Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp
ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục
phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ cho phù hợp với sự phát triển, mà
thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là : Học để biết ; Học
để làm ; Học để tự khẳng định mình và Học để chung sống.
Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là việc rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá
trình hình thành nhân cách của trẻ cho đến tuổi trưởng thành. Giáo dục kĩ năng sống phải được bắt
đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, đặc biệt ở lứa tuổi Tiểu học. Bởi vì lứa tuổi này
đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách. Việc làm quen với
các môn học để hình thành và xây dựng cho các em các kĩ năng sống như: Giao
tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm,… sẽ giúp các em tự tin, chủ động biết
cách xử lí mọi tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những
khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh của các em. Việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh sẽ hình thành và tập dượt cho các em những hành vi, thói
quen, kĩ năng xử lý các tình huống diễn ra trong cuộc sống. Học sinh
tiểu học ở lứa tuổi còn nhỏ, các em nhận thức về cuộc sống còn ít, hành vi ứng
xử cuộc sống chưa nhiều. Vì thế ở tiểu học giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh là hết sức cần thiết. Nó không dừng lại ở chỗ giáo dục kĩ năng sống lồng
ghép vào các môn học là đủ mà giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các hoạt động
của nhà trường.
Đối với Ban giám hiệu trường tiểu học, vấn đề chỉ đạo giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống
cho học sinh đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong hoạt động quản
lí, bởi cấp tiểu học là một cấp học mà đối tượng học sinh còn như những tờ giấy
trắng. Vậy chúng ta phải làm gì để các em có một nền tảng vững chắc để mãi mãi
giữ được cái ‘bản thiện” ấy khi các em lớn lên và quan trọng là có một hành
trang đầy đủ, chắc chắn để tiến bước tới một kỉ nguyên mới, thời đại mới? Để
làm được những điều đó, chắc chắn nhà trường sẽ không chỉ truyền đạt kiến thức,
mà phải cần nhiều hơn kiến thức. Chỉ khi biết, hiểu và vận dụng được các vấn đề
đó vào công tác quản lí của mình thì người quản lí mới có thể truyền tải tinh
thần và nội dung giáo dục này tới giáo viên thông qua đó tác động tích cực tới
học sinh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài sáng
kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Lê Lợi – CưMgar – Đăk Lăk.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ
của đề tài.
Trên cơ sơ phân tích thực trạng của đơn vị và kinh nghiệm
của bản thân trong công tác cùng trao đổi với đồng nghiệp về một số biện pháp
chỉ đạo chung về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh trường tiểu học Lê Lợi –
CưMgar nói riêng.
Giúp giáo viên
hiểu được khái niệm kĩ năng sống và sự cần thiết phải dạy lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống ở trường phổ thông nói chung và bậc học tiểu học nói riêng; Giúp giáo
viên nắm vững cách tiếp cận và phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong nhà trường. Đề xuất một số biện pháp trong công tác chỉ đạo dạy lồng ghép
giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học và các hoạt động giáo dục khác tại
trường tiểu học Lê Lợi – CưMgar – Đăk Lăk.
Nghiên cứu
những văn bản chỉ đạo, tài liệu hướng dẫn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở
trường phổ thông và tổ chức điều ra khảo sát đánh giá thực trạng giáo dục kỹ
năng sống tại trường tiểu học Lê Lợi – CưMgar – Đăk Lăk.
3. Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh trường
tiểu học, các văn bản và tài liệu hướng dẫn thực hiện lồng ghép giáo dục kỹ
năng sống trong trường tiểu học.
Tập trung nghiên
cứu công tác chỉ đạo việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tại trường tiểu
học.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và
khả năng có hạn nên bản thân tôi chỉ tập trung nghiên cứu và đề ra một số giải
pháp giáo dục kĩ năng sống đối với học sinh tại trường tiểu học từ năm học 2015
-2016 – đến năm học 2016 – 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề
tài này tôi đã sự dụng các phương pháp
chủ yếu như phân tích, tổng hợp số liệu.
Bên cạnh đó là sự kết hợp các phương pháp thống kê, phân loại...
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Ở trường Tiểu
học: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đó chính là rèn
luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình
huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt nhóm. Rèn luyện
sức khỏe và bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước
và các tai nạn thương tích khác; rèn kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa
bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.... Để có cơ sở và tài liệu phục
vụ dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tháng 1 năm 2011 Bộ Giáo
Dục Đào Tạo, nhà xuất bản giáo dục đã xuất bản bộ sách Giáo dục kỹ năng sống
trong các môn học ở tiểu học (tài liệu dùng cho giáo viên) Nhằm giúp giáo viên
có thêm hiểu biết chung về kỹ năng sống và nội dung, cách thức giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trong các môn học đó là: Khoa học, Đạo đức, Tự nhiên xã hội,
Tiếng việt.
Để thực hiện tốt
công tác giáo dục lồng ghép Kỹ năng sống trong nhà trường. Sở Giáo & Đào
Tạo Đăk Lăk ban hành công văn số 108/CV – SGD ĐT triệu tập cán bộ và giáo viên
cốt cán ở các trường tiểu học học trên địa bàn tỉnh tập huấn Tăng cường giáo
dục kỹ năng sống ở trường phổ thông và chỉ đạo rõ đối với cấp tiểu học việc
tăng cường giáo dục kỹ năng sống thông qua 4 môn học Khoa học, Đạo đức, Tự
nhiên xã hội, Tiếng việt.
Công văn số
942/SGD ĐT- GDTH ngày 21 tháng 8 năm 2015 về việc hướng dẫn thực hiện kế hoạch
giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
Công văn
số 09/HD – PGD ĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Phòng Giáo Dục Đào Tạo huyện CưMgar
về viêc hướng dẫn Nhiệm vụ trọng tâm Giáo Dục Tiểu học cũng đã chỉ đạọ nhiệm vụ
chung ” tăng cường giáo dục
đạo đức, giáo dục kĩ năng sống”, chú trọng các hoạt động giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh
thông qua các môn, các hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa.
Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và cộng đồng cùng tham gia chăm sóc
giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh”.
- Khái niệm kỹ năng sống: Có
nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống nhưng theo Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực, giúp cá
nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng
ngày.
- Các kỹ năng giáo
dục học sinh ở tiểu học:
Kỹ năng tự
nhận thức; kỹ năng xác định giá trị; kỹ năng kiểm soát cảm xúc; kỹ năng ứng phó
với căng thẳng; kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ; kỹ năng thể hiện sự tự tin; kỹ năng
giao tiếp; kỹ năng lắng nghe tích cực; kỹ năng thể hiện sự cảm thông; kỹ năng
thương lượng; kỹ năng giải quyết mâu thuẫn; kỹ năng hợp tác; kỹ năng tư duy phê
phán; kỹ năng tư duy sáng tạo; kỹ năng ra quyết đinh; kỹ năng giải quyết vấn
đề; kỹ năng kiên định; kỹ năng đảm nhận trách nhiệm; kỹ năng đặt mục tiêu; kỹ
năng quản lý thời gian; kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
2.Thực trạng của việc chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho
học sinhtrong nhà trường.
a,
Những thuận lợi , thành công.
