1. Là tác giả đề nghị xét công nhận
sáng kiến: “Phương
pháp rèn kĩ năng viết văn ở phân môn Tập Vàm Văn lớp 5”
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục ( Tiếng Việt lớp 5 )
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần
đầu hoặc áp dụng thử: Áp dụng chính thức lần đầu tiên từ 18/5/2020 cho đến nay.
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
-
Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến mà tôi sẽ chia sẻ sau đây là kinh
nghiệm mà tôi đúc rút được từ thực tế giảng dạy. Có thể đề tài tôi đưa ra là không
mới nhưng tính mới, tính sáng tạo của nó thể hiện ở chỗ cách thức thực hiện,
các giải pháp giải quyết vấn đề mà tôi đưa ra. Với sáng kiến này, tôi có
thể dễ dàng làm cho học sinh bỏ quên ý thức ngại học văn hay ngại viết văn
mà thay vào đó là sự tự tin, hứng thú và có cảm hứng khi học tập làm văn.
- Khả năng áp dụng của sáng kiến là cao
vì thực tế nó không đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải dày công nghiên
cứu và nắm bắt. Vì những giải pháp và cách thức thực hiện tôi đưa ra đều
dễ dàng thực hiện và rất gũi với cả giáo viên và học sinh. Với sáng kiến này,
chỉ đòi hỏi ở người giáo viên sự tận tụy, lòng yêu nghề, yêu trẻ, sự linh hoạt
trong quá trình giảng dạy và áp dụng các
phương pháp dạy học mà thôi.
- Mặc
dù đề tài tôi đưa ra có thể là không mới nhưng giá trị và hiệu quả của đề
tài, với tôi là không nhỏ. Nó không chỉ giúp cho người giáo viên chủ động trong
việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức và hướng dẫn học sinh học tốt phân
môn Tập làm văn nói chung, nhất là thể loại văn miêu tả nói riêng mà nó
còn giúp cho học sinh thêm yêu thích môn học tập làm văn hơn, các em không
còn ngại mỗi khi phải viết văn nữa khi mà các kĩ năng viết văn của các em
đã thành thạo.
5.2. Nội dung sáng kiến:
Phân môn Tập làm văn rất quan
trọng trong chương trình dạy học ở Tiểu học, nó không chỉ giúp cho các em hình
thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho các em khả năng giao
tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho các em những
phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động.
Qua
nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy rằng đa số các em biết làm một bài văn
hoàn chỉnh nhưng trong quá trình làm bài văn các em chưa biết dùng biện pháp tu
từ so sánh, nhân hóa cả biện pháp liên tưởng vào các bài văn. Trong cách làm
bài của các em chưa sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn mặc dù kiến thức này
đã được học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn
chưa có sự liên kết chặt chẽ, không theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy,
bài văn của các em thường miêu tả lung tung, không theo một thể thống nhất. Lúc
này đây các em muốn đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em
niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu,
những nhân tài có tâm hồn văn học.
5.2.1. Thuận lợi
-
Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 5 được biên soạn theo các quan điểm dạy giao
tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động của học sinh.
-
Sách giáo viên không trình bày kiến thức bằng những kết quả cho sẵn mà xây dựng
hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức.
-
Giáo viên được dự giờ thăm lớp và tham dự các buổi hội thảo chuyên đề, hội
giảng của tổ chuyên môn, của trường, của cụm trường để rút ra những kinh
nghiệm cho bản thân.
-
Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với các em nên tìm hiểu
và nắm bắt được những khó khăn, sai sót của các em khi làm bài văn miêu tả.
-
Đa số các em có khả năng tưởng tượng phong phú, biết nhìn nhận những hình ảnh
vào tri thức và nhớ có hệ thống, các em đã biết sử dụng dùng từ đặt câu, viết
như thế nào cho đầy đủ ý, các em lĩnh hội nhanh và biết sử dụng các biện pháp
tu từ để đưa vào bài tập làm văn của mình.
-
Hơn nữa các em còn được học 10 buổi/ tuần nên kiến thức được nắm kĩ hơn.
-
Các em càng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các
bài văn, đọan văn điển hình.
5.2.2. Khó khăn
5.2.2.1.
Về phía giáo viên
-
Một số giáo viên dạy còn áp đặt, chỉ hướng dẫn học sinh theo yêu cầu của sách
mà chưa chú ý đến việc khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn.
