1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: ““Phương pháp giúp học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong tiết học
Luyện từ và câu ở lớp 3”.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng
kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (
Phân môn Luyện từ và câu )
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 9/2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1 Cơ sở lí luận
Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phương tiện thể hiện. Có
khả năng tác động đến đời sống tâm hồn con người. Trong đó biện pháp tu từ so
sánh góp một phần không nhỏ làm nên điều này.
Phép tu từ
so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ nhằm tạo nên một
hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn tác dụng làm cho lời nói rõ
ràng, cụ thể, sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn
là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Nhờ những
hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả những
ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được phổ biến trong
thơ ca, đặc biệt là thơ viết
cho thiếu nhi. So sánh tu từ giúp các em hiểu và cảm nhận được những bài thơ,
bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng
thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý Tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng
của Tiếng Việt cho học sinh. Đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh
lớp 3 nói riêng thì việc phát hiện và sử dụng phép so sánh để viết văn là khó
và trừu tượng với các em.
Xuất phát từ
mục đích cần đạt được của môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn luyện từ và câu
cùng với thực tế dạy học. Tôi đã trăn trở, nghiên cứu“Phương pháp giúp học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong tiết
học Luyện từ và câu ở lớp 3”.
5.2 Thực trạng
* Thuận lợi:
- Giáo viên có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm giảng dạy ở khối lớp 3
- Tài liệu phục vụ giảng dạy (sách tham
khảo, sách nghiệp vụ,…) khá đầy đủ.
- Hàng năm, nhà trường thường tổ chức các
buổi thao giảng chuyên để để đồng nghiệp trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn
nhau.
* Khó khăn:
- Lớp học đông, giáo viên không đủ thời gian
để giúp từng em có thể sửa lỗi một cách chi tiết và tỉ mỉ.
- Học sinh phần lớn không được gia đình chú
trọng việc nuôi dưỡng tâm hồn, bồi dưỡng, làm giàu vốn từ cho bản thân từ bé
dẫn đến vốn từ của các em rất hạn chế.
* Tính mới: Giúp học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện từ và câu nói riêng và trong Tiếng Việt lớp 3 nói chung góp phần
phát triển kỹ năng học Tiếng Việt cho học sinh .
Tìm được những sự vật,
hình ảnh được so sánh với nhau trong các câu văn, câu thơ, nêu được hình ảnh so
sánh mà mình thích và lý do vì sao thích hình ảnh đó. Từ đó nói, viết được câu
có hình ảnh so sánh
Chỉ ra được một biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả khi dạy học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện từ
và câu lớp 3.
5.3 Nội dung của sáng kiến :
5.3.1. Tìm hiểu thực trạng việc dạy học sinh phát
hiện và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3.
Về
chương trình và sách giáo khoa, sách giáo viên:
Trong sách
giáo khoa Tiếng Việt 3 nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng, phép tu
từ so sánh không có bài dạy riêng về lý thuyết mà chỉ có những bài tập để học
sinh vận dụng thực hành về từ và câu khá phong phú và đa dạng về kiểu loại nhằm
giúp học sinh nhận diện các kiến thức đơn giản, chứ không có sự tổng thể về mặt
lý thuyết. Trong khi đó, ở sách giáo viên hầu như chỉ đưa ra đáp án bài tập,
chứ chưa hướng dẫn cách hiểu, cách làm.
* Các dạng
bài tập trong nội dung dạy học so sánh: Mỗi tuần gồm có 9 tiết Tiếng Việt,
trong đó chỉ có một tiết dành cho phân môn Luyện từ và câu.
Các mục tiêu
về “so sánh” được thực hiện trong 10 tiết ở tuần 1, 3, 5, 9, 10, 15, 18 của học
sinh kỳ 1 với 22 bài tập khác nhau. Nội dung “so sánh” được dạy kèm với các nội
dung khác. Có bài chỉ dạy một nội dung về so sánh (bài 5) nhiều bài kết hợp với
các nội dung khác như:
So sánh được
dạy cùng nội dung ôn kiểu câu: “ Ai là gì?” trong 4 tiết; “Ai làm là gì?” trong
2 tiết; Danh từ chỉ (sự vật) trong 4 tiết.
