1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Có nhiều
quan điểm đưa ra phương pháp dạy đọc, mỗi quan điểm đều có cách nói khác nhau,
tuy nhiên việc dạy cho học sinh đọc tốt, yêu thích kĩ năng đọc Tiếng Anh mới là
khó. Qua nhiều năm tôi dạy Tiếng Anh tiểu học, thăm dò các em tôi thấy đại đa
số các em đều đọc lấy được, đọc không cần rõ ý nghĩa của nời nói. Nhận thức của
các em như vậy là chưa đúng, có lẽ vì các em chưa học đúng cách, chưa hiểu được
cách luyện của mỗi dạng bài đọc.
Qua quá
trình nghiên cứu tôi nhận thấy kĩ năng đọc là một kĩ năng quan trọng và cần
thiết trong quá trình giảng dạy tiếng Anh trong trường Tiểu học. Mục tiêu của bài
đọc là tạo cho người học có nhiều kiến thức hơn được bao hàm trong mỗi dạng bài
đọc. Đó là một chuỗi những kĩ năng (techniques) được kết hợp lại thành một bài
khoá đọc, điều đó sẽ làm cho học sinh hứng thú hơn khi học một bài đọc và đọc
chuyên sâu.
Qua
tham khảo một số tài liệu tôi thấy việc đổi mới và áp dụng một số phương pháp
dạy đọc, rèn và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh là điều hết sức cần thiết
ngay từ bước cơ sở. Vậy chúng ta có bao nhiêu cách để dạy một bài đọc? Theo tôi,
có nhiều cách dạy đọc khác nhau phù hợp cho từng dạng bài đọc, điều đó còn phụ
thuộc vào mục đích dạy đọc. Để giải đáp những khúc mắc tôi đã đi sâu vào nghiên
cứu kĩ năng đọc và đưa ra giải pháp trong sáng kiến.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
Sáng
kiến được viết dưới dạng rèn kĩ năng đọc cho đối tượng học sinh lớp 5. Để sáng
kiến đạt hiệu quả tốt cần phải có sự trợ giúp của các phương tiện trợ giảng như
máy chiếu đa năng, đài đĩa (băng), máy ghi hình,... cùng một số phương tiện
trực quan khác. Giáo viên phải thường xuyên sát sao với học sinh, giúp học sinh
hiểu thông cách thức luyện một bài đọc... Thời gian áp dụng sáng kiến cần tối
thiểu một học kì.
3. Nội dung sáng kiến.
Trong giảng
dạy ngoại ngữ, để giúp học sinh phát triển kĩ năng đọc có hiệu quả ta cần phân
biệt những loại đọc cơ bản vẫn được sử dụng phổ biến như:
- Đọc to và
đọc thầm.
- Đọc phân
tích và đọc tổng hợp.
Ở hai loại
đọc cơ bản trên được phân tích ra nhiều dạng bài đọc khác nhau, giáo viên phải
nắm bắt được phương pháp, cách thức giảng dạy các dạng bài luyện đọc đó. Tác
dụng của trò chơi cũng đóng góp một phần quan trọng trong bài luyện đọc vì nó
giúp học sinh hứng thú hơn trong tiết dạy và học… Trong
thực tế các phương pháp
luyện đọc tôi
đưa ra đã có nhiều giáo viên Tiếng Anh áp dụng để giảng dạy cho học sinh lớp 5, tuy nhiên chưa hiệu quả.
Các phương pháp còn thiếu một số phương thức luyện, chưa áp dụng đúng cách,
chưa phù hợp với mục tiêu của các phần mục bài dạy. Bài giảng chưa thu hút học
sinh. Giáo viên giảng dạy còn lúng túng trong việc áp dụng các phương pháp, còn
chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình dạy học.
Rèn kĩ
năng đọc
Tiếng Anh cho học sinh lớp 5
tôi đưa ra giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 5. Học sinh dễ hiểu, hứng
thú, hăng say học tập. Giáo viên sẽ không còn băn khoăn trong việc vận dụng các
phương pháp luyện đọc cho các dạng bài đọc trên
lớp, tiết dạy sẽ hiệu quả cao.
4.
Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Sáng kiến
đã được áp dụng hiệu quả,
cách thức giảng dạy phù hợp mục tiêu, linh động có sáng tạo. Hàng tháng tôi cho
khảo sát kết quả và điều chỉnh giảng dạy sao cho hợp lý. Sau một học kì áp dụng
những phương pháp trên tôi đã thu được khá nhiều thành quả. Học sinh yêu thích
và ham học môn Tiếng Anh hơn trước. Học sinh nhớ được bài đọc dễ dàng hơn, khả năng đọc
cũng tốt hơn và đọc trôi chảy hơn.
Học sinh dễ đọc và nhớ lâu hơn trước. Kết quả thu được đã đánh giá
khả quan tính khả thi của sáng kiến này.
Qua một
thời gian áp dụng sáng kiến tôi
thấy khả năng của sáng kiến nếu áp dụng tốt, ở một điều kiện thuận lợi và môi
trường tốt chúng ta sẽ thu được một kết quả khá cao trong tỉ lệ khá giỏi. Đó là
điều tôi muốn các đồng nghiệp cùng tôi tiếp tục khẳng định kết quả nghiên cứu
của sáng kiến trong quá trình giảng dạy.
5.
Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Để đạt được chất lượng cao trong
quá trình dạy kĩ năng đọc môn Tiếng Anh thì người giáo viên cần năng động, giúp
học sinh chiếm lĩnh kiến thức của từng bài dạy. Ngoài ra giúp học sinh hăng say
tìm tòi học tập ngoại ngữ, chịu đọc, chịu giao tiếp ở mọi nơi, mọi lúc. Muốn
đạt được kết quả đó và phù hợp với từng đối tượng học sinh thì người giáo viên
cần chú ý các vấn đề sau: Nắm
vững đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học,
nắm vững mục tiêu của từng
bài, yêu cầu cơ bản của kĩ năng đọc,…
Giáo viên cần tâm huyết với nghề nghiệp,
tích cực sử dụng các phương pháp mới vào giảng dạy một cách linh hoạt, chính
xác, phải kiên trì nắm bắt các đối tượng học sinh, nắm rõ mục tiêu giảng dạy ngoại
ngữ theo hướng giao tiếp (đọc tốt sẽ phát âm tốt, đọc chuẩn trong tình huống
giao tiếp sẽ giỏi), học sinh là chủ thể hoạt động, khuyến khích học sinh chủ
động, sáng tạo trong học tập.
Nói chung, người giáo viên phải vận dụng nhiều phương pháp dạy đọc phù
hợp, nhiều hoạt động cho tiết giảng, tạo hứng thú say mê đọc bài của học sinh,
giúp học sinh tự tìm ra cho mình một phương pháp đọc hữu hiệu nhất, nắm bắt
nhanh, nhớ lâu để có thể sử dụng Tiếng Anh trong nhiều tình huống, trong những
ngữ cảnh khác nhau của cuộc sống.
Nhà trường cần phải có sự quan tâm
thích đáng đến bộ môn Tiếng Anh như: Mua sắm thiết bị cho dạy và học, tối thiểu
là đài, băng casette, sách tham khảo cho giáo viên, cung cấp đủ thời gian theo
yêu cầu của từng chương trình.
Học sinh cần tích cực hơn trong việc rèn
luyện đọc ở nhà và các kĩ năng Nghe-Nói-Đọc-Viết, nắm rõ mục tiêu ngoại ngữ, có
ý trí tự học cao, số lượng học sinh khoảng 20-25 em/lớp.
Điều kiện cơ sở vật chất và
trang thiết bị dạy học tốt, phù hợp với việc dạy và học Tiếng Anh.