Trường tiểu học Lê
Lợi đóng trên địa bàn Tổ dân phố 4- Thị trấn Quảng Phú- huyện Cư Mgar , nằm ở trung tâm huyện CưMgar, đa số học sinh là
người kinh di cư từ miền Bắc- miền Trung
vào. Là trung tâm huyện nên con em cán bộ tương đối nhiều. Số còn lại là các hộ
phụ huynh làm café ; hồ tiêu và buôn bán
nhỏ nên đời sống tương đối ổn định.
Vì trường nằm ở địa bàn
trung tâm huyện – nơi đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội phát triển, nên học
sinh có điều kiện được tiếp cận với các hoạt động sinh hoạt văn hóa xã hội một
cách thường xuyên, kịp thời. Đó là các hoạt động liên quan tới học tập, tri
thức, phát triển năng khiếu, thể chất, hoặc đôi khi chỉ là các hoạt động giải
trí đơn thuần, lành mạnh. Với những hoạt động đó, các em có thể trực tiếp tham
gia học hỏi và qua đó, dần trưởng thành hơn về vốn hiểu
biết, nhận thức, kinh nghiệm bản thân.
Bên cạnh các thuận lợi về vị trí địa bàn mang
lại, thì trường tiểu học Lê Lợi cũng có thêm một mặt mạnh nữa là về cơ sở vật
chất đó là được sự quan tâm của các cấp các ngành, năm 2015 nhà trường được xây
mới 8 phòng. Trang bị thêm 3 máy chiếu nên có nhiều thuận lợi trong việc nâng
cao hoạt động dạy học và tổ chức hoạt động ngoại khóa.
Năm học 2016 – 2017 trường có 25 lớp với 702 học sinh, Trong đó nữ: 343; DT: 21; Đội ngũ CBGV, NV gồm 44 người trong đó: QL: 3; GV 34; Nhân viên : 6; TPT: 1. Cơ sở vật chất đủ phục vụ dạy học 7 buổi / tuần. Trường có 1 phòng máy tính với
25 máy với hệ thống mạng wife phủ khắp trường, đáp ứng nhu cầu dạy và học của
GV, HS. Những yếu tố đó đã tạo điều kiện thuận lơi rất nhiều trong các hoạt
động giáo dục tri thức, đạo đức, thể chất cũng như các hoạt động giáo dục kĩ
năng của học sinh..
Ngoài ra, không thể
không kể đến các yếu tố khác cũng rất quan trọng như: các công văn chỉ đạo, văn
bản hướng dẫn từ bộ giáo dục, sự chỉ đạo sát sao của cơ quan quản lí trực tiếp
là phòng giáo dục huyện CưMgar. Đặc biệt, phòng Giáo Dục và Đào Tạo huyện
CưMgar tổ chức tập huấn về hướng dẫn dạy
lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các
môn học nghiêm túc, đầy đủ các nội dung theo tài liệu, đồng thời ban hành các
văn bản hướng dẫn để thực hiện và thường xuyên kiểm tra đôn đốc, tư vấn kịp
thời.
Cán bộ quản lý và giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng
của việc dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học.
Đội ngũ giáo
viên có năng lực và nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình trong công tác.
Sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài
nhà trường luôn được duy trì.
Học sinh đa số chăm ngoan, lễ phép, có các kỹ
năng trong giao tiếp, ứng xử.
Hiện nay với việc đổi mới cách đánh giá học
sinh theo thông tư 22/2016/TT-BGD&ĐT ngày 22/9/2016 đã giảm bớt gánh nặng hồ sơ sổ sách cho giáo
viên,thời gian chuẩn bị bài, nghiên cứu nội dung tích hợp Kỹ năng sống để
chuyền tải tới học sinh nhiều hơn và ngày càng hiệu quả.
Thực tế đã từ nhiều năm nay, nhà
trường xây dựng được kế hoạch chỉ đạo
dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học theo quy định, phù hợp với
đối tượng học sinh và đặc điểm tình hình của nhà trường.
Nhà trường đã xây dựng được nội quy
ứng xử giữa Cán bộ - giáo viên; Giáo
viên – giáo viên; giáo viên – học sinh; giáo viên – phụ huynh. Toàn thể cán bộ
giáo viên thực hiện nghiêm túc, luôn nêu cao sự gương mẫu trước học sinh.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của
việc phải giáo dục kỹ năng sống cho sinh và luôn tự giác học tập nghiên cứu
trau dồi kiến thức về các kỹ năng sống cần thiết cho học sinh tiểu học.
Giáo viên trong các tổ khối tổ chức sinh hoạt nghiêm túc nghiên
cứu về các địa chỉ đã được gợi ý về nội dung hình thức, phương pháp sử dụng để
lồng ghép có hiệu quả.
Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy
học, sử dụng các phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học mới, tạo cơ hội cho học
sinh tham gia vào các hoạt động học tập sôi nổi, học sinh được thể hiện mình ở các vị
trí nhiệm vụ khác nhau trong từng môn học tạo cho các em tự tin, mạnh dạn hơn
khi thảo luận nhóm hay linh hoạt hơn
trong xử lý các tình huống.
Sau nhiều năm chỉ đạo thực hiện dạy
lồng ghép kỹ năng sống, học sinh đã có kỹ năng cơ bản trong giao tiếp và sinh
hoạt hàng ngày: biết xưng hô văn hóa với bạn bè, chào hỏi lễ phép với người lớn
tuổi; biết quan tâm chia sẽ niềmvui nỗi
buồn với người khác, đặc biệt các em đã biết được giá trị của bản thân
từ đó phân biệt đúng - sai, tốt - xấu để
đưa ra các quyết định đúng, nên trong những năm qua nhà trường không có học
sinh vi phạm nội quy trường lớp hay bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội như: game;
thuốc lá, ma túy … hay trẻ em gái bị xâm
hại tình dục.
Thông qua các bài học, các trò chơi
dân gian, các hoạt động tập thể đã khơi dậy được lòng tự hào dân tộc, tinh thần
đoàn kết, và duy trì được các nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc ta.
Xây dựng được môi trường học tập, thân thiện –
khang trang sạch đẹp.
Tất cả những yếu tố
tiên quyết đó đã tạo một nền tảng khá chắc chắn cho những chương trình giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh, với mục tiêu đặt ra là hoàn thiện nhân cách và trang
bị cho các em các kiến thức đầu đời về các mặt để có hành trang bước vào cuộc
sống.
b, Khó khăn, hạn chế:
Bên cạnh nhiều thuận
lợi và thành công ấy thì nhà trường cũng vẫn còn một số khó khăn nhất định và
những khó khăn này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh. Các khó khăn có thể nói đến như: chương trình học ở các lớp
còn lồng ghép, tích hợp nhiều nội
dung, như vậy, các nội dung liên quan tới kĩ năng sống sẽ chưa được chuyên sâu. Người truyền đạt tới các em là giáo viên nhưng
thực tế cho thấy, một số giáo viên chưa hiểu sâu về việc giáo dục kỹ năng sống.
Bản thân giáo viên thiếu hụt một số kinh
nghiệm ứng xử nhất định. Có lẽ vì thế mà đa số giáo viên còn lúng túng trong
việc lựa chọn các hình thức, phương pháp, nội dung lồng ghép vào từng bài, môn
học cụ thể. Nên việc lồng ghép chưa đạt hiệu quả, mang tính hình thức ….
Mặt khác, tuy nhà trường
được xây dựng thêm 8 phòng học kiên cố
nhưng mới chỉ đủ tổ chức dạy 7 buổi/tuần( Chưa đạt 2 buổi/ngày), bên cạnh đó sân
chơi bãi tập chưa đạt chuẩn. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc triển khai
nội dung giáo dục cũng như kết quả đạt được. Mặc dù nhà trường cũng đã tạo mọi
điều kiện nhưng vấn đề cho học sinh đi tham quan dã ngoại, học tập bằng thực tế
và tiếp xúc với môi trường xung quanh còn vô cùng hạn chế do kinh phí quá ít
ỏi, vì vậy, việc truyền đạt vẫn chủ yếu là trong không gian lớp học, chưa tiến
tới người thật, việc thật, vậy nên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao, nhận thức về
cuộc sống, xã hội của học sinh sẽ vẫn còn mang nặng tính lí thuyết.
Tính gương mẫu của
một số người lớn, ở một số ít phụ huynh ở đôi lúc, đôi nơi chưa chuẩn mực, điều
đó tác động không ít đến hành vi, nhận thức của
lứa tuổi các em. Trường tiểu học Lê Lợi đóng trên một địa bàn rất thuận lợi để
các em có thể tiếp thu, học hỏi các luồng văn hóa, các ngọn gió mới. Thế nhưng
bên cạnh cái tốt, cái văn hóa dĩ nhiên sẽ có cái chưa tốt, cái chưa văn hóa
song song xuất hiện, tồn tại, lứa tuổi các em còn nhỏ, chưa có kĩ năng trong
chọn lọc và nhìn nhận nên các em dễ bị
lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội .
Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào các
môn học đã được chỉ đạo thực hiện trong nhiều năm qua nhưng hình thức và nội
dunh tích hợp chưa được khai thác triệt để và có hiệu quả trong từ bài học cụ
thể.
Giáo viên đã bước đầu giáo dục cho học sinh
một số kỹ năng phù hợp với từng môn học và từng lớp học tuy nhiên chưa thực sự
chú trọng đến việc rèn luyện hành vi, thói quen cho các em trong cuộc sống hằng
ngày.
Số ít học sinh nhút nhát, thiếu tự tin, không
dám trình bày ý kiến hay đưa ra quyết định của mình mà phần lớn là dựa vào các
bạn trong sinh hoạt nhóm, tập thể…
Thực tế học sinh
còn thiếu hụt các kỹ năng: Kỹ năng tự tin, kỹ năng giao tiếp; kỹ năng ứng xử; kỹ
năng giải quyết các mâu thuẩn; kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn
đề. Kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng hợp tác.....
học sinh khi giao tiếp với bạn bè nói trống không, xưng hô chưa lịch sự.
Hiện nay kĩ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo
dục chúng ta thường mới chỉ quan tâm tới việc dạy chữ và chưa quan tâm nhiều
tới việc dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích ứng với xã hội, với cuộc
sống xung quanh là một vấn đề khó với các em. Qua điều tra cho thấy tình trạng
học sinh nói tục, chửi bậy, đánh nhau vẫn xảy ra. Trong đó các kĩ năng như
tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích
cực hình thành và củng cố nhưng chưa thể hiện được nhiều. Học sinh ngày càng
thực dụng, ích kỉ và lười hoạt động hơn.
Giáo viên chủ yếu khai thác các địa chỉ lồng
ghép được hướng dẫn theo tài liệu, ít chịu khó nghiên cứu tham khảo, sưu tầm
các mẩu chuyện về kỹ năng sống cho học sinh tạo hứng thú cho các em khi tiếp
nhận. Hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ở trong nhà trường đôi lúc chưa được
quan tâm đúng mức. Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách
khác nhau. Nhiều giáo viên vẫn coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp từ đó cũng coi
nhẹ việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh.
Việc tổ chức cho học sinh tham quan, dã ngoại
ít( Mới chỉ dừng lại cho học sinh cuối cấp nên các em ít được trải nghiệm những tình huống thực tế hàng ngày.
Các tiết học chủ yếu giáo viên tổ chức
trong lớp học, chưa mở rộng không gian học tập ra môi trường xung quanh, ra
ngoài lớp học.
Một vài giáo viên vẫn chưa thực sự đổi
mới phương pháp và nhận thức nên chưa
chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng sống vào bài học mà làm qua loa, đối phó
trong giáo án khi bài có nội dung lồng ghép.
Các câu lạc bộ trong nhà trường hoạt
động chưa thực sự hiệu quả.
Qua
kiểm tra, theo dõi việc đánh giá, giáo dục lồng ghép rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh có thực hiện tuy nhiên chưa đúng mức, chưa được xem trọng và hiệu quả
đem lại chưa được như mong muốn.
Cụ thể qua khảo sát: Một số kỹ năng tự phục vụ của học sinh lớp 1B( GVCN: Trần
Thị Vân- năm học
2015 2016 về kỹ năng tự phục vụ: Học sinh biết soạn Sách giáo khoa, vở theo đúng thời
khóa biểu; Tự giác học bài(18 em). Chưa tự giác(9 em).