* Bài tập nhận
diện phân tích: Đây là dạng bài tập yêu cầu học sinh dựa trên ngữ liệu đã cho
sẵn, học sinh nhận biết được “ phép so sánh”, các sự vật, sự việc được so sánh
các từ ngữ, hình ảnh được sử dụng để so sánh. Đồng thời học sinh phải chỉ ra
được sự giống nhau giữa các sự vật, sự việc được “so sánh” với nhau, nhằm đạt
được mục tiêu của phép tu từ so sánh.
* Bài tập cấu trúc: Là dạng bài tập yêu cầu học sinh tạo
lập các hình ảnh, các câu văn, thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh dựa
trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học sinh phải tự tạo lập.
* Bài tập sáng tạo: Có 1 bài: Quan sát
từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu có hình ảnh so sánh các sự
vật trong tranh: Bài 3/ 126- Tuần 15.
Hệ thống ngữ liệu được sử dụng trong nội dung dạy học so
sánh phong phú và tiêu biểu. Trong số 24 bài tập có: 10 bài sử dụng ngữ liệu
văn xuôi; 3 bài sử dụng cả thơ và văn xuôi; 10 bài sử dụng thơ; 1 bài sử dụng
kênh hình.
Về phía giáo viên:
Do đặc trưng của
phân môn Luyện từ và câu nói chung và việc dạy học giúp các em phát hiện và sử
dụng phép so sánh nói riêng như đã nói ở trên .Dẫn đến giáo viên còn lúng túng
trong việc lựa chọn phương pháp dạy học nhằm kích thích được sự hứng thú, say
mê học tập của học sinh.Tạo cho các em cơ hội học tập, chia sẻ và hợp tác để
nắm chắc kiến thức. Bên cạnh đó việc đọc tài liệu tham khảo, mở rộng cho vốn
hiểu biết của giáo viên thời gian chưa có nhiều ,cho nên giáo viên còn khó
khăn, lúng túng trong việc tìm kiếm các tài liệu tham khảo để vận dụng vào dạy
học có hiệu quả.
Về phía học sinh:
Phép tu từ so sánh
là nội dung dạy học mới được đưa vào chương trình lớp 3. Đây là một nội dung
rất khó, mang tính trừu tượng. Trong khi đó tư duy nhận thức của học sinh lớp 3
là tư duy trực quan cụ thể. Các em có thể nhận diện (tìm) những sự vật được so
sánh, hình ảnh so sánh, các vế so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu
( đoạn văn), thơ hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung. Các
em sẽ gặp khó khăn khi vận dụng đặt câu (nói, viết) có dùng phép so sánh vì vốn
từ còn ít chưa có thói quen và biết cách quan sát, nhận xét sự vật, hiện tượng
để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy câu văn của các em chỉ mang những
nội dung thông báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả.Với mô hình trường học mới
việc các em tự học, cùng hợp tác chia sẻ, tìm kiếm thông tin và sự hỗ trợ của
bạn của thầy chưa mạnh dạn, chưa tự tin vì thế càng khó khăn hơn cho HS lớp 3.
5.3.2. Một biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi
dạy học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện từ và câu
lớp 3
3.2.1.
Để giảng dạy tốt về phép so sánh, giáo viên cần nắm được khái niệm cơ bản sau:
- So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc có nét
tương đồng, có dấu hiệu chung nào đó nhằm tăng sức gợi cảm hoặc diễn tả một
cách hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự việc.
- Trong thực tế có 2 loại so sánh là so sánh tu từ và so
sánh lý luận. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh.
Ví dụ:
Ông trăng tròn sáng tỏ.
Soi rõ sân nhà em.
Trăng khuya sáng hơn đèn.
Ôi Ông trăng sáng tỏ.
(
Trần Đăng Khoa)
- Mục đích của việc so sánh tu từ nhằm diễn tả hình ảnh,
đặc điểm của sự vật, sự việc một cách sinh động và gợi cảm.
- So sánh lý luận nhằm mục đích xác lập được sự tương
đương giữa 2 đối tượng.
Ví dụ: Hà My cũng
học giỏi như Lê Hoàng.
Trong quá trình dạy phép tu từ so sánh, giáo viên cần
giúp học sinh phân biệt rõ ràng 2 loại so sánh trên để tránh sự nhầm lẫn, khi
nhận biết cũng như tạo lập các hình ảnh tu từ trong văn nói cũng như văn viết.
- So sánh có 2 dạng đó là so sánh đồng loại và so sánh
khác loại. So sánh đồng loại là so sánh giữa người với người, sự vật với sự
vật.