MÔ TẢ SÁNG
KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Qua nhiều
năm giảng dạy, thăm dò học sinh tôi thấy đại đa số các em đều đọc lấy được, đọc
không cần rõ ý nghĩa của lời nói. Đây là một quan điểm sai lầm trong nhận thức
một bài đọc. Có một học viên nước ngoài nói ta có thể đọc các từ nhưng không
thể biết rõ điều gì họ nghĩ “I can read
the words but I don’t know what they mean” theo tôi là không đúng. Vì trong
tình trạng này người nói cho rằng: Đọc là đọc các biểu tượng từ vựng được viết
và dịch mã đơn thuần theo âm tương ứng. Thật sai lầm khi có ý nghĩ như vậy
trong kĩ năng đọc.
Chúng ta cần
hiểu đọc là gì? Thật đơn giản mục đích
của đọc là đọc và hiểu
(reading and understanding). Đọc là phải hiểu, đọc chuẩn mà không hiểu nghĩa là
chưa đọc tốt.
Mục tiêu của
bài đọc là tạo cho người học có nhiều kiến thức hơn được bao hàm trong mỗi dạng
bài đọc. Đó là một chuỗi những kĩ năng (techniques) được kết hợp lại thành một
bài khoá đọc, điều đó sẽ làm cho học sinh hứng thú hơn khi học một bài đọc và đọc
chuyên sâu.
Ngoài ra kĩ năng đọc còn là một kĩ năng quan trọng và cần thiết trong quá trình giảng dạy
tiếng Anh trong trường Tiểu học. Những năm trước đây có nhiều giáo viên cho
rằng khi đọc một bài khoá thì nhất thiết học sinh phải được lần lượt đọc to
từng đoạn trong bài, một số khác lại cho rằng sẽ không tốt cho học sinh nếu họ
được nhìn thấy bài khoá trước khi họ nghe đọc mẫu, một số khác nữa thì lại
thường yêu cầu học sinh theo dõi bài khoá trong khi giáo viên đọc mẫu.
Ngày
nay tất cả những quan điểm trên đều được coi là phiến diện, không phù hợp với
quan điểm dạy học theo hướng giao tiếp, coi giao tiếp vừa là phương tiện dạy và
học, vừa là mục đích của quá trình dạy học. Vì thực tế nhiều năm khi dạy các
bài khoá, giáo viên thường giúp học sinh, cho học sinh đọc đồng thanh, gọi học
sinh đọc cá nhân trước lớp sau đó là dịch bài khóa sang tiếng Việt. Theo tôi cách
dạy và học này không giúp học sinh hiểu hoàn toàn nội dung bài khoá, không khai
thác hết bài khoá và học sinh sẽ không nhớ tốt từ cùng cấu trúc câu.
Xuất
phát từ thực tế nhiều năm giảng dạy tiếng Anh và tham khảo một số tài liệu tôi
thấy việc đổi mới và áp dụng một số phương pháp dạy đọc, rèn và phát triển kĩ năng
đọc cho học sinh là điều hết sức cần thiết ngay từ bước cơ sở. Vậy chúng ta có
bao nhiêu cách để dạy một bài đọc? Theo tôi, có nhiều cách dạy đọc khác nhau phù
hợp cho từng dạng bài đọc, điều đó còn phụ thuộc vào mục đích dạy đọc. Để giải
đáp những khúc mắc tôi đã đi sâu vào nghiên cứu kĩ năng đọc và đưa ra giải pháp
trong sáng kiến.
2. Cơ sở lý luận của sáng kiến.
2.1. Nhận thức:
Giáo dục có vai trò quan trọng
trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Trong tình hình hiện nay,
đất nước trên con đường đổi mới, chính sách mở cửa quan hệ với các nước trên
thế giới đ·
tăng đáng kể. Sự giao tiếp rộng rãi với các nước trên thế giới bằng tiếng Anh -
Ngôn ngữ quốc tế - ngày được quan tâm hơn.
Chính
vì vậy môn tiếng Anh đã đưa vào chương trình giáo dục tiểu học và cũng là một
môn chính trong các kỳ thi phổ thông với mục tiêu giúp các em học sinh trên cơ
sở rèn luyện 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết đạt được khả năng đọc hiểu tiếng
Anh ở chương trình phổ thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tự học, tìm hiểu
khoa học kỹ thuật hiện đại vào kho tàng văn hóa phong phú của thế giới.
Xuất phát từ đối tượng của quá trình dạy
học là học sinh tiểu học thuộc vùng núi,
việc học tiếng Anh hoàn toàn chưa được chú tâm, ý thức học tập của các em chưa
cao, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận
thấy rằng các em còn gặp nhiều khó khăn trong việc đọc. Đọc được coi là việc
quan trọng đầu tiên, đọc được và nói được là cơ sở giao tiếp. Nếu quen nói sai,
đọc sai thì cũng không thể nghe được, hiểu được.
Chính vì
nhận thức trên việc giảng dạy Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học cần nhất thiết
phải tuân thủ theo các hoạt động giảng dạy khoa học. Thầy tổ chức các hoạt động
cho học sinh, ở đó học sinh hoạt động là chính, chủ động trong quan hệ với thầy
và hợp tác với bạn trong nhóm (lớp).
Lý
thuyết phương pháp giảng dạy là vậy nhưng thực tế giảng dạy các đối tượng mới
là khó khăn. Như ta biết, tiết dạy học chỉ là một đơn vị cơ bản của quá trình
dạy học. Cho lên để đạt được kết quả cao trong quá trình dạy học nó sẽ được thể
hiện rõ trên từng tiết dạy cụ thể. Mặt khác, chúng ta biết Tiếng Anh Tiểu học
lại chủ yếu tập trung ưu tiên vào hai kĩ năng Nghe và Nói nhiều hơn nhưng kĩ năng
đọc cũng không thể thiếu trong quá trình hình thành tri thức, ngôn ngữ của trẻ.
Đọc tốt thì phát âm sẽ chuẩn, nói chuẩn, nghe chuẩn và đọc nhiều sẽ nhớ được từ
vựng, ngữ pháp để viết tốt, dịch tốt. Bởi vậy, người giáo viên càng cần phải
tích cực năng động, sáng tạo, tổ chức tốt hơn trong quá trình giảng dạy, nhất
là kĩ năng đọc.
2.2. Môi trường học.
Trong thực tế giảng dạy ở nhà trường
tôi dạy hiện nay, tôi thấy về điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho
việc dạy - học ngoại ngữ ở bậc tiểu học còn khó khăn, thiếu thốn. Chưa đáp ứng được tiêu chuẩn phòng học
ngoại ngữ thực thụ. Học sinh còn coi nhẹ việc học bài Tiếng Anh ở nhà; nhận
thức của nhiều phụ huynh còn chưa tốt về việc học ngoại ngữ ở cấp độ Tiểu học,
thậm chí cả giáo viên văn hóa (nhất là ở vùng núi, nông thôn). Điều đó đã gây
cho giáo viên Tiếng Anh một trở ngại lớn trong gi¶ng d¹y con em hä,... Ngoài
ra sách giáo khoa nhiều chỗ còn phân bố chưa hợp lý, kiến thức còn nặng nề,
nhiều từ vựng còn quá khó với việc ghi nhớ, phát âm của các em, việc thay đổi
sách giáo khoa còn chưa hoàn thiện ở bậc tiểu học. Điều đó đã gây cho giáo viên không ít khó khăn trong khi giảng dạy mà kĩ
năng đọc lại là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc học ngoại
ngữ ở bước cơ sở. Nếu giáo viên không nhiệt tình yêu nghề, không có chuyên môn
nghiệp vụ tốt, điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc học tập của trẻ ngay từ lúc hình
thành ngôn ngữ ban đầu... Bởi vậy, lần này tôi đã quyết định đi sâu vào nghiên cứu kĩ năng dạy đọc bằng những
kinh nghiệm, sự học hỏi đồng nghiệp với định hướng “Rèn kĩ năng đọc Tiếng Anh cho học sinh lớp 5” để hình thành kĩ năng đọc tốt nhất
ngay từ bước cơ sở của trẻ.