Một
số kỹ năng ở lớp 3C: Quan sát học sinh thảo luận nhóm trong tiết Tự nhiên&
xã hội( 21/32 em tham gia thảo luận tích cực; 9 em còn chưa tích cực hợp tác…
- Số lần tổ chức, số em tham gia chưa nhiều, cụ thể như
sau:
Năm học |
TS HS |
Nội dung |
Số lần tổ chức. |
Số lượng học sinh tham gia |
2014-2015 |
742 |
1.Tổ
chức sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo từng chủ điểm hàng tháng. |
4 |
325 |
2.Tổ
chức thi tìm hiểu ATGT |
1 |
130 |
||
3.Tổ
chức ngoại khóa theo nội dung đăng ký |
3 |
325 (
Khối 3+4+5) |
||
4.Kể
chuyện đạo đức Bác Hồ |
0 |
0 |
||
5.Tổ
chức chơi các trò chơi dân gian |
1 |
130 |
Vậy
làm thế nào để chỉ đạo tốt giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tôi xin đưa ra
một số giảo pháp , biện pháp sau:
3. Giải pháp, biện pháp:
a, Mục tiêu của giải pháp:
Mục đích của quá trình chỉ đạo giáo
dục kỹ năng sống là chỉ đạo giáo viên, các đoàn thể, các bộ
phận trong nhà trường nhằm trang bị cho
học sinh những kỹ năng cơ bản, cần thiết nhất để các em có thể thích ứng với
cuộc sống của xã hội thời hiện đại, luôn có những thay đổi trong điều kiện của
một xã hội đang trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của Phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Chính vì vậy,
mỗi trường học đều tùy thuộc vào điều kiện tình hình thực tế của nhà trường để tổ
chức triển khai. Vì thế, để hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt
hiệu quả cao nhất thì nhà trường cần phải tìm tòi, tự đặt ra các mục tiêu cụ
thể và xây dựng các biện pháp chỉ đạo, quản lí hợp lí, để từ đó đề ra chương
trình hành động cho nhà trường. Mặt khác, việc đề ra các biện pháp chỉ đạo này,
cũng giúp cho người quản lí nắm vững hoạt động quản lí giáo dục kĩ năng sống,
hiểu biết sâu sắc về những giá trị sống cần giáo dục cho học sinh, xây dựng đội
ngũ và phát triển cơ sở vật chất, tư liệu bồi dưỡng cho giáo viên, hướng tới
xây dựng tiền đề và tạo môi trường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phù hợp.
b, Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Biện pháp thứ 1: Xây
dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Như chúng ta đã biết
kỹ năng sống không phải là ngày một ngày hai, không phải nói giáo dục là có kỹ
năng sống ngay mà phải trải qua một quá trình rèn luyện các hành vi được lặp đi
lặp lại nhiều lần và trở thành kỹ năng và kỹ năng chỉ có được thực sự khi các
em thể hiện các hành vi, kỹ năng đó vào các tình huống cụ thể hay trong cuộc
sống hàng ngày. Vì cần phải có kế hoạch cụ thể dài hạn cho từng năm học và kế hoạch phải phân tích
được thực trạng kỹ năng sống của học sinh trong nhà trường và đề ra các mục
tiêu cụ thể, bắt đầu những kỹ năng thông dụng nhất như:
Trước tiên, phải xác
định nhu cầu tức các kỹ năng mà học sinh ở trường còn thiếu dựa vào thực trạng
thực tế của nhà trường làm căn cứ để xây dựng kế hoạch phù hợp.
Bước đầu ta giáo dục cho các em có cách xưng hô,
chào hỏi, kỹ năng giao tiếp lịch sự và lễ phép với mọi người….
Thành lập các câu lạc bộ: Câu lạc bộ vẽ,
khoa học, âm nhạc, thể thao ….. để phát triển kỹ năng cho học sinh.
Xây
dựng các thiết chế văn hóa ứng xử trong nhà trường; xây dựng nội quy trường lớp
(có thể gợi ý cho học sinh tham gia đề xuất một số điều trong nội quy của lớp/
trường) và tổ chức cho học nội quy vào đầu mỗi năm học. Đồng thời cần nêu cao
tính gương mẫu trong các hoạt động giao tiếp ứng xử hàng ngày trước học sinh như
: cách ứng xử giữa cán bộ quản lý - giáo
viên; giữa giáo viên– giáo viên ; Giáo viên – học sinh; quản lý, giáo viên và phụ huynh ….
Biện pháp 2. Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên về kiến thức giáo dục
kỹ năng sống.
Để việc dạy học giáo
dục kỹ năng sống thống qua các môn học có hiệu quả và phù hợp với đối tượng học
sinh trong nhà trường, trước tiên cần bồi dưỡng cho giáo viên thông qua hình thức tuyên truyền:
Bằng nhiều kênh thông
tin khác nhau như: cung cấp văn bản cầm tay, tổ chức sinh hoạt chuyên môn, sinh
hoạt tập thể hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt dưới cờ, chương
trình phát thanh măng non hay tiết sinh hoạt đội….. chúng tôi đã tổ chức tuyên
truyền đến toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên, phụ huynh và học sinh biết về
chủ trương của Đảng về đổi mới toàn diện giáo dục. Nội dung tuyên tuyền tập
trung nêu và phân tích một số thực trạng thiếu hụt các kỹ năng sống của học
sinh, những ảnh hưởng của việc thiếu các kỹ năng sống cơ bản và tầm quan trọng
của việc phải dạy lồng ghép tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn
học.
Bồi dưỡng thông qua
hình thức tổ chức tập huấn:
Muốn thay
đổi nhận thức của giáo viên thì trước tiên người cán bộ quản lý, những người
đứng đầu nhà trường phải thay đổi, phải đổi mới: thay đổi từ suy nghĩ, hành
động, luôn gương mẫu trong mọi hoạt động trước giáo viên, học sinh và phụ huynh
học sinh; đổi mới cách làm, cách quản lý: Để mang lại hiệu quả cao trong các
buổi tập huấn, trước tiên người cán bộ cần phải nghiên cứu kỹ các văn bản hướng
dẫn chỉ đạo của các cấp về việc dạy học lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng
sống thông qua các môn học để xây dựng kế hoạch tập huấn đầy đủ, chỉ tập trung
những nội dung cần thiết và trọng tâm để giáo viên nắm và hiểu được đó là:
-,Khái
niệm về kỹ năng sống;
- Phân loại
kỹ năng sống (cần lựa chọn các kỹ năng phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học và
thực trạng của nhà trường, những kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh tiểu
học như đối với bản thân: sống giản dị, trung thực, tiết kiệm, tự lập; trong
quan hệ với người khác: yêu thương, đoàn kết, hỗ trợ, khoan dung, lễ độ, biết
ơn; quan hệ với công việc: siêng năng, kiên trì, tôn trọng kỉ luật, năng động,
sáng tạo, hợp tác; quan hệ với cộng đồng dất nước: yêu quê hương, đất nước, kỉ
năng làm việc nhóm, kỉ năng sinh tồn..., yêu thiên nhiên, hòa hợp với tự nhiên,
có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên...)
- Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trong nhà trường ;
- Định
hướng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường;
- Giáo dục
kỹ năng sống trong các môn học ở từng khối lớp cụ thể, đồng thời hướng dẫn giáo
viên sử dụng một số phương pháp, kỹ thuật dạy học mới …
Bằng kinh nghiệm sống
của mình, qua học hỏi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, những trải nghiệp của
bản thân và các tài liệu được cung cấp và xuất phát từ điều kiện thực tế của
nhà trường về đội ngũ giáo viên, đối tượng học sinh, đặc biệt là sự phát triển
về kinh tế xã hội ở địa phương để hướng dẫn giáo viên cách thiết kế bài soạn:
về xây dựng mục tiêu, cách tiếp cận nội dung phương pháp dạy lống ghép kỹ năng
sống có hiệu quả.