Ví dụ:
Trăm cô gái tựa tiên sa
Tóc bà trắng như cước
So sánh khác loài là so sánh giữa vật với người, so sánh
cái cụ thể với cái trừu tượng.
Ví dụ:
Công cha như núi thái sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có rất nhiều từ ngữ được sử dụng làm yếu tố thể hiện quan
hệ so sánh: Như, tựa như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu, giống, giống như, chẳng
khác gì,……
Có 2 kiểu so sánh là so sánh ngang bằng và so sánh không
ngang bằng (hay còn gọi là so sánh hơn kém).
So sánh ngang bằng dùng các từ so sánh: như, là, tựa, như
thể,…….
Ví dụ:
Nhìn từ xa những mảng
tường vàng, ngói đỏ như những cành hoa lấp ló trong cây.
Cũng có khi so sánh ngang bằng không dùng từ so sánh mà
dùng dấu câu như dấu hai chấm, dấu gạch ngang.
Ví dụ:
Đồng ruộng: vựa thóc
thơm.
(
Em yêu Tổ quốc Việt Nam- Phạm Hổ)
Hay: Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao.
(
Trần Đăng Khoa)
So sánh không ngang bằng dùng các từ so sánh: hơn, kém,
chẳng bằng ….
Ví dụ:
Những ngôi sao thức ngoài kia.
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
(
Trần Quốc Minh)
3.2.2. Sử dụng đồ dùng
hợp lý:
Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung,
trong dạy học phát hiện và sử dụng
phép so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng nguyên
tắc trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết nhưng phải hợp lý và
tránh lạm dụng. Khi lên lớp sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài tập cá nhân
hoặc theo nhóm, tôi đã dùng giấy khổ to, bảng giấy để yêu cầu học sinh ghi lại
nội dung bài tập. Dùng bảng giấy để hoạt động cả lớp cùng chia sẻ, cùng tìm ra
cái đúng, cái sai để hiểu bài hơn. Đặc biệt ngày nay, công nghệ thông tin đang
phát triển, chúng ta có thể áp dụng trong dạy phát hiện và sử dụng phép so sánh bằng cách đưa
ra các hình ảnh động để học sinh cảm nhận rõ sự giống nhau và khác nhau giữa sự
vật với sự vật. Từ đó, các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật một cách chính xác,
chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên cần phải biết
sử dụng khéo léo đối với từng bài tập không quá lạm dụng quá nhiều hình ảnh.
Quan trọng là đưa hình ảnh ra lúc nào cho hợp lý đừng cắt đứt dòng suy nghĩ của
học sinh mà lại tạo hứng thú cho các em khi học luyện từ và câu.
Ngoài ra, trong quá trình dạy học tôi đã thiết kế và sử
dụng phiếu học tập nhằm giúp các em được hoạt động theo nhóm theo yêu cầu của
phiếu bài tập để các em tìm kiếm thông tin và làm bài tập để chủ động nắm chắc
bài học.Đồng thời cũng tạo tính tự giác, tự rèn luyện và trong các giờ Luyện từ
và câu, ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học khác nhau để giờ học thêm sinh
động, hấp dẫn, không tẻ nhạt, phối hợp sử dụng phù hợp các đồ dùng dạy học một
cách linh hoạt. Có như vậy giờ học mới đạt được hiệu quả như mong muốn.
3.2.3. Lựa chọn phương
pháp dạy học sinh phù hợp
Có nhiều phương pháp để dạy Luyện từ và câu lớp 3. Tuy
nhiên, khi dạy nội dung so sánh ta thường hay sử dụng phương pháp cơ bản: Cho
học sinh làm bài tập thực hành, từ bài tập để các em rút ra được nội dung bài
học. Việc bố trí học sinh ngồi theo nhóm đối tượng là rất quan trọng. Tùy theo
từng đối tượng để giáo viên quan sát, giúp đỡ khi các em tìm kiếm sự hỗ trợ từ
phía bạn và thầy. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt lớp 3, các câu văn, thơ
được trích dẫn đều thuộc loại so sánh tu từ ( so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả sự
vật đó có hình ảnh một cách sinh động và gợi tả. Đối với học sinh lớp 3 việc
liên hệ thực tế và phép liên tưởng của các em còn rất hạn chế dẫn đến việc dạy
phép tu từ so sánh sẽ rất khó thành công nếu không có sự hổ trợ của thầy.Trực
quan cũng là một phương pháp tháo gỡ cho học sinh khi các em gặp khó khăn trong
việc liên tưởng.
Ví dụ:
Trong thực tế cuộc sống có em vẫn chưa hề nhìn thấy cánh
diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng (dấu hỏi) với “Vành tai nhỏ” hoặc “Những
chùm dừa” với hình ảnh “ Đàn lợn con” nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan
tranh hoặc hình ảnh động về cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả….. sẽ góp
phần đắc lực, giúp các em dễ dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó thật chính
xác, sinh động và gợi tả.
Tuy nhiên, có
những hình ảnh so sánh không thể dùng hình ảnh trực quan để giảng giải vì nó thuộc kiểu so sánh khác
loại ( so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng).
Ví dụ:
Công cha nghĩa mẹ như núi cao, biển rộng.
Với những kiểu so sánh như thế nếu học sinh tìm kiếm sự
giúp đỡ giáo viên cần giúp học sinh tìm đúng từ ngữ dùng để so sánh, các hình
ảnh dùng để so sánh. Nếu học sinh vần chưa hiểu giáo viên cần mô tả để học sinh
hình dung tưởng tượng ra đặc điểm giống nhau giữa cái cụ thể và trừu tượng ấy
(ý nói công ơn sinh thành, nuôi dưỡng dạy bảo của cha giành cho con như trời
cao, biển rộng, mà trời thì rất cao chẳng ai với tới còn biển rất rộng, không
bao giờ cạn nước,...).Từ đó các em hiểu bài hơn.
Hoặc:
Lời ru có gió mùa thu
Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về
Những
ngôi sao thức ngoài kia
Cũng chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Hình ảnh so sánh mẹ là ngọn gió, ngọn gió này là ngọn gió mà mẹ đã tạo ra nó không phải
là ngọn gió trời. Ngọn gió ngập tràn tình yêu thương của mẹ đã làm cho con được
ngủ ngon lành với những giấc mơ đẹp khi con còn nhỏ, truyền sức mạnh cho con
thêm vững tâm nghị lực khi con lớn lên. luôn luôn ở bên con chia sẻ, động viên
khi con gặp khó khăn để con cảm thấy sung sướng và hạnh phúc suốt cả cuộc đời.
Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới
phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ và câu. Để học sinh tự thực hành luyện tập
làm các bài tập, để làm quen khám phá kiến thức.
Ví dụ: Bài Luyện từ và câu. Tuần 3/24
Sau khi học sinh luyện tập, tìm được các hình ảnh so
sánh trong những khổ thơ sau:
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao.
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
b) Em yêu nhà em.
Hàng xoan trước ngõ.
Hoa xao xuyến nở.
Như mây từng chùm.
Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận thấy trong mỗi
hình ảnh, so sánh các sự vật được so
sánh với nhau đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) chẳng hạn: Ở ví
dụ trên nét tương đồng là đôi mắt hiền từ trong sáng của Bác và ánh sáng của vì
sao đã soi rỏ bóng đêm. Hay là những chùm hoa xoan khi nở với màu tím dịu dàng khe
khẽ lay động và những áng mây nhẹ trôi trên bầu trời xanh thẳm.Đó chính là
những nét tương đồng mà HS cần khám phá khi sử dụng phép so sánh.
Ở bài tập 2 sau khi các em tìm được các từ chỉ sự vật
được so sánh trong những câu trên: tựa, là, như (có thể thay bằng những từ
khác: tựa như, giống như, y như).
Giáo viên sau khi giúp HS tìm được các hình ảnh so sánh
cần có những câu hỏi gợi ý để học sinh tiếp tục khám phá và hiểu bài hơn như:
Trong mỗi hình ảnh so sánh trên thường có mấy sự vật được
so sánh với nhau?
Các sự vật được so sánh có những đặc điểm như thế nào với
nhau? (ngang bằng, giống nhau) ta thường dùng những từ chỉ sự so sánh nào? (
là, tựa, như, bằng,...).
Trong mỗi giờ học, giáo viên cần lựa chọn các hình thức
tổ chức dạy học phù hợp, nhằm kích thích được tính chủ động, sáng tạo và gây
hứng thú học tập cho học sinh, như dạy học cá nhân, học theo nhóm, học với cả
lớp để tránh sự nhàm chán của học sinh.
Ví dụ: Bài 3/126 Tuần 15.
Quan sát các cặp sự vật trong tranh viết ra những câu văn
có hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh. Tôi đã yêu cầu:
- Học sinh thảo luận nhóm đôi để tìm ra đặc điểm giống
nhau của từng cặp sự vật. Sau khi học sinh thảo luận xong, các em tự hoàn thành
bài vào vở của mình, các nhóm báo cáo kết quả thảo luận. Nếu chưa hoàn thiện
giáo viên có thể bổ sung thêm
Tuy nhiên, tùy theo nội
dung bài dạy, đối tượng học sinh, điều kiện dạy học mà giáo viên có thể
sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp để giờ
học sinh động và đạt hiệu quả cao nhất.
3.2.4. Đa dạng hóa hệ
thống bài tập:
Khi xây dựng hệ thống bài tập, giáo viên cần phải chú ý
đến tính mục tiêu của bài tập. Căn cứ vào mục tiêu bài học, giáo viên có thể
xây dựng một số bài tập như sau:
Bài tập nhận diện.
Ví dụ:
Gạch một gạch dưới
sự vật được so sánh, 2 gạch dưới sự vật dùng để so sánh:
Lá lựu dày và nhỏ lấp
lánh như thủy tinh.
Sau cơn mưa, cảnh vật
như thêm một sức sống mới.
+ Điền các bộ phận thích hợp của các phép so sánh dưới
vào sơ đồ.
a)
Chiếc xà lan
xám giống như con bọ đất.
b)
Những quả dưa
hấu như những đàn heo con nằm sưởi nắng.
Sự vật 1 |
Đặc điểm |
Từ so sánh sánh |
Sự vật 2 |
Chiếc xà lan |
xám |
giống như |
con bọ đất |
+ Đánh dấu x
vào ô trống trước những câu có sử dụng phép so sánh:
Bầu
trời cao vút, trập trùng những đám mây trắng.
Hàng
ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi.
- Bài tập cấu
trúc:
+ Bài tập điền
từ ngữ ( cho trước hoặc không cho trước).
Ví dụ:
Điền từ so sánh ( là, tựa, như) vào chổ trống trong
mỗi câu cho phù hợp:
Đêm ấy trời tối
đen ………. như mực.
Trăm cô gái đẹp
…………..tiên sa.
Ví dụ:
Điền tiếp từ ngữ chỉ sự vật, để mỗi dòng sau thành
câu có hình ảnh so sánh:
Tiếng suối ngân
nga như……………………
Mặt trăng tròn
vành vạnh như………………
- Bài tập tạo cách nói so sánh trên ngữ liệu cho
trước.
Ví dụ:
Hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại những
câu văn dưới đây sao cho sinh động:
Tán Bàng che
bóng mát.
Tóc Bà bạc
trắng.
- Bài tập cảm thụ:
Bước đầu học sinh làm quen việc cảm thụ cái hay,
cái đẹp của biện pháp tu từ so sánh qua việc diễn đạt những cảm nhận, rung động
của bản thân khi đọc đoạn văn, khổ thơ hay.
Ví dụ:
Bông cúc là nắng làm hoa
Bướm vàng là nắng bay xa, lượn vòng
Lúa chín là nắng của đồng
Trái thị, trái hồng là nắng của cây.
(Lê Hồng Thiện)
a. Cách cảm nhận về màu sắc
thiên nhiên của tác giả ở đoạn thơ trên có gì độc đáo?
b.
Qua đó, em có suy nghĩ gì về tình cảm tác giả dành cho thiên nhiên?
c.
Viết đoạn văn ngắn bày tỏ cảm nghĩ của em về cái hay, cái đẹp ở đoạn thơ trên
- Bài tập vận dụng sáng tạo:
Ví dụ 1:
Quan sát bức tranh và sử dụng biện pháp so sánh để nói
về bức tranh đó ( từ 4 đến 5 câu).
Ví dụ 2:
Hãy viết một đoạn văn ngắn nói về một bạn học sinh
trong lớp trong đó sử dụng biện pháp so sánh để câu văn thêm sinh động.
Đây là dạng bài khó chỉ nên dùng cho đối tượng học
sinh khá, giỏi.