-
Một số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc
luyện tập ở nhà, chưa hướng dẫn cho các em tìm hiểu thêm sách, báo...
-
Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng kiểm tra một số
giáo viên cho học sinh chép bài mẫu.
-
Những tiết trả bài viết giáo viên trả bài cho các em và nêu một số lỗi, chữa
bài qua loa, chưa quan tâm nhiều đến sửa câu, cách dùng từ trong câu,
dùng
từ sai của học sinh.
5.2.2.2. Về phía học sinh
-
Một số học sinh vẫn chưa có thói quen chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp,
thậm chí khi cần thiết chỉ chép lại bài của bạn.
- Năng lực cảm thụ văn
bản cũng như những kĩ năng phân tích đề, làm bài văn còn nhiều hạn chế. Không
ít học sinh tỏ ra thờ ơ, ít có nhu cầu được tự bộc lộ cảm nhận của mình qua một
tiết học hay một bài làm.
- Kĩ
năng làm văn của các em còn hạn chế như: chưa biết quan sát, miêu tả còn chung
chung chưa thể hiện được đặc điểm nổi bật của từng đối tượng mình định tả ;
chưa biết sử dụng những từ gợi tả và các biện pháp nghệ thuật trong bài văn ;
chưa biết thể hiện cảm xúc của mình khi miêu tả.
- Vốn
từ ngữ của các em còn hạn chế. Khi miêu tả, các em chưa biết chọn lọc những nét
tiêu biểu để tả nên đã biến bài văn miêu tả thành bài kể lan man.
- Các em còn thiếu sự trải nghiệm thực tế.
5.2.2.3. Các biện pháp
thực hiện
a) Bồi dưỡng vốn sống:
Khi thấy học sinh ngồi
trước một đề văn khoảng 15 – 20 phút chưa viết được, tôi hiểu rằng nguyên nhân
đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là do các em đã không tạo được một quan
hệ thân thiết giữa mình với đối tượng miêu tả, kể, tranh luận,… nghĩa là các em
không có nội dung, không có gì để nói, để viết về cái đó. Nguyên nhân của tình
trạng trên là việc thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn
sống cho các em.
Trước
hết là vốn sống trực tiếp, tôi cho các em quan sát, trải nghiệm những gì sẽ
phải viết. Ví dụ tôi hướng dẫn các em quan sát con đường từ nhà đến trường hoặc
một dòng sông hoặc một cánh đồng trước khi yêu cầu tả nó hoặc tôi tham mưu với
lãnh đạo nhà trường tổ chức cho các em tham quan một cảnh đẹp của địa phương
trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham quan. Tất nhiên, tôi cần làm
cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng phong phú của các em. Nhưng
trí tưởng tượng dù bay bổng đến mấy vẫn phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống
thực. Khi các em tham quan hoặc quan sát, tôi đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo
nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm
quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan
sát được, những gì đã được tham quan.
Ngoài
ra, trong đời sống thường ngày các em phải tiếp xúc với nhiều người khác nhau
và trong từng trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ những “vai”
khác nhau. Chính “vai”giao
tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn sống lựa chọn chi tiết để nói, chọn ngôn
từ để thể hiện.
b) Bồi dưỡng cảm thụ văn
học:
Cảm thụ
văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các em. Trước hết tôi tạo điều
kiện để các em tiếp xúc với tác phẩm, tôn trọng những suy nghĩ cảm xúc thực,
thơ ngây của các em và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Sau đó tôi trang bị
cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, các đặc trưng
nghệ thuật, một số biện pháp tu từ, … Một trong những biện pháp có hiệu quả để
bồi dưỡng cảm thụ văn học là rèn luyện cách đọc diễn cảm có sáng tạo. Nó giúp
các em nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em khám phá ra cái
hay, cái đẹp của văn chương.
Ví dụ: Rèn kĩ năng cho học sinh cách nghe để cảm thụ cái hay của
bài văn “Hoàng hôn trên sông Hương” (Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1,
trang 11)
Trước
tiên tôi đọc bài văn thật hay.
- Cho
một vài em đọc thật tốt đọc lại toàn bộ bài văn.
- Tôi
lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để khai thác cái
hay của bài.
* Tìm phần mở bài:
Đoạn 1:
Từ “Cuối buổi chiều, ... yên tĩnh
này”
- Câu mở bài diễn tả nhận xét
gì của tác giả
?
- Tác quan sát cảnh vật ở vị
trí nào
?
- Tác giả quan sát cảnh vật và tả vào thời điểm nào trong ngày ?
- Từ đó
tôi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị
trí quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu
được nơi mà mình định tả vào thời điểm nào đó trong ngày.
* Tìm phần thân bài:
- Xác
định trong phần thân bài gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả những gì?
- Có 2
đoạn: Từ “Mùa thu,….chấm dứt”
+ Đoạn
2: Sự thay đổi màu sắc của sông Hương từ lúc bắt đầu hoàng hôn đến lúc
tối hẳn.
+ Đoạn
3: Tả hoạt động của con người bên bờ sông, trên mặt sông từ lúc hoàng hôn đến
lúc thành phố lên đèn.
- Xác định câu mở đoạn của từng
đoạn.
Cho học sinh tìm hiểu
sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn, sự chuyển ý của các câu, quá trình
miêu tả về không gian, thời gian trong bài văn.
* Tìm phần kết bài: “Huế thức dậy trong một nhịp
chuyển động mới, đi vào cuộc sống ban đầu của nó” : Sự thức dậy của Huế sau hoàng hôn. Tôi kết luận: Kết thúc bài vừa tả cảm xúc của mình vừa
gây ra truyền cảm cho người đọc và kết bài theo kiểu mở rộng khiến người đọc
cần phải suy nghĩ về cảnh mình tả, nơi mình tả.
Để
làm được bài văn hay các em phải có năng
lực cảm thụ văn học, kiên trì rèn luyện từng bước, nhất định các em sẽ viết
được những đoạn văn hay, bài văn hay để phát hiện biết bao điều đáng quý trong
văn học và trong cuộc sống của chúng ta.
c) Cung
cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề
Chương
trình Tiếng Việt có các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện,
Tập làm văn làm cơ sở để các em học tốt phân môn Tập làm văn. Tuy nhiên nội
dung sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 thường không đáp ứng được khi dạy một thể
loại Tập làm văn thì nội dung của phân môn Tập đọc và từ ngữ tương ứng nhằm
cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ để học thể loại này là rất ít. Tất nhiên chúng
ta đều biết rằng vốn từ ngữ của các em được tích luỹ từ lứa tuổi nhà trẻ, mẫu
giáo và cả suốt những năm đầu ở bậc Tiểu học. Nhưng vốn từ ấy thực sự vẫn chưa
đủ để các em làm tốt bài Tập làm văn nếu không được cung cấp thêm các từ ngữ
theo chủ đề. Chính vì vậy để hỗ trợ các em, tôi đã soạn thêm vốn từ ngữ giúp
các em tham khảo để làm văn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài
tập làm văn: Viết một đoạn miêu tả cảnh sông nước (Tiếng Việt 5 Tập 1, trang
74).
Tôi
giúp các em hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ đề sông nước.
Chẳng hạn: lăn tăn, êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm,
lung linh, ầm ầm, ì ầm, rì rào, ào ào, ì oạp, oàm oạp, lao xao, thì thầm, lửng
lơ, trườn lên, bò lên, cuồn cuộn, trào dâng, ào ạt, cuộn trào, điên cuồng, dữ
dội, khủng khiếp, dềnh, đập nhẹ lên,...
Ví dụ 2: Từ thường dùng khi làm bài văn tả người:
TẢ HÌNH DÁNG
- Tả
mái tóc: đen nhánh, đen mượt, đen mướt, nâu đen, hoa râm, muối tiêu, bạc phơ,
mượt mà, mượt như tơ, óng ả, óng mượt, lơ thơ, xơ xác, cứng như rễ tre, dày
dặn,…
- Tả
vóc người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhã, tầm thước, mảnh khảnh, dong dỏng,
thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, cân
đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm, còm
nhom, thanh tú,…
- Tả
khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám nắng, xanh xao,
tái mét, không còn chút máu, vuông vắn, vuông chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô
tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu xí, rỗ như tổ ong, tươi
tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ nghệch khờ khạo, lầm
lì, là lạ, thơ ngây, nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, hiền hậu, dễ thương, phúc
hậu,…
- Tả
làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà,
mịn màng, nứt nẻ, có nhiều vết xẹo, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh lét, hồng
hào, đỏ thắm, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen, đen đủi,…
- Tả
đôi mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ
ngầu, nâu đen, mù loà, lồi, tròