện thường xuyên tiếp xúc với các
em, người giáo viên Tiểu học có cơ hội hiểu biết đầy đủ đặc điểm tâm lí, sinh
lí của học sinh, theo dõi được sự phát triển của từng em để có biện pháp giáo
dục phù hợp.
Để thực hiện được nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học, người giáo
viên cần:
- Góp phần vào việc xây dựng một bầu không khí lành mạnh (đầy lòng thương yêu,
tin cậy, an toàn) trong trường và lớp.
- Hiểu về đặc điểm phát triển của trẻ, lựa chọn biện pháp giáo dục với cả lớp
và từng học sinh.
- Tiến hành giáo dục đạo đức thông qua những tình huống cụ thể. Hết sức tránh
lý thuyết và hô hào, trừ những trường hợp đặc biệt.
- Tổ chức việc giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động ngoài lớp và ngoài giờ,
kết hợp chặt chẽ với giáo dục ở lớp.
- Sử dụng một cách thận trọng các biện pháp giáo dục đạo đức trực tiếp, vì mỗi
phương pháp giáo dục đều có hạn chế riêng của nó.
- Chớ quên rằng khi dạy bất kỳ môn học nào, người giáo viên đều làm nhiệm vụ
giáo dục giá trị đạo đức. Cần làm cho học sinh hiểu môn học trong tổng thể; nội
dung thông tin, phương pháp, những giá trị có trong đó.
- Người giáo viên có tác dụng giáo dục bằng toàn bộ nhân cách của mình. Trẻ em
nhìn người giáo viên một cách tổng quát, vì vậy người giáo viên cần không ngừng
tu dưỡng đạo đức. “Tấm gương bao giờ cũng có giá trị hơn lời giáo huấn”
điều này nhắc nhở rằng người giáo viên cần phải trung thực, thẳng thắn trong
cách đối xử với học sinh. Nếu người giáo viên yêu môn học nào, học sinh cũng
yêu môn học đó; Nếu người giáo viên quan tâm bảo vệ môi trường, học sinh cũng
sẽ quan tâm đến điều đó; Nếu người giáo viên làm việc và sinh hoạt đúng giờ,
cẩn thận, có tinh thần trách nhiệm, học sinh sẽ cố gắng được như vậy. Chúng ta
luôn luôn lưu ý rằng giáo dục đạo đức không chỉ dừng ở việc hình thành thói
quen, mà điều chủ yếu là phải từ việc luyện thói quen hành vi đạo đức mà xây
dựng được niềm tin đạo đức, làm cơ sở cho ứng xử thường xuyên của các em.
Trong bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay, khi giáo dục đào tạo trở thành quốc
sách hàng đầu, bậc tiểu học trở thành bậc nền tảng, cần nhanh chóng được phổ
cập và nâng cao chất lượng, góp phần tích cực đào tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một trong những mục tiêu cơ bản
trong chiến lược giáo dục đào tạo là phát triển nhân cách nguồn nhân lực. Nhân
cách đó phải định hướng đúng đắn ngay từ bậc giáo dục tiểu học. Các nhà quản lý
giáo dục nắm chắc mục tiêu này để có kế hoạch, biện pháp trong quá trình tổ
chức thực hiện các hoạt động giáo dục để hình thành nhân cách và giáo dục đạo
đức cho học sinh Tiểu học. Trong công cuộc đổi mới vấn đề giáo dục đạo đức cho
học sinh Tiểu học được đặt ra với yêu cầu bức thiết:
- Cần đảm bảo cư xử với học sinh như một chỉnh thể, một nhân cách đang hình
thành. Nhà trường cần giáo dục toàn diện, thực hiện tốt các tiêu chuẩn quốc gia
đối với một trường Tiểu học. Cần đảm bảo sự bình đẳng cho học sinh để hình
thành và phát triển hành vi đạo đức, quan tâm đặc biệt đến những học sinh đang
gặp những khó khăn bất lợi. Cần có những định hướng đúng đắn cho sự hình thành
và phát triển hành vi đạo đức tiếp theo của học sinh sau bậc tiểu học.
- Tổ chức ngày hội truyền thống với nhiều hoạt động phong phú thu hút 100% học
sinh tham gia. Tổ chức tốt việc thực hiện các chủ điểm giáo dục học sinh theo
từng khối lớp nhằm rèn luyện nếp sống đạo đức cho các em.
- Tạo điều kiện cho Đội Thiếu niên tiền phong tổ chức các hoạt động tập thể
(chào cờ đầu tuần, múa hát tập thể, các hoạt động ngoài giờ lên lớp…). Làm tốt
công tác giáo dục ý thức tiết kiệm, lòng từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, uống nước
nhớ nguồn.
- Giáo viên tự rèn luyện phong cách đạo đức, gương mẫu trước học sinh, phải là
tấm gương sáng về mọi mặt để học sinh noi theo. Giảng dạy tốt các tiết Đạo đức
theo hướng tích cực. Tăng cường giáo dục tình cảm, kết hợp chặt chẽ giữa gia
đình, nhà trường, xã hội để có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm nền tảng cho
việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Với những yêu cầu trên, nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội cần nhận
thức đầy đủ và có trách nhiệm cùng với các nhà quản lý giáo dục tiến hành các
hoạt động giáo dục thiết thực nhằm phát triển năng lực toàn diện cho học sinh.
2.Một số khuyến nghị:
Xuất phát từ những nguyên
nhân về một số hành vi đạo đức, cách ứng xử chưa văn minh, lịch sự của học sinh
lớp 4A còn hạn chế, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy những
kết quả tích cực đạt được, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh như sau:
* Đối với giáo viên:
Cần tìm hiểu đặc điểm riêng của mỗi học sinh
để có biện pháp giáo dục đạo đức phù hợp, luôn lấy những câu chuyện, tấm gương
tốt gần gũi để động viên, giáo dục hành vi đạo đức cho các em. Phối hợp thật
tốt các lực lượng xã hội, các đoàn thể trong nhà trường để có những biện pháp
giáo dục đạo đức học sinh gắn liền thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực
nhất.
*Về phía nhà trường:
Cần tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt
động tập thể, giúp các em mạnh dạn, có cơ hội bộc lộ những phẩm chất đạo đức,
từ đó giúp giáo viên có biện pháp giáo dục cho các em hợp lý.
*Về
phía gia đình học sinh:
Cần phối hợp tốt với nhà trường, các lực lượng
giáo dục khác ngoài xã hội để có biện pháp giáo dục con em ở nhà thật tốt,
tránh quá nuông chiều, hoặc giáo dục đạo đức cho các em không đúng hướng.
Vì thời gian nghiên cứu có hạn, nên bản sáng
kiến kinh nghiệm này có thể có chỗ còn hạn chế. Rất mong Hội đồng khoa học các
cấp và các bạn đồng nghiệp góp ý để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn
thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!