3. Thực trạng.
- Đối tượng học sinh ở khối Tiểu
học là các em nhỏ tuổi. Việc đọc Tiếng
Anh tốt ngay từ lúc ban đầu là
rất quan trọng và cần thiết. Vì có đọc
tốt các em mới có thể nghe chính xác, nói chuẩn, đúng giai điệu. Các em sẽ không bị bỡ ngỡ khi gặp
một người nước ngoài nói Tiếng Anh. Trong khi đó thực tế các em học sinh lớp 5 ở trường tôi hầu như rất
ngại đọc những bài đọc khó, dài, hầu như khi đọc
các em thường bỏ qua những từ
khó đọc, hay việc lười dịch hiểu câu chẳng hạn,…
- Giáo trình Tiếng Anh mới 4 tiết/tuần
còn đang thực nghiệm ở tiểu học, giáo viên còn chưa được tiếp cận nhiều với
giáo trình này.
- Trình
độ giáo viên còn chưa đồng đều, việc tìm tòi nghiên cứu các tài liệu phục vụ
cho giảng dạy Tiếng Anh ở tiểu học còn hạn chế. Lòng nhiệt huyết yêu nghề chưa
cao do tác động khách quan biên chế giáo viên Tiếng Anh ở tiểu học.
- Hiện nay
giáo viên Tiếng Anh cũng đã có những bước cải thiện đáng kể trong trình độ như
B1, B2 theo khung tham chiếu Châu Âu. Đó là ước muốn hoàn thiện chất lượng của
Bộ GD&ĐT. Trường tôi đã có hầu hết giáo viên đạt trình độ B2. Việc dạy đọc
cho trẻ chủ yếu khó khăn về mặt phương pháp dạy, sao cho học sinh đọc tốt và
nhớ tốt mới là khó khăn và cần đạt được.
-
Chương trình dạy học mới, phương pháp dạy học có thay đổi, giáo viên vận dụng
còn chưa linh hoạt nên chưa phát huy được tính tích cực, hiệu quả học tập của
học sinh.
- Giáo
viên còn nặng về việc cung cấp kiến thức mà chưa chú trọng đến việc luyện tập
thực hành của học sinh. Dạy học chưa sát đến từng đối tượng học sinh.
- Sự nhận thức tiếp thu của học
sinh không đồng đều.
- Việc
áp dụng các phương pháp giảng dạy Tiếng Anh Tiểu học chưa hợp lý dẫn đến hiệu
quả tiết học chưa cao, phần lớn giáo viên còn lúng túng trong việc lựa chọn các
phương pháp hợp lý cho tiết dạy. Điều này đã gây trở ngại lớn trong quá trình
nhận thức của học sinh.
- Ngoài ra giáo viên Tiếng Anh cũng
không được sự trợ giúp tinh thần nhiều từ phía phụ huynh học sinh. Còn coi nhẹ
bộ môn ngoại ngữ ở Tiểu học. Sự nhận thức tiếp thu của học sinh không đồng đều,
có những học sinh lười suy nghĩ, nhất là các học sinh khuyết tật, học sinh có bộ mẹ đi
làm xa,...
- Đồ dùng, trang thiết bị phục vụ
cho dạy học còn thiếu thốn, chưa có phòng dạy học Tiếng Anh chuyên dụng cho khối
lớp 3,4,5 theo chương trình 4 tiết/tuần của BGD. Phương tiện nghe, nhìn như: băng
đĩa, đài, đầu video, máy thu âm, … chưa được trang bị cho khối
lớp trên. Lớp
học lại quá đông chưa hợp lý cho việc rèn luyện các kĩ năng.
- Sự quan tâm đến bộ môn Tiếng Anh còn hạn chế.
Việc thành lập tổ ngoại ngữ giữa các trường trong thị xã còn chưa làm được.
Điều đó đã làm hạn chế việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các giáo viên
Tiếng Anh ở tiểu học. Sách giáo khoa Tiếng Anh còn chưa đồng bộ hoàn thiện từ
lớp 3 đến lớp 5. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh.
Kiến thức học sinh còn chưa đồng đều giữa các khối lớp, dẫn đến việc nghi ngờ
về chất lượng, cán bộ quản lý còn chưa hiểu nhiều về bộ môn này,...
Qua thực tế đó, ngay vào đầu năm
học tôi đã triển khai thực hiện việc nghiên cứu đối tượng, phương pháp giảng
dạy mới phù hợp với đối tượng học sinh lớp 5. Tôi đã khảo sát và kết quả đã
được kiểm tra kĩ lưỡng. Tuy nhiên ở đây tôi áp dụng sáng kiến cho lớp 5A (lớp 5B
đối chứng) vì
có số lượng, chất
lượng đầu năm tương đương. Kết quả kiểm tra như sau:
KQ khảo sát đầu năm |
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
T.bình |
Yếu |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|||
2014-2015 |
5A |
34 |
20 |
58,8 |
7 |
20,6 |
7 |
20,6 |
|
|
5B |
34 |
19 |
55,9 |
5 |
14,7 |
10 |
29,4 |
|
|
Xuất phát từ thực tế trên, tôi tham khảo một số tài liệu thấy việc
đổi mới phương pháp dạy học và rèn kĩ năng đọc theo đối tượng là hết sức cần
thiết, nhất là thực trạng bộ môn ngoại ngữ ở bậc tiểu học hiện nay. Chính vì
vậy tôi trình bày một số kinh nghiệm dạy đọc mà tôi đã tích lũy và áp dụng có
hiệu quả cho học sinh nhiều năm qua. Sáng kiến được trình bày dưới dạng
"Rèn kĩ năng đọc Tiếng Anh cho học sinh lớp 5".
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
* Trước tiên tôi đi sâu vào nghiên cứu:
- Phương pháp đọc (tham
khảo) tài liệu: Nghiên cứu sách giáo khoa, sách bài tập, sách hướng dẫn dạy đọc Tiếng Anh cho học sinh Tiểu
học, các tài liệu dạy đọc
khác dành cho học sinh Tiểu học, tham khảo phương pháp dạy đọc cho học sinh tiểu học
qua internet.
- Phương pháp thực nghiệm:
Thí điểm nhiều giờ dạy ở nhiều lớp, nhiều đối tượng học sinh.
- Phương pháp hỏi đáp: Hỏi điều tra học sinh, tham
khảo bạn bè đồng nhiệp, nắng nghe rút kinh nghiệm từ cấp trên.
- Hàng tháng có các bài tests để đánh giá học sinh.
- Nghiên cứu kết quả các bài tests.
- Trao đổi, tham khảo đồng
nghiệp và bạn bè.
* Mục đích: Giải quyết được phần lớn khó khăn vướng mắc trong việc dạy kĩ năng đọc
cho học sinh lớp 5 (sách 4 tiết/tuần), nhằm phát huy tính tích cực hăng say
luyện đọc của học sinh.
4.1.
Tìm hiểu các loại hình bài đọc.
Trong giảng
dạy ngoại ngữ, để giúp học sinh phát triển kĩ năng đọc có hiệu quả ta cần phân
biệt những loại đọc cơ bản vẫn được sử dụng phổ biến như:
- Đọc to và
đọc thầm.
- Đọc phân
tích và đọc tổng hợp.
4.1.1. Đọc to và đọc thầm:
Xét về cách
thức đọc có 2 loại đọc: đọc to (reading aloud) và đọc thầm (silent reading).
1.1. Khi ta
muốn truyền đạt lại thông tin của một người khác đã được viết ra như đọc báo, đọc
tin hoặc giúp học sinh luyện phát âm, trọng âm, ngữ điệu và kĩ năng đọc để
thông báo lúc đó ta đọc to thành lời.
1.2. Khi
muốn đọc để hiểu, để nhận biết thông tin, chúng ta thường đọc thầm, tức là nhìn
vào chữ và nhận biết thông tin trong óc không nhất thiết phải đọc to thành lời
mà vẫn có hiệu quả.
Trong giảng
dạy ngoại ngữ việc đọc to thành lời có rất ít tác dụng đến việc phát triển kỹ năng
đọc hiểu của học sinh.
4.1.2. Đọc phân tích và đọc tổng hợp: (Intensive
reading, Extensive reading)
Xét theo
mục đích đọc có những mục đích sau:
4.1.2.1. Đọc
giải trí (Reading for pleasure).
4.1.2.2. Đọc
lấy thông tin cần thiết (Scanning for specific information).
4.1.2.3. Đọc
phân tích để hiểu nội dung chi tiết hoặc để nghiên cứu (Reading for detail
information).
4.1.2.4. Đọc
phân tích để học tiếng (Reading for study).
4.1.2.5.
Đọc lướt (Skimming): Nắm bắt được nhanh thông tin chính toàn bài. Đọc lướt cần
tuân thủ theo 4 bước sau:
+ Bước
1: Đọc nhanh bài đọc từ đầu đến cuối để nắm được chủ đề của bài và nội dung sơ
lược.
+ Bước
2: Tự nói lên những điều mình tiếp thu được qua lần đọc đầu tiên này, dù là những
ý tưởng đơn giản mình bắt gặp trong bài đọc (nói bằng tiếng Anh). Lưu ý: không
lên quan tâm đến từ mới, chưa tìm hiểu kĩ những gì mình chưa hiểu.
+ Bước
3: Đọc lướt lại một (hai) lần nữa. Sau khi đọc bài viết đã đọc một số thông
tin. Xác định xem thông tin nào đúng với nội dung bài thì giữ lại, thông tin nào
không đúng thì gạch đi.
+ Bước
4: (group work/ pair work). Hãy so sánh những điều mình hiểu với bạn luyện (partners)
trong nhóm.
4.1.2.6.
Đọc lấy nội dung chính (Gist reading): Để nắm bắt được ý đồ của tác giả viết bài
đó. Kỹ thuật đọc này dạy cho người học nắm được nội dung cơ bản của bài đọc. Phương
pháp tìm ra ý chính này cần tuân thủ theo 4 bước:
+ Bước
1: Đọc một lượt từ đầu đến cuối để nắm chủ đề của bài đọc.
+ Bước
2: Đọc hiểu: đọc từng câu để nắm nghĩa của nó.
+ Bước
3: Chọn lọc nội dung: xác định những câu mang nghĩa quan trọng hơn các câu khác
còn lại.
+ Bước
4: Xác định ý chính.
4.1.2.7.
Đọc lấy thông tin chi tiết (Reading for details): Là quy trình bài đọc với mục đích
khai thác triệt để thông tin có trong bài có thể được tuân thủ theo các bước
sau:
Ý phụ
quan trọng bậc 1.
Ý
phụ quan trọng bậc 2.
Ý
phụ quan trọng bậc 3.
Những
ý phụ có thể bỏ qua.
4.1.2.8. Đọc
phán đoán (Prediction):
4.1.2.9.
Kỹ thuật đọc 5-Cs: Là một kĩ thuật tổng hợp 5 bình diện có liên quan chặt chẽ với
nhau trong quy trình học, cả về mặt kỹ thuật lẫn mối quan hệ ngôn ngữ học.
+
Collocations (Sự phối hợp từ).
+ Cluster
(Tổng hợp).
+ Cloze
procedures (Thủ pháp bỏ trống từ).
+ Context
(Văn cảnh).
+
Creativity (Tính sáng tạo).
4.1.2.10.
Đọc để tìm hàm ý (Read for Inferences):
4.1.2.11.
Đọc nhận diện ý đồ tác giả (Identification of the Author’s Intention): Đọc tìm ra mục đích của tác giả qua bài viết.
+ Cung
cấp thông tin (to inform).
+ Thuyết
phục (to persuade).
+ Tạo
niềm vui (to entertain).
+ Tranh
luận (to argue).
Trong những
năm trước đây, việc dạy bài đọc cho học sinh chủ yếu là đọc phân tích
(Intensive reading) nhằm để cung cấp ngữ liệu và thực hành tiếng nói chung, 3 loại
đọc đầu còn hạn chế.
4.2. Kĩ năng đọc.
Bài đọc được
dùng trong giảng dạy ngoại ngữ có hai loại cơ bản: Bài đọc dùng để dạy tiếng và
bài đọc dùng để dạy kĩ năng đọc hiểu.
Trong những
năm trước đây việc dạy học thường chỉ hạn chế trong phạm vi những kĩ năng cơ
bản như:
- Nhận biết
mặt chữ và nghĩa của từ đã học thông qua nói.
- Đọc và
hiểu được những câu và chuỗi lời nói đã học qua nói… cho dù đó là loại bài đọc
gì.
Các kĩ năng
này chưa đủ để đảm bảo cho học sinh có được những kĩ năng đọc hiểu thông thạo.
Khi đọc người
đọc còn cần có những kỹ năng khác như:
- Kỹ năng đọc
để lấy thông tin cần thiết (Scanning/Reading for specific information).
- Kỹ năng đọc
lướt tổng quát để lấy thông tin, nội dung chính (Skimming/
- Kỹ năng
phán đoán trước khi đọc và trong quá trình đọc (Predicting).
- Kỹ năng đoán
từ trong ngữ cảnh (Guessing meaning from context).
Để khai
thác và rèn kỹ năng đọc bài khoá cho học sinh tôi xin đề cập đến loại bài đọc
dùng để dạy kĩ năng đọc hiểu cho học sinh Tiểu học.
4.3. Phương pháp dạy bài khóa.
4.3.1. Tiến trình dạy một bài khoá:
Thông thường
dạy một bài khoá được tiến hành theo 3 giai đoạn cơ bản: Trước khi đọc
(Pre-reading), trong khi đọc (While reading) và sau khi đọc (Post reading).
Trong mỗi giai đoạn lại có những hoạt động khác nhau, các hoạt động này không
hoàn toàn bắt buộc đối với tất cả các bài dạy đọc mà chúng ta nên sử dụng chúng
một cách linh hoạt.
4.3.2. Các hoạt động cho mỗi bài dạy:
4.3.2.1. Giai đoạn trước khi đọc:
Các hoạt động
trước khi đọc chủ yếu nhằm gây hứng thú cho học sinh (Arouse students), hướng
học sinh vào chủ đề, chủ điểm mà học sinh sắp đọc (Focus on the topic), thiết
lập tình huống (Set the scene).
Bước dầu
tiên của giai đoạn này là giới thiệu ngữ liệu mới (Pre-teach vocabulary).
Trong bước
này có thể sử dụng các thủ thuật giới thiệu và dạy từ vựng, ngữ pháp và cấu
trúc câu mà giáo viên đã được nghiên cứu và áp dụng (7 steps: elicit – model –
repetition – checking pronounciation- copy- checking stress – meaning và các
thủ thuật: visual aid- realia - mime- situation/ explanation- example –
synonym/ antonym- translation,…).