Bồi dưỡng thông qua hình thức tổ chức các chuyên đề, sinh
hoạt chuyên môn: Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ, thăm lớp kiểm tra đánh giá giờ
dạy của giáo viên theo định kỳ, đột xuất, đánh giá trên các phương diện như
phương pháp truyền đạt, nội dung kiến thức, liên hệ thực tế, không khí lớp học,
sự tham gia tích cực của học sinh vào các hoạt động học tập và đặc biệt chú
trọng đến việc hướng dẫn học sinh có năng lực tham gia vào quá trình đánh giá
và tự đánh giá kết quả học tập lẫn nhau.. . Bên cạnh đó, nhà trường và các tổ
bộ môn, khối lớp cũng thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề nhằm trao đổi và
nâng cao chuyên môn cho đội ngũ giáo viên.
Biện
pháp 3: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua công tác chủ nhiệm lớp:
Mỗi đồng chí giáo
viên phải làm tốt vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp
nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh. Là người hiểu rõ học sinh hơn ai hết
. Việc hình thành nhân cách và những hành vi tốt, xấu của học sinh đều phụ
thuộc vào quá trình giáo dục của GVCN. Chẳng hạn như: học sinh đánh nhau, trốn học chơi điện tử, không
học bài, làm bài, nghịch ngợm vv…GVCN đều nắm rất rõ.
Do đó ngay từ đầu năm học, GVCN phải thường xuyên chú ý đến hành vi của từng
học sinh. Qua công việc hàng ngày ,GVCN kiểm tra việc học, việc thực hiện
nội qui trường, lớp của học sinh. Từ đó, kịp thời uốn nắn sửa chữa khi học sinh
có thái độ, hành vi đạo đức không tốt.
Biện pháp 4: Tăng cường công tác bồi dưỡng cho
giáo viên về nội dung, phương pháp dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh thông qua các môn học và các hoạt đông giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, nhà
trường đã đề ra một chương trình cụ thể theo các phân đoạn thời gian với các
nội dung chính như:
- Dạy lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học:
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Ở trường tiểu học
giáo dục kỹ năng sống có thể thực hiện lồng ghép trong tất các môn học tuy
nhiên để định hướng cho giáo viên cách tiếp cận dễ dàng Bộ giáo dục đã ban hành
tài liệu hướng dẫn và gợi ý một số kỹ năng cần giáo dục ở một số môn học, địa
chỉ cụ thể để thuận lợi cho các cấp quản lý và giáo viên làm cơ sở giáo dục cho
học sinh cụ thể:
Ở lớp 1,2,
3: Giáo dục kỹ năng sống được lồng ghép vào các môn: Tiếng việt, đạo đức, TNXH.
Ở lớp 4,5:
được hướng dẫn lồng ghép vào các môn: Tiếng
việt; Khoa học, đạo đức.
Trong quá trình bồi
dưỡng, nhận thấy phương pháp cũng như phương tiện dạy học, điều kiện dạy học
đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy, để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu
quả nhà trường đã nâng cao vấn đề tập trung đổi mới phương pháp dạy học của
giáo viên thông qua các buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn chúng tôi giới
thiệu cho giáo viên các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. Thực tế đã cho
thấy có phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học có ưu thế trong việc phát huy
tính tích cực học tập của học sinh có thể sử dụng để giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trong dạy các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Phương
pháp dạy học tích cực: Phương pháp dạy học theo nhóm; phương pháp nghiên cứu
các trường hợp điển hình; phương pháp giải quyết vấn đề; phương pháp đóng vai;
phương pháp trò chơi.
Đồng thời khi tổ chức
các hoạt động dạy học giáo viên nên sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực như:
Kỹ thuật chia nhóm; kỹ thuật giao nhiệm vụ; kỹ thuật đặt câu hỏi; kỹ thuật khăn
trải bàn; kỹ thuật “phòng tranh”; kỹ thuật “ công đoạn”….
Để việc lồng ghép
không tạo thêm áp lực cho giáo viên và quá tải đối với học sinh, chúng tôi đã
chỉ đạo tuyệt đối không thêm nội dung vào bài học mà trên cơ sở nội dung của
từng bài giáo viên cần dựa căn cứ vào thực trạng của học sinh để xác định các
kỹ năng cần lồng ghép giáo dục cho học sinh thông qua nội dung bài học đó bằng
cách sử dụng các phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực để cung cấp
kiến thức cho học sinh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, thông qua việc đổi mới
phương pháp dạy học và hình thức tổ chức tạo hứng thú cho học sinh tham gia vào
tiết học sôi nổi đồng thời giúp học sinh nắm và hiểu thêm được các kỹ năng cần
thiết trong cuộc sống. Như vậy trong một
tiết dạy giáo viên đồng thời đã thực hiện được hai mục tiêu đó là trang bị kiến
thức và giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Thông qua các buổi
sinh hoạt chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống và dự giờ thăm lớp, tôi đã cùng
với các tổ trưởng chuyên môn hướng dẫn giáo viên cách thực hiện lồng ghép sao
cho có hiệu quả, tránh tình trạng giáo viên lạm dụng sa đà quá về các nội dung
giáo dục kỹ năng mà quên đi phần kiến thức.
Ví dụ : Bài:
PHÒNG TRÁNH XÂM HẠI”
Khoa học lớp 5.
Sau bài này, HS
có khả năng:
- Nêu một
số tình huống có thể dẫn đến nguy cơ bị xâm hại và những điểm cần chú ý để
phòng tránh bị
xâm hại.
-Rèn luyện
kĩ năng ứng phó với nguy cơ bị xâm hại.
-Liệt kê
danh sách những người có thể tin cậy, chia sẻ, tâm sự, nhờ giúp đỡ bản thân khi
bị xâm hại.
* GDKNS:
Kĩ năng phân tích, phán đoán các tình huống có nguy cơ bị xâm hại.
Kĩ năng
ứng phó, ứng xử phù hợp khi rơi vào tình huống có nguy cơ bị xâm hại.
Kĩ năng
tìm sự giúp đỡ nêu bị xâm hại.
II/Chuẩn bị: -Hình
trang 38, 39 sgk. Một số tình huống để đóng vai.
III/Hoạt động dạy học:
Hoạt động của thầy |
Hoạt động của trò |
1. Bài cũ: Thái độ đối với người nhiễm HIV. 2. Bài mới: Giới thiệu bài Phòng tránh bị xâm
hại Hoạt động khởi động: Trò chơi
“ Chanh chua, cua cắp” B1: Tổ
chức và hướng dẫn. B2: Thực
hiện như hướng dẫn của giáo viên. GVhỏi:
Các em rút ra bài học gì qua trò chơi? Hoạt động 1: Quan sát và thảo luận B1:
-Nhóm trưởng điều khiển quan sát các hình 1, 2, 3 trang8 sgk và trao đổi nội
dung từng hình. -Nhóm
trưởng điều khiển thảo luận câu hỏi tr 38 sgk. B2: GV
gợi ý để HS đưa thêm một số tình huống khác với những tình huống các nhóm
đang thảo luận. B3: Đại
diện từng nhóm trình bày, nhóm khác bổ
sung GV kết
luận: Hoạt động 2: Đống vai “ Ứng phó với nguy cơ bị xâm hại” B1: GV
giao nhiệm vụ cho nhóm. N1: Phải
làm gì khi có người lạ tặng quà cho mình? N2: Phải
làm gì khi có người lạ muốn vào nhà? N3: Phải
làm gì khi có người trêu ghẹo hoặc có hành động gây bối rối, khó chịu với bản
thân...? B2: Từng
nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung. -GV cho
cả lớp thảo luận câu: Trong trường hợp
bị xâm hại, chúng ta cần phải làm gì? GV kết
luận:. Hoạt động 3: Vẽ bàn tay tin cậy B1: - GV
hướng dẫn học sinh Vẽ bàn tay của mình trên giấy và ghi tên một người tin cậy
trên một ngón. B2: HS
trao đổi hình vẽ của mình với bạn bên cạnh. B3: HS
trình bày hình vẽ của mình với cả lớp. GV kết
luận: sgv. 3. Củng cố -dặn dò: Hệ thống
nội dung đã học Bài sau:
Phòng tránh TNGTĐB |
HS trả
lời. HS mở sách. HS cả
lớp tham gia. HS thảo
luận và trả lời câu hỏi. HS đại
diện nhóm. HS thảo
luận và trả lời câu hỏi. HS đại
diện nhóm. HS tham
gia. HS lắng
nghe. |
Qua
việc dạy bài Phòng tránh bị xâm hại: Sau khi tiết dạy kết thúc. Chúng tôi tổ
chức góp ý, rút kinh nghiệm, phân tich những ưu điểm, hạn chế. Những kỹ năng đã
lồng ghép trong bài, những nội dung đạt được về mặt kỹ năng trong ứng xử tình
huống...
Việc sử dụng các
phương pháp, và kỹ thuật dạy học tích cực này rất hiệu quả, đã phát huy được
tính tích cực tư duy sáng tạo của học sinh, các em không thụ động mà tham gia
vào hoạt động học tập rất tự nhiên.
Đối với hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp, tập trung chỉ đạo tổ chuyên môn, Tổng phụ trách đội xây dựng kế
hoạch sinh hoạt ngoài giờ lên lớp phù hợp với từng chủ đề chủ điểm tạo cơ hội
cho các em tham gia giải quyết các tình huống trong cuộc sống, giao tiếp ứng xử
với bạn bè và thầy cô hay tinh thần làm việc trong nhóm …. Nội dung và hình
thức cần được thay đổi tránh lặp đi lặp lại
hình thức dẫn đến các em nhàm chán, không thu hút sự tham gia của học
sinh: ví dụ: Tháng 9, 10: Chủ đề tìm hiểu truyền thống nhà trường chúng ta có
thể hướng dẫn các em tham quan cảnh quan nhà trường, phòng truyền thống, giới
thiệu về khuôn viên trường lớp , những thể hệ cán bộ quản lý qua các thời kỳ
hay những thành tích đã đạt được từ khi thành lập và giáo viên có thể chia theo
từng nhóm để học sinh quan sát sau đó yêu cầu học sinh ghi chép hoặc báo cáo
lại các thông tin đã thu thập được. Bên cạnh đó tổ chức cho học sinh ở tất cả
các khối lớp thi Rung chuông vàng, thi Kể chuyện theo sách hay Hái hoa dân chủ
…Qua các hoạt động này không những các em được mở mang kiến thức về các lĩnh
vực mà các kỹ năng của học sinh được tôi luyện và phát triển.
Biện pháp 5. Bồi dưỡng cho HS về phong cách
học, phương pháp tự học, phương pháp làm việc với tài liệu học tập và với đồ
dùng học tập và năng lực tham gia các hoạt động
tập thể, hoạt động xã hội.
Trong 4 nội dung giáo dục mà tổ chức Unessco đề ra thì có ba nội dung đó
là “học để biết, học để làm, và học để chung sống ". Việc đào tạo cho các em
năng lực tự học và khả năng làm việc nhóm cũng có thể là một kĩ năng để các em
“biết”, và để cộng tác. Muốn làm được điều này, từ phía nhà trường cần phải có
các chương trình hành động cụ thể: tổ chức các cuộc thi tìm hiểu mang tính thời
sự, thi đua trực tiếp giữa các khối lớp, đề ra nhiều chủ đề dàn trải trong các
tháng , chỉ đạo giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện ở từng khối lớp.
Sau khi có chương trình hành động, các giáo viên hướng dẫn,
với vai trò là người chỉ đạo, sẽ cho các em lựa chọn hình thức, cách thức tham
gia, cho học sinh thành lập nhóm, lập ra ban chỉ đạo nhóm và đề xuất hướng thực
hiện. Giáo viên sẽ giám sát quá trình các em thực hiện (chứ không làm thay),
đồng thời sẽ có những góp ý, chỉ dẫn hợp lí để giúp đỡ các em.
Tổ chức thi tập trung giữa các tập thể, các nhóm lớp. Lúc này, vai trò của người thầy sẽ như là một
giám khảo, một khán giả .
Biên pháp 6. XD mối quan hệ thân thiện, hợp tác
giữa giáo viên – học sinh, học sinh – học sinh và giáo viên – giáo viên.
Với nội dung này, chúng tôi đã tổ chức các buổi thảo luận
chuyên đề giáo dục kĩ năng sống (có chuyên viên Phòng giáo dục; có các trường
trong khối thi đua số 6 và các tổ khối trưởng của trường tham dự được tổ chức
vào tháng 2 năm 2016). Qua dự giờ, báo cáo chuyên đề đã được Phòng và khối đánh
giá cao. Qua đó các giáo viên được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Đề ra các
tình huống có thật và cả trên lí thuyết để các giáo viên cùng nhau tìm cách xử
lí...
Tổ chức các buổi tư vấn tâm lí với mô hình nhỏ (lớp học, khối học...),
xây dựng các hộp thư tâm lí, hộp thư điện tử, trao đổi qua “Trường học kết nối”...để
các em có nhiều cơ hội, thời gian giãi bày với giáo viên của mình, giải tỏa kịp
thời những bức xúc, căng thẳng...
Tổ chức các chương trình ngoại khóa, tham quan thực tế một số khu di tích
lịch sử văn hóa trên huyện, đây là dịp để giáo viên và giáo viên, học sinh và
học sinh có thời gian xích lại gần nhau nhiều hơn, qua những hoạt động này,
thầy trò cùng nhau đề xuất kế hoạch, chương trình và cùng nhau thực hiện...có
thể coi như một quá trình chung sức.
Biện pháp 7. Quản lí quá
trình sư phạm và môi trường học tập.
Để quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả và
tạo môi trường học thân thiện, từ phía nhà trường chúng tôi đã chủ động tiến
hành đồng bộ các biện pháp như: tích cực - xây dựng môi trường thân thiện: lớp
học thân thiện, trường học thân thiện, cộng đồng thân thiện thông qua các hoạt
động tập thể. Xây dựng đội ngũ giáo viên nòng cốt để tiến tới thành lập tổ tư
vấn tâm lí học đường trong trường học với mục đích hướng dẫn, tâm sự với học
sinh; Chia sẻ với giáo viên chủ nhiệm lớp; Làm cầu nối để tổ chức giao lưu giữa các lớp, các tổ chức, đoàn thể trong
trường; Làm cầu nối giữa nhà trường và gia đình. Mở mang tri thức ngoài giờ học
cho các em thông qua việc tổ chức các buổi đọc sách tập thể tại thư viện, ngày
hội đọc sách do Room tài trợ, rèn luyện ý thức tập thể và tinh thần cống hiến
cho học sinh thông qua tổ chức các phong trào xây dựng trường xanh sạch đẹp qua
các mô hình chăm sóc cây xanh, trang trí lớp học. Đồng thời có sự phối hợp với
công an, chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội ở địa phương để nắm bắt
tình hình và ngăn chặn không để bạo lực trong trường học, mục đích là để tạo ra
một môi trường an toàn- an lành- yên tĩnh trong học đường.
c, Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp.
Muốn
thực hiện có hiệu quả việc chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bằng các
biện pháp như đã nêu trên, trước hết các giải pháp thực hiện cần có mối liên
kết lôgich với nhau, sắp xếp phù hợp để thực hiện và có sự hỗ trợ lẫn nhau.
d. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Sau nhiều năm
trường Lê Lợi được các đồng chí cán bộ quản lý tiền nhiệm chỉ đạo. Sự tiếp cận , học hỏi, thừa hưởng
và đức rút kinh nghiệm sau
hơn 2 năm của bản thân tôi, có thể nói trường tiểu học Lê Lợi đã có thêm những
kết quả khả quan thể hiện trên các phương diện tinh thần lẫn con số cụ thể
Đó là học sinh ngoan, lễ phép, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi
trong từng tình huống cụ thể, đã mạnh dạn hơn trong giao tiếp, trình bày rõ ràng,
một số em tự tin khi thuyết trình trước tập thể, sử dụng ngôn ngữ phù hợp với
hoàn cảnh đối tượng, ứng xử thân thiện với bạn bè, tinh thần làm việc nhóm tích
cực. … Nhà trường đã thực hiện được nhiều mô hình, chương trình giáo dục kĩ
năng sống cụ thể triển khai đến từng khối lớp, số lượng các buổi ngoại khóa
tăng lên, các chỉ số về học tập, tâm lí, độ ưa thích qua các cuộc khảo sát tập
thể đã có sự thay đổi tích cực, công tác duy trì số lượng học sinh hàng năm đạt
100%.
Trong trường,
việc chấp hành nội quy, quy định được học sinh thực hiện nghiêm túc. Trong
những năm vừa qua, không có học sinh vi phạm nội quy, quy định của trường, an ninh chính trị trong trường được giữ vững. Đây thực sự là môi trường học tập tốt để phụ huynh yên tâm
gửi gắm con em mình.
1,Kết
quả đạt được sau thực hiện giải pháp:(Khảo sát ở các lớp)
* Ví dụ về điều tra “Một số kỹ năng tự phục vụ
của học sinh lớp 1A-GVCN: Lâm Thị Nam- năm học 2016 2017 về kỹ năng tự phục
vụ: Học sinh đã biết soạn Sách giáo khoa, vở theo đúng thời khóa biểu; Tự giác
học bài(28 em). Chưa tự giác(2 em).
Một số kỹ năng ở lớp 3B: Quan sát học sinh
thảo luận nhóm trong tiết Tự nhiên& xã hội( 29/30 em tham gia thảo luận
tích cực; 1 em còn chưa tích cực hợp tác…
2, Sau đây là bảng số liệu qua khảo nghiệm thực tế qua các năm.
* Bảng 1: Chất lượng giáo dục Kỹ năng sống (2 năm)2015-2016
và 2016- 2017
Bảng 1: Số lượng các buổi ngoại khóa; NGLL và số lượng
học sinh tham gia qua các năm:
Năm học |
TS HS |
Nội dung |
Số lần tổ chức. |
Số lượng học sinh tham gia |
2015-2016 |
750 |
1.Tổ
chức sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo từng chủ điểm hàng tháng. |
6 |
750 |
2.Tổ
chức thi tìm hiểu ATGT |
1 |
145 |
||
3.Tổ
chức ngoại khóa theo nội dung đăng ký |
5 |
750 |
||
4.Kể
chuyện đạo đức Bác Hồ |
1 |
25 |
||
5.Tổ
chức chơi các trò chơi dân gian |
1 |
479 |
||
6.
Tham quan các di tích lịch sử tại Tỉnh Đăk Lăk |
1 |
145 |
||
2016- 2017 (đến tháng 3 năm 2017) |
703 |
1.Tổ
chức sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm hàng tháng. |
7 |
703 |
2.Thi Rung chuông vàng |
5 |
Tháng 11- Khối 5- 50 em thi(703 em xem và cổ vũ) - Tháng 12- Khối 4-50 em thi- 141 em khán giả. - Tháng 1- Khối 3-50 em thi. -Tháng 2- Khối 2- 50 em thi- 160 em cổ vũ) - Tháng 3: Khối 1- 50 em. |
||
3.
Thi kể chuyện |
1 |
50 em |
||
4.
Tổ chức ngày hội đọc sách. |
1 |
703 em |
||
5.
Thành lập câu lạc bộ em yêu Nhạc |
1 |
20 em |
Nhờ
tăng cường công tác tổ chức giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh ở các khối lớp
mà
nhà trường đã dần hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống, cách ứng xử, cách
quan tâm, chia sẻ và những kỹ năng cần thiết trong học tập, sinh hoạt tại gia
đình và cộng đồng.
Một số hình ảnh minh họa các hoạt động.
Thi Tìm nhà thông Thái- Khối 4
năm học 2015- 2016.
Học sinh xem phim tư liệu tại Bảo tàng Buôn
Ma Thuột (Tháng 3 năm 2016)
Hình ảnh Thi Rung chuông vàng- Khối 3 (Tháng 2-Năm học 2016 – 2017
Thi Tìm nhà Thông Thái- Khối 4 Tháng 12-Năm học 2016 - 2017
Đọc
sách trong ngày hội đọc sách theo dự án Roomtoread tài trợ. Phụ huynh cùng
đọc sách cùng các em.Giúp học sinh phát triển kỹ năng giao tiếp; mạnh dạn
tự tin.Tháng 11- Năm 2016
Đọc
sách trong ngày hội đọc sách theo dự án Roomtoread tài trợ.Giúp phát triển
kỹ năng giao tiếp, tự tin cho học sinh.
b, Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Có thể nói các hiệu quả đạt được của các biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đều dựa trên các giá trị khoa học cụ thể, việc đưa ra các biện pháp chỉ đạo làm cho chương trình được đồng bộ hơn, có phương hướng và hiệu quả hơn. Các biện pháp đều được tiến hành dựa trên cơ sở lí luận và tình hình thực tiễn, dù chưa có tài liệu hướng dẫn cụ thể nhưng công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đã có sự tiếp cận được với các yêu cầu phẩm chất và kĩ năng chung của toàn xã hội. Các năng lực tự phục vụ, tự quản, kỹ năng giao tiếp, hợp tác, làm việc nhóm, kỹ năng quyết đinh …. của học sinh qua các năm có rất nhiều tiến triển, các hành vi của học sinh liên tục được điều chỉnh để hoàn thiện hơn và đặc biệt, tri thức của cả giáo viên lẫn học sinh đã được thường xuyên mở mang, bồi bổ. Từ các chương trình hành động, nhà trường đã trở thành một môi trường lành mạnh, thân thiện. Trong đó, nhà trường luôn ở thế chủ đạo, quyết định, còn học sinh luôn giữ vai trò chủ động, tự tin trong học tập, tu dưỡng.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Dòng thời gian cho thấy kĩ năng sống không phải là thứ
bẩm sinh hoặc tạo hóa ban cho hoặc chờ
đợi người khác mang đến, mà con người sẽ chỉ có được nó qua quá trình đầu tư
học vấn, mở mang kiến thức và được trải nghiệm qua quá trình rèn luyện, tu
dưỡng của con người trong suốt cuộc đời.
Từ xa xưa, cha
ông ta đã quan niệm đi học trước hết phải là học làm người, sau đó mới học để
làm việc. Với trẻ em, giáo dục đạo đức (hình thành nhân cách) và hình thành kĩ
năng sống (bồi dưỡng nhân tài) là quá trình giáo dục lâu dài, bền bỉ, cần được
uốn nắn hằng ngày trong gia đình, trong trường học và ngoài xã hội. Bởi vậy,
phải có chiến lược quốc gia về giáo dục đạo đức học sinh, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài tư đơn giản đến phức tạp để học sinh có được những hành vi
đúng, hướng đi đúng, đáp ứng được yêu cầu về giá trị người học tích cực, giá
trị nhân ccahs người lao động mới, người công dân mới trong thời kì hội nhập
toàn cầu.
Trên đây là nội
dung của toàn bộ đề tài sáng kiến kinh nghiệm với chủ đề: “Một số kinh nghiệm
chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trường Tiểu học Lê Lợi – CưMgar – Đăk Lăk” Trong khuôn khổ hơn hai mươi trang
của đề tài, tôi đã tập trung làm rõ các khái niệm, mục đích và tiêu chí của kĩ
năng sống, đề tài cũng đã nêu lên các thuận lợi, khó khăn cũng như các thực
trạng của việc giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường phổ thông hiện nay nói
chung và trường tiểu học Lê Lợi nói riêng. Phần trọng tâm của đề tài là đề ra
các biện pháp, giải pháp và phương hướng thực hiện các giải pháp, biện pháp đó.
Với các
nội dung nghiên cứu trên đây, đề tài đã nghiêm túc nhìn nhận và chỉ ra các nội
dung trọng tâm, trọng điểm của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà
trường phổ thông. Đề tài chỉ ra được cái đã làm được và cái chưa làm được,đề
xuất biện pháp và ứng dụng vào trong
thực tế.
2.Kiến nghị:
Qua việc thực
hiện đề tài Một số kinh nghiệm chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Lê Lợi – CưMgar – Đăk Lak bản thân là người quản lí, trực tiếp tham gia
vào công tác chỉ đạo, kiểm tra nên phần nào thấy được các thành công cũng như hạn
chế của công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Dựa trên tình hình thực
tiễn đó, xin mạnh dạn đưa ra một vài kiến nghị như sau.
1/ Đối với nhà trường:
Tạo ra nhiều hơn
nữa những sân chơi phù hợp với lứa tuổi học đường để các em được sống trong cảm
giác hồn nhiên và hình thành nên những tình cảm tích cực, có lợi cho cuộc sống
Kết hợp chặt chẽ
hơn nữa giữa nhà trường- gia đình- và các tổ chức xã hội trong quá trình giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cần kết hợp
đào tạo kĩ năng sống với các điều kiện bổ sung chính sách phát triển môi trường
tâm lí xã hội thuận lợi. Nhà trường cần nghiêm túc phát triển mạnh hơn, nhân
rộng hơn những phong trào “kỉ cương,
tình thương, trách nhiệm”, “nhà trường văn hóa, nhà giáo mẫu mực, học sinh
thanh lịch’, “trường học thân thiện, học sinh tích cực...để xây dựng mô hình
nhà trường sáng tạo và đổi mới.
Nhà trường
cần cố gắng nghiên cứu xây dựng phòng tư vấn học đường trong trường hợp lí và
giao cho ban tư vấn tổ chức hoạt động. Thành phần tổ tư vấn ấy có thể bao gồm:
giáo viên chủ nhiệm lớp, tổng phụ trách
đội...
2/Đối với các cấp quản lí:
Để công tác chỉ
đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được có kết quả cao hơn, trên thực tế,
các cấp quản lí cần coi đây như là một nội dung trọng điểm để thực hiện, đề ra
các văn bản chỉ đạo, đề xuất các khung chương trình, nội dung thực hiện...và
thường xuyên có sự kiểm tra giám sát...
Bên cạnh đó, cần
tổ chức các hoạt động ngoại khóa theo hình thức liên trường để qua đó các
trường, giáo viên và học sinh có cơ hội
tham gia giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
Các cấp quản lí
cần có sự kiểm tra, khen thưởng, đánh giá và động viên kịp thời những cơ sở có
kết quả tốt, đồng thời lựa chọn những cơ sở xuất sắc để xây dựng những mô hình trọng
điểm, cho các đơn vị khác học tập.
Trên đây là một
số kinh nghiệm chỉ đạo giáo dục kỷ năng sống cho học sinh tại trường tiểu học Lê
Lợi – CưMgar – Đăk Lăk. Do trình độ lý luận và năng lực nghiên cứu khoa học của
bản thân còn nhiều hạn chế nên sáng kiến không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các đồng chí đồng nghiệp./.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn giáo dục kỹ năng sống trong các môn học ở
tiểu học (tài liệu dùng cho giáo viên), nhà xuất bản Giáo dục.
2. Tài liệu tập huấn bồi dưỡng phương pháp dạy học giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
3. Hiệu trưởng trường phổ thông với vấn đề giáo dục giá
trị sống, kĩ năng sống và giao tiếp ứng xử trong quản lí, bộ giáo dục và đào
tạo, nhà xuất bản đại học sư phạm.
4. Tài liệu tập huấn công tác xã hội và công tác xã hội
trong nhà trường.
5. Lí luận dạy học hiện đại, Phó giáo sư: Đinh Thị Ngọc Oanh,
nhà xuất bản Đại học sư phạm.
6. Một số bài viết trên các Website.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/