Tóm
lại: Dạy Luyện từ và câu nói chung, dạy về so sánh ( các biện pháp tu từ khác
nói riêng) là để học sinh hiểu biết cách dùng từ, đặt câu chính xác, biết nói,
viết những câu văn hay, đúng ngữ pháp. Qua đó, giúp các em hiểu thêm và yêu
Tiếng Việt, thấy được sự phong phú của tiếng mẹ đẻ, từ đó các em sẽ yêu thích
học Tiếng Việt hơn. Để đạt được điều đó, giáo viên cần linh hoạt khi vận dụng
phương pháp phối hợp với dạy các phân môn khác của Tiếng Việt như Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn,…
5.4. Khả năng áp dụng của Sáng kiến: Với Sáng kiến “Phương
pháp giúp học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong tiết học Luyện từ và
câu ở lớp 3”., tôi đó áp dụng tại Trường Tiểu học Võ Thị Sáu và thu được
kết quả rất khả quan. Sáng kiến này cũng có thể áp dụng cho tất cả các lớp 3 ở các
trường Tiểu học để góp phần nâng cao chất lượng học sinh trong học tập phân môn
này .
6. Những thông tin cần được
bảo mật : không có
7. Các điều kiện cần thiết
để áp dụng sáng kiến
Để rèn luyện cho các em
có được một số kỹ năng phát hiện và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện
từ và câu lớp 3 làm tiền đề để học tốt các lớp trên người giáo viên cần:
Một là : Giáo viên phải tích
cực trong đầu tư nghiên cứu sách giáo khoa và các sách tham khảo, chương trình
môn học để tìm được cấu trúc các bài dạy, yêu cầu cần đạt để chủ động lựa chọn
phương pháp dạy phù hợp cho từng bài.
Hai là: Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.Trọng tâm
là hướng vào học sinh để các em tự khám phá, tự trãi nghiệm, tự tìm tòi và tìm
kiếm sự giúp đỡ của bạn, của thầy khi cần thiết. Thông qua bài tập thực hành để
học sinh nắm được kiến thức, hiểu và vận dụng tốt .Giáo viên cần đa dạng hóa
các hình thức tổ chức dạy học.
Ba là: Từ tình hình, đặc điểm của học sinh, giáo viên
phân loại đối tượng, thiết kế những nội dung, câu hỏi phù hợp với từng nhóm đối
tượng, có như vậy mới phát huy vai trò tự học của học sinh và đưa lại hiệu quả
dạy học cao.
Trên đây là một số việc làm của bản thân tôi, đã
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu với nội dung giúp
học sinh phát hiện và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp
3. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu và viết sáng kiến này, chắc chắn không
thể tránh khỏi những hạn chế. Rất mong được sự đóng góp trao đổi ý kiến của các
bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến
có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
8.1
Kết quả
Sau khi thực hiện các biện pháp, nhằm nâng cao hiệu
quả khi dạy học sinh nhận biết và sử dụng phép so sánh trong phân môn Luyện từ
và câu; tôi thấy học sinh của lớp tôi hiểu bài, làm bài khá tốt, các em học
sinh khá, giỏi đã viết được câu văn có hình ảnh so sánh chính xác ,hay và sinh
động. Trong các bài Tập làm văn học sinh đã biết vận dụng để viết câu có hình ảnh
so sánh. Qua đợt khảo sát cuối kỳ 1 về môn Tiếng Việt, lớp tôi thu được kết quả
khá cao:
Tổng số học sinh: 37 em;
Điểm 9- 10: 14
em; Điểm 7- 8: 20 em
Điểm 5- 6: 3 ; Điểm dưới 5: 0
Từ thực tế dạy học bản thân tôi cũng rút ra được
những bài học kinh nghiệm để giúp cho bản thân tự hoàn thiện hơn khi dạy luyện
từ và câu cho học sinh lớp 3. Đó là:
8.2 Bài học kinh nghiệm
- Việc tạo hứng
thú học tập, yêu thích môn học Luyện từ và câu, và rèn kĩ năng học
tốt môn này là một việc tất cả giáo viên khối 2+3 cần phải
kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay
trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm,
không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên
không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
- Giáo viên cần
thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng, đọc sách báo, truy cập Internet
để nắm vững, để tìm hiểu thêm về môn Luyện từ và câu, các phương pháp dạy
học để rút kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân từ đó có những kinh nghiệm hay áp
dụng tốt cho việc dạy phân môn Luyện từ và câu nói riêng và các môn
học khác nói chung.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/