Giáo viên
cũng cần lựa chọn và phân loại từ để dạy tuỳ theo mức độ khó và mức độ cần
thiết của từ đối với việc đọc và hiểu nội dung bài học cũng như số lượng từ mới
cần giới thiệu bao nhiêu thì vừa. Nếu từ mới cần thiết cho việc đọc và hiểu bài
và phù hợp với trình độ học sinh thì ta cần dạy kỹ càng, dạy một cách chủ động.
Nếu từ mới cần thiết nhưng vượt quá khả năng của học sinh thì nên dạy thụ động
nghĩa là giáo viên nên giải thích hoặc dịch nghĩa càng nhanh càng tốt. Nếu từ
không cần thiết để hiểu bài khoá và cũng không quá khó thì nên cho học sinh đoán
nghĩa của từ trong văn cảnh. Nếu từ mới vừa không cần thiết vừa không khó thì
ta có thể bỏ qua.
Sau khi dạy
song từ vựng giáo viên có thể tổ chức một số hoạt động trước khi đọc để tạo nhu
cầu, lý do, mục đích của việc đọc (Create reasons for reading) cho học sinh đoán
trước nội dung bài đọc (Predict the text) hoặc nêu những điều muốn biết về bài
khoá (Give expectation),… Sau đây là một số hoạt động trước khi cho học sinh đọc:
4.3.2.1.1.
Sắp xếp lại trình tự các câu (Ordering statements).
Giáo viên
viết lên bảng hoặc bảng phụ một số câu theo nội dung bài nhưng không theo thứ
tự, yêu cầu học sinh đọc rồi sắp xếp lại theo ý hiểu của mình sau đó mở sách đọc
và kiểm tra lại dự đoán của mình. Số lượng câu có thể là 6-8.
4.3.2.1.2. Đọc
chép chính tả (Jigsaw dictation):
Giáo viên
cần chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ (6-7em/nhóm). Chép nội dung của bài thành
nhiều câu (khoảng 6-7 câu) rồi bản phôtô phát cho mỗi em một tờ. Lần lượt từng
em đọc câu của mình cho các bạn chép sau đó suy đoán thứ tự các câu, cuối cùng
mở bài đọc ra đọc rồi đối chiếu để kiểm tra.
4.3.2.1.3.
Sắp xếp lại tranh theo thứ tự. (Ordering pictures):
Giáo viên
chuẩn bị một số bức tranh theo nội dung của bài mà học sinh sắp đọc (có thể vẽ
hình que đơn giản). Giới thiệu và dán các bức tranh lên bảng nhưng không theo
quy thứ tự. Yêu cầu học sinh xem rồi sắp xếp lại sau đó mở sách đọc và kiểm tra
lại.
4.3.2.1.4.
Dự đoán đúng sai (True/ False statement prediction):
Giáo viên
chuẩn bị 5->6 câu về nội dung bài đọc, yêu cầu học sinh cho dự đoán đúng
sai, sau đó đọc bài và kiểm tra lại.
4.3.2.1.5.
Dự đoán mở (Open prediction):
Giáo viên
chuẩn bị trước hoặc kẻ 1 bảng, điền một số thông tin vào bảng, yêu cầu học sinh
dự đoán tiếp những nội dung còn lại, sau đó đọc bài và kiểm tra lại.
Bằng các
hoạt động trước khi đọc, như vậy học sinh đã có thể hình dung được phần nào nội
dung bài khoá nhưng chưa sâu: Những thông tin trong phần dự đoán thường là
những ý chính, chung chung của bài đọc. Giáo viên không nên đưa ra những thông
tin chi tiết vì giai đoạn này chủ yếu rèn kỹ năng đọc lướt, lấy thông tin chính
(Skimming for main ideas). Lần đọc này là lần đầu của giai đoạn trong khi đọc.
4.3.2.2. Giai đoạn trong khi đọc:
Hoạt động đầu tiên của giai đoạn này là học
sinh đọc để kiểm tra thông tin đã dự đoán ở phần trước. Giáo viên cho học sinh đối
chiếu với kết quả dự đoán và kết quả sau khi đọc lần thứ nhất. Giáo viên chữa
chung cho cả lớp nếu học sinh chưa thông thì yêu cầu học sinh đọc lại phần có
câu trả lời đó để xác định lại. Tiếp theo giáo viên đưa ra một số hoạt động để
học sinh đọc bài khoá một cách kỹ càng hơn. Đây là giai đoạn chính của việc đọc
vì vậy giáo viên cần chuẩn bị kỹ nội dung, các hoạt động cho giai đoạn này xong
không nên trùng lặp với nội dung của phần dự đoán ban đầu để tránh sự nhàm
chán, và quá dễ với học sinh gây tâm lý không tốt vì câu trả lời đã được làm rõ
ở phần đầu. Sau đây là một số hoạt động trong khi đọc:
4.3.2.2.1. Đưa
ra câu trả lời (Answers given):
Example: Sau
khi học sinh đọc xong lần 1 phần 1, lesson 1, Unit 7 (sách 4 tiết/tuần), page
55. Sử dụng projector tôi đưa ra một số pictures sau trên screen:
1. 2.
Tôi hỏi học
sinh “How can you ask me if you want to know my favourite sport or game in each
picture. Please, raise your hand.”
One
student: What’s your favourite sport (game)?
Teacher:
Very good.
…
4.3.2.2.2. Đưa
ra câu hỏi “Wh” questions:
Sử dụng
“What, where, when, who, how (much, many)… để kiểm tra mức độ đọc hiểu chi tiết
của học sinh.
Example: Phần
Review 1 (sách 4 tiết/tuần), part III, exercise 2, page 46.
Trong khi
học sinh đọc bài text “A Summer Camp” tôi đưa ra cho học sinh một số câu hỏi kiểm
tra như sau: 1) Where
did Nam go last week? 2) How
many boys in Nam’s tent? 3) Where were the boys in
Nam’s tent from? 4) What did
the campers do before breakfast? |
|
Vậy trong
quá trình đọc hiểu học sinh luôn tìm và chú ý thông tin của các câu hỏi trên, sau
khi đọc xong học sinh sẽ trả lời được câu hỏi.
…
4.3.2.2.3. Đưa
ra nhiều lựa chọn (Multiple choice):
Giáo viên đưa
ra một số câu và một số đáp án cho mỗi câu, yêu cầu học sinh chọn đáp án đúng.
Example: Phần
1, lesson 1, Unit 1 (sách 4 tiết/tuần).
Sau khi học
sinh luyện đọc xong lần 1 tôi đưa ra một số câu hỏi tìm hiểu thông tin mức độ
hiểu bài của học sinh như sau:
- How many
students are there in the pictures?
a. two b.
three c. four d. five
- Where is
Zack from?
a.
Bangkok b. Hanoi c. Kuala Lumpur d. Jakarta
- What
about Lawan?
a.
Vietnam b. Thailand c. Indonesia d.
Malaysia
…
(Trong khi
đọc học sinh sẽ tự tìm thông tin để làm bài trắc nghiệm trên)
4.3.2.2.4. Điền
từ thích hợp vào chỗ trống (Gap fill):
Dùng để
kiểm tra hiểu từ vựng, kiểm tra hiểu ý nghĩa của câu, bài đọc. Tôi đưa ra bài
tập điền từ, yêu cầu học sinh tìm từ hoặc cụm từ để hoàn thành bài.
Example:
Phần 3, lesson 3, Unit 9 (sách 4 tiết/tuần), page 74.
Tôi đưa ra
bài tập điền từ để tìm hiểu thông tin bài đọc như sau:
1. It was
______ last Wednesday. The students celebrated this special day.
2. The head
teacher spoke to _______ the teachers for their teaching.
3. The
students gave their ________ flowers and cards.
4. There
were ________ activities in the classroom.
5.
Teachers’ Day was an exciting and _______ day for both teachers and students in
the school.
Học sinh
nếu nhớ được thông tin sẽ điền được ngay, còn nếu chưa nhớ được các em sẽ tự
tìm hiểu lại bài đọc để đưa ra từ điền đúng.
4.3.2.2.5. Điền
vào bảng hoặc mẫu (Grids or forms):
Để kiểm tra
việc hiểu ý chính, phân loại thông tin, giáo viên đưa ra một mẫu ghi một số
thông tin, yêu cầu học sinh đọc bài rồi điền câu trả lời vào mẫu (phần còn
trống). Giúp học sinh hiểu kĩ bài đọc trước khi trả lời câu hỏi như đọc thư, bài
quảng cáo, thông tin bảng,…
Example:
Phần 1, exercise 3, Review 2 (sách 4 tiết/tuần), page 85.
Sau khi đọc
hiểu bảng trên, học sinh sẽ tiến hành làm bài điền theo thông tin cột cho sẵn.
4.3.2.2.6.
Kết nối các câu (Matching sentences):
Yêu cầu học
sinh đọc yêu cầu và nói được nhiệm vụ cần làm. Hướng dẫn làm việc cá nhân, cặp
hoặc nhóm nhỏ để thảo luận và dùng bút chì ghép các câu ở cột trái với đáp án cột
phải. Mời đại diện phát biểu đáp án, học sinh nhóm khác nghe và cho nhận xét. Yêu
cầu làm việc cặp luyện lại các lời thoại đã ghép.
Example:
Part 2, Lesson 1, Unit 9 (sách 4 tiết/tuần), page 69. Tôi đưa ra bài tập kiểm
tra lại thông tin hiểu bài của học sinh và kĩ năng đọc hiểu. (Use projector
screen)
Country |
|
Teachers’ Day |
1. Australia |
|
a. January 16th |
2. Indonesia |
|
b. September 5th |
3. Thailand |
|
c. the last Friday of October |
4. India |
|
d. November 20th |
5. Vietnam |
|
e. Noverber 25th |
Students (do on the board): 1. c 2.
3. 4.
5.
(Sau
khi chữa xong học sinh luyện mẫu theo nhóm bàn)
When is
Teachers’ Day in Australia?
-> It’s on …………..
4.3.2.2.7.
Câu trả lời đúng sai (T/F; Y/N, right/wrong questions and statements):
Cách thức
giống như phần T/F prediction statements.
Example:
Để hiểu tốt
bài đọc (text), tôi cho học sinh đọc, tìm hiểu câu trả lời bài tập phần a ngay
khi học sinh đọc xong lượt thứ nhất.
4.3.2.2.8. Đọc
- ghép lời thoại vào tranh:
Nêu nhiệm
vụ thực hiện: Làm việc theo nhóm nhỏ thảo luận hiểu về tranh trong bài, tiếp đó
thực hiện cá nhân đọc hiểu đoạn văn rồi ghép chúng sao cho phù hợp. Yêu cầu một
hoặc hai học sinh nói đáp án trước lớp, học sinh còn lại nghe và cho nhận xét.
Học sinh luyện lại bài đọc (có thể đóng vai; đàm thoại; đọc luyện phát âm) theo
cặp hoặc cá nhân (tuỳ theo mục đích bài đọc sao cho phù hợp).
Example:
Trong giờ luyện tập ôn lại kiến thức tôi đưa ra bài tập sau để kiểm tra kĩ năng
đọc hiểu của học sinh.
1. What time does he get up? He gets up
at half past six. |
a. |
2. What does he often do after getting up? He often
brushes his teeth. |
b. |
3. What does he do next? He does
morning exercise. |
c. |
4. What does he do at seven o’clock? He goes to
school. |
d. |
1. …d…. 2.
…a…. 3.
…b… 4…c..
(Sau khi
nhận xét kết quả gọi học sinh đọc các câu để củng cố phát âm)
4.3.2.2.9. Đọc
đồng thanh:
Đọc đồng
thanh thường làm lời nói chậm lại, nhưng nếu đọc được nhiều tốc độ đọc sẽ được
cải thiện, cần chú ý đến kĩ năng nối âm câu, từ. Giáo viên cần luyện cho học
sinh đọc từng câu chậm rồi đọc nhanh dần. Yêu cầu học sinh phải đọc theo đúng
tốc độ và bắt chước đúng trọng âm và ngữ điệu.
Example:
Bài đọc đồng thanh dưới đây.
……
Trên đây là
một số hoạt động quan trọng chính trong lúc đọc, các hoạt động này chính là
những cái cớ, lý do để học sinh đọc. Học sinh có thể phải đọc kỹ bài đọc có thể
phải đọc đi đọc lại bài mới có thể trả lời được đầy đủ các câu hỏi đó như vậy
mục đích chính là tạo cho mọi học sinh tham gia đọc bài một cách tích cực,
nhiệt tình,… để tìm hiểu, khai thác nội dung bài khoá tuỳ theo mục đích và nội
dung cụ thể từng bài sẽ có những dạng câu hỏi và yêu cầu khai thác khác nhau,
có thể vừa về nội dung vừa về ngôn ngữ, và điều cần lưu ý là giáo viên phải
luôn luôn ấn định thời gian cho học sinh đọc, giảm dần thời gian đọc sao cho
học sinh có thể đọc với tốc độ đọc tiếng mẹ đẻ.
4.3.2.3. Các hoạt động sau khi đọc (Post reading):
Sau khi học
sinh đọc và làm bài tập theo các yêu cầu và câu hỏi đọc hiểu, giáo viên có thể
tiếp tục tiến hành các hoạt động luyện tập đòi hỏi sự thông hiểu tổng quát của
toàn bài, liên hệ thực tế, chuyển hoá vốn kiến thức vừa nhận đựơc qua bài đọc,
luyện tập củng cố các cấu trúc ngữ pháp cơ bản. Ở giai đoạn này có một số hoạt động
như sau:
- Gap fill,
role play, rewrite, retell, discussion, give comments on the characters in the
text, personlized tasks…. Hoặc cho học sinh chơi trò chơi có liên quan đến bài đọc.
4.3.2.3.1.
Gap fill:
Tương tự như
giai đoạn trong khi đọc, nhưng nếu sử dụng hoạt động này ở giai đoạn đó rồi thì
bây giờ cho hoạt động khác.
4.3.2.3.2.
Role play:
Phối kết
hợp các kỹ năng từ đọc sang nói (Integrated skills from reading to speaking).
Hoạt động
này rất đa dạng và phong phú/ học sinh đóng vai người phỏng vấn và người được
phỏng vấn. VD: Tình huống đi xin việc, thì người phỏng vấn phải hỏi người đi
xin việc những câu hỏi có liên quan đến bản thân, đến trình độ, nghề nghiệp,…
4.3.2.3.3.
Rewrite:
Học sinh
dựa vào bài đọc viết lại sang kiểu khác, ví như một bài quảng cáo, một cuộc
phỏng vấn, một kịch bản hoặc dạng Transformation…. phối kết hợp các kỹ năng từ
nói sang viết.
4.3.2.3.4.
Thảo luận (Discussion):
Chuyển nội
dung bài đọc sang những nội dung mang ý nghĩa thực tế, sát
với thực tế hàng ngày, gần gũi với học sinh…… và về
một chủ đề nào đó.
Giáo viên đưa
ra chủ đề, yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm, mỗi nhóm cử một thư ký ghi lại
những ý kiến sau đó trình bày trước lớp.
4.4. Tác dụng của trò chơi trong kĩ năng đọc.
Trò chơi
không phải lúc nào cũng là một loại hình giải trí, không quan trọng. Thực ra nó
có thể sử dụng để củng cố ngữ liệu đã giới thiệu trong bài học theo một phương
thức hấp dẫn học sinh. Trong hầu hết các loại hình, trò chơi thực hiện được
những chức năng của các loại bài luyện đọc kể trên, vì sử dụng trò chơi, chúng
ta có thể ôn tập và giới thiệu ngữ liệu một cách có tổ chức và vui vẻ. Phương
thức này có hiệu quả khi học từ và cấu trúc câu mới. Ngược lại trò chơi thường
có kết thúc mở (open-ended) và lấy học sinh làm trung tâm hoạt động (student-centred).
Có nhiều loại hình trò chơi. Một số tập trung vào từ vựng, một số quan tâm đến
cấu trúc câu,… Sau đây là một số trò
chơi dùng cho trình độ mới bắt đầu:
Bingo;
Lucky number (con số may mắn); Hang out; Charades (Thể hiện nghĩa từ bằng điệu
bộ- đố chữ); Find the Match (Tìm tương đương); Guess the word (Đoán từ); Find
Hidden words (Tìm từ ẩn); Pass the card (Chuyển phiếu); Picture game (Trò chơi
vẽ tranh); Put in word-frame (Điền vào khung chữ); Find your Partner (Tìm bạn
luyện); Living Sentence or Dialogue (Tái dựng câu hoặc đoạn hội thoại), Put
words (Điền từ); Match words to pictures (Ghép từ với tranh); Match sentences to sentences (Nối câu với câu);
Make the sentence(Đặt câu); Guessing Game (Trò chơi phán đoán); Describe the
picture (tả tranh);…
4.5. Kiểm tra khảo sát, giáo án thực
nghiệm.
Hàng tháng tôi cho bài kiểm tra
khảo sát để theo dõi kết quả thực nghiệm, tôi thấy kết quả ấy được phản ánh rõ
qua các bài kiểm tra đọc.
Học sinh hầu như đều đạt từ 80% trở lên. Kết quả này khác hoàn toàn so với
trước kia. Việc các em đọc hiểu tốt sẽ dẫn đến việc các em nhớ từ tốt, nói tốt, viết tốt, nên tôi cũng
không phải lo lắng nhiều trong việc rèn luyện các kĩ năng còn lại của các em.
*
Ở đây tôi đưa ra
một số bài
kiểm tra đọc minh
họa như sau:
Question 1. Look and read. Choose the correct word and put them in the line
|
|
|
astronaut |
dentist |
moutains |
|
|
|
brushing teeth |
comic books |
mechanic |
1. This a favourite place to go on a picnic. |
…………… |
2. You should do it in the morning and before going to bed. |
…………… |
3. This man repairs cars and machines. |
…………… |
4. I will be this because I want to fly into space. |
…………… |
Question 2. Read and colour. Insert the missing words in the numbered gaps.
|
Question 3. Read and
write ONE or more WORDS in each
gap to complete the sentences
The
animal show
Time |
Location |
Animals |
||
Bears |
Seals |
Monkeys |
||
7.00-
9.00 |
circus |
bulky |
funny |
clever |
|
|
did
the boxing |
played
with the balls |
rode
the bikes, played the drums |
1. We went to the ____________________ to see the animal show.
2. The animal show lasted
________________ hours .
3. We liked the seals because
they _______________________ .
4. The monkeys ________________________________.
Question 4. Look and read. Choose the correct words and write in the box.
I love (0) learning
languages. Of course, I love learning English the most because it is an
(1) _____________ language and it is very useful for my life. At school we (2)
________ listening, speaking, reading and writing. At home we (3)
________________ and play language games
. We sometimes have English speaking festivals on New Year’s Eve and (4)__________________. On
this occasion we speak, sing and perform funny plays in English. It’s very
interesting.
|
|
|
Teacher’s Day |
speaking |
do homework |
|
|
|
playing games |
crosswords |
reading |
|
|
|
join Children’s Day |
practise |
international |
* Giáo án minh họa.
UNIT 6: A VISIT TO THE
ZOO
LESSON 3: - Period: 38: Part 3,4,5
Time: 40'
A. Aims: By the end of the lesson, sts will
be able to:
- ask and answer questions about
what one saw at an animal show.
- read an animal story and write in the speech bubbles.
B. Language focus:
* Vocabularies: burning hoop, wake sb
up, catch, beg, never, forget…
*
Pronunciation:
*
Structure: What did you see at the animal
show?
I/We saw +
a(an) animal(s) + V-ing…
C. Teaching
aids:
Teaching plan, English 5, workbook,
pictures, chalk, board, textbook, .…
D.
Teaching procedure: 40’
I - Class organization:
- Greeting
- Checking attendance
II - New lesson:
Time |
Teacher’s
Activities |
Student’s
Activities |
|||
5’ 8’ 15’ 10’ 3’ |
1.Warm
up. -
Brainstorming - Divide the class into 3 teams.
monkey - Find the winner and reward. 2. Read and number the pictures -
set the sense -
present new vocabulary: wake/
woke: đánh thức // catch/ caught: bắt beg/
begged: xin //forget: tha thứ too
small: quá nhỏ// never: chưa từng net:
mạng lưới -
T reads the story. -
T reads each line and let Ss repeat. -
T points to each picture, elicit Ss’ answers to guess what it indicates. -
Ask Ss to read in silent and do the task individually. -
Have Ss share their answers. -
Give feedback and correct: Key:
1d, 2e, 3b, 4f, 5c, 6c -
Check the results and give good marks. 3. Read the passage again and
write in the speech bubbles. - Tell Sts to look at the pictures and guess what
each animal would say: -Have Sts read the story again, underline each
saying to the corresponding picture. - Ss pay attention to “...” - Give examples. - Have Ss do the task individually first and then
share. - Give feedback and correct. 4. Fun time. -
Ask sts to open their page 51 and introduce the game “ guessing”. Guide the
rules of this game. -
Help sts understand activities of this part. -
Ask sts to take notes about the animals they want the others guess. -
Call on some Sts. -
give feedback and correct. -
Compliment. 5. Home-link. -
Review the content of lesson . -
Ask sts to practice further more at home. |
T-WC Team - Individual lion giraffe tiger monkey ... -
Sts listen, listen and repeat, listen in chorus, individual and take notes Listen Listen
and repeat. Read
and number share Check - Look at the pictures and answer. - read the story and underline each saying. Do
the task individually and in pairs. - Listen -ask notes - play the game -
Listen and remember -
Get some advice |
5. Kết quả đạt được.
Sau khi khảo sát Tiếng Anh đầu năm tôi đã bắt tay vào
nghiên cứu và rèn kĩ năng đọc cho
học sinh lớp 5,
cách thức giảng dạy phù hợp mục tiêu, linh động, hiệu quả có sáng tạo. Hàng
tháng tôi cho khảo sát kết quả và điều chỉnh giảng dạy sao cho hợp lý. Sau một học
kì áp dụng những phương pháp trên tôi đã thu được khá nhiều thành quả. Học sinh
yêu thích và ham học môn Tiếng Anh hơn trước. Học sinh nhớ được bài đọc dễ dàng
hơn, khả năng đọc cũng tốt hơn và đọc trôi chảy hơn. Học sinh dễ đọc và nhớ lâu hơn
trước. Kết quả thu được gần đây phản ánh rõ qua bài kiểm tra học kì 1 như sau:
KQ khảo sát học kì 1 |
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
T.bình |
Yếu |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|||
2014-2015 |
5A (thực
nghiệm) |
34 |
33 |
97,0 |
1 |
2,9 |
|
|
|
|
5B (đối chứng) |
34 |
24 |
70,6 |
7 |
20,6 |
3 |
8,8 |
|
|
Sau khi
khảo sát tôi đưa ra so sánh với tháng đầu năm trước khi thực nghiệm.
KQ khảo sát đầu năm |
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
T.bình |
Yếu |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|||
2014-2015 |
5A |
34 |
20 |
58,8 |
7 |
20,6 |
7 |
20,6 |
|
|
5B |
34 |
19 |
55,9 |
5 |
14,7 |
10 |
29,4 |
|
|
Nhìn vào 2 bảng trên tôi thấy kết quả có tỉ lệ khá giỏi sau khi
thực nghiệm có khả quan, cao hơn nhiều so với đầu năm trong lớp thực nghiệm. Mặc dù đạt được
kết quả như trên nhưng tôi chưa
hài
lòng (vì trong
các lớp còn có nhiều em chậm nhận thức, lười suy nghĩ,…). Tôi thấy khả năng của sáng
kiến nếu áp dụng tốt, ở một điều kiện thuận lợi và môi trường tốt chúng ta sẽ
thu được một kết quả khá cao trong tỉ lệ khá giỏi. Đó là điều tôi muốn các đồng
nghiệp cùng tôi tiếp tục khẳng định kết quả nghiên cứu của sáng kiến trong quá
trình giảng dạy. Năm nay tôi có học sinh đạt giải Olympic Tiếng Anh cấp
thị xã và đang tiếp tục dự thi cấp tỉnh.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
Để việc áp dụng kinh nghiệm dạy kĩ năng đọc bộ môn Tiếng
Anh có hiệu quả, tôi thấy cần phải có các điều kiện sau:
- Nhà trường cần phải có sự
quan tâm thích đáng đến bộ môn Tiếng Anh như: Mua sắm thiết bị cho dạy và học,
tối thiểu là đài, băng casette, sách tham khảo cho giáo viên, phòng
chuyên dạy Tiếng Anh cho học sinh khối 3,4,5 theo chương trình quy định của BGD&ĐT
với trang thiết bị tương đối hiện đại, cung cấp đủ thời gian theo yêu cầu của chương trình.
- Giáo viên tâm huyết với
nghề nghiệp, tích cực sử dụng các phương pháp mới vào giảng dạy một cách linh
hoạt, chính xác, phải kiên trì nắm bắt các đối tượng học sinh, nắm rõ mục tiêu
giảng dạy ngoại ngữ theo hướng giao tiếp (đọc tốt sẽ phát âm tốt, đọc chuẩn
trong tình huống giao tiếp sẽ giỏi), học sinh là chủ thể hoạt động, khuyến
khích học sinh chủ động, sáng tạo trong học tập.
Giáo viên đầu tư thời gian để nghiên
cứu bài dạy của từng dạng bài đọc. Nắm
chắc được các phương pháp dạy đọc cho học sinh Tiểu học. Nắm chắc từng đối tượng,
lứa tuổi học sinh để có phương tiện dạy hợp lý, tạo cho học sinh có hứng thú
khi học Tiếng Anh…. Khuyến
khích học sinh tự đọc, học bài ở nhà và hăng say đọc bài trên lớp.
- Học sinh phải có đủ sách
giáo khoa, tích cực hơn nữa trong việc rèn luyện đọc ở nhà và các kĩ năng
Nghe-Nói-Đọc-Viết, nắm rõ mục tiêu ngoại ngữ, có ý trí tự học cao.
Ngoài
ra quá trình dạy học ngoại ngữ rất cần có điều kiện cơ sở vật chất và trang
thiết bị dạy học tốt. Số lượng không quá cao. Khoảng 20-25 em/lớp.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Sáng kiến
bước đầu đã đạt được hiệu quả trong dạy kĩ năng đọc cho học sinh. Nếu được áp
dụng tốt và đều đặn nó sẽ giúp học
sinh phát triển một cách toàn diện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết ở trong
trường tiểu học, đặc biệt là những vùng gặp nhiều khó khăn như ở vùng sâu vùng xa, nhà trường phải
hết sức tạo điều kiện cho học sinh và giáo viên về mọi trang thiết bị dạy và
học.
Để đạt được chất lượng cao trong quá trình dạy kĩ năng đọc môn Tiếng Anh thì người giáo viên cần năng động, giúp
học sinh chiếm lĩnh kiến thức của từng bài dạy. Ngoài ra giúp học sinh hăng say
tìm tòi học tập ngoại ngữ, chịu đọc, chịu giao tiếp ở mọi nơi, mọi lúc. Muốn
đạt được kết quả đó và phù hợp với từng đối tượng học sinh thì người giáo viên
cần chú ý các vấn đề sau:
- Nắm
vững đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học: Hiếu động, ham hiểu biết và tư duy còn
trực quan cụ thể. Từ đó có phương pháp dạy thích hợp theo từng bài học (nhất là
kĩ năng đọc).
- Nắm
vững mục tiêu của từng bài, yêu cầu cơ bản của kĩ năng đọc.
- Lựa
chọn phương pháp dạy đọc phù hợp với từng đối tượng học sinh, và đúng với chương
trình cơ bản của từng lớp. Cần có biện pháp giúp đỡ học sinh yếu, bồi dưỡng học
sinh giỏi.
- Tổ
chức tiết học sao cho mọi học sinh đều được hoạt động đọc một cách tích cực,
chủ động. Người giáo viên cần sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy đọc để thu
hút học sinh.
- Để
việc dạy kĩ năng đọc trong Tiếng Anh đảm bảo tính khoa học, tính chính xác,
tính sư phạm và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Giáo viên
phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tham khảo bạn bè. Từ đó rút ra cách dạy đọc phù hợp.
Nói chung, người giáo viên phải vận
dụng nhiều phương pháp dạy đọc phù hợp, nhiều hoạt động cho tiết giảng, tạo
hứng thú say mê đọc bài của học sinh, giúp học sinh tự tìm ra cho mình một phương
pháp đọc hữu hiệu nhất, nắm bắt nhanh, nhớ lâu để có thể sử dụng Tiếng Anh
trong nhiều tình huống, trong những ngữ cảnh khác nhau của cuộc sống.
2. Khuyến nghị.
*
Đối với nhà trường:
- Cần mua sắm trang thiết bị cho
công tác giảng dạy như đài cassette, băng, đĩa hình học Tiếng Anh, máy thu, máy
ghi âm, máy chiếu điện tử, …
-
Các phương tiện trợ giúp cho môn học Tiếng Anh như: tranh hình, mô hình có gắn mỗi bộ phận bằng Tiếng
Anh,…
- Cần để cho giáo viên Tiếng Anh có
một tâm lý thoải mái trong khi giảng dạy bộ môn này có vậy mới đạt hiệu quả
tốt...
*
Đối với Phòng giáo dục:
- Cần
quan tâm sâu sát hơn đến bộ môn Tiếng Anh, mời các chuyên viên có giầu kinh
nghiệm trong việc giảng dạy Tiếng Anh để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên ngoại ngữ trong thị xã.
- Tham
mưu với UBND thị xã Chí Linh cho loại hình ngoại ngữ bậc tiểu học vào biên chế,
giáo viên sẽ yên tâm công tác, tận tâm tận lực giúp cho học sinh địa bàn thị xã
ngày một phát triển với tri thức tốt nhất từng bước đi lên.
- Cần
có nhiều các chuyên đề hội thảo, hoạt động ngoại khoá ngoại ngữ trong thị xã;
Có các buổi giao lưu học hỏi giữa các trường; Tổ chức các hội thi ngoại ngữ
Nghe - Nói - Đọc - Viết cho học sinh (Sẽ giúp giáo viên và học sinh giữa các
trường có thêm kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau, bồi bổ kiến thức, trau dồi thường xuyên. Mục đích nâng
cao, phát triển trí tuệ, chất lượng dồi dào hơn,…).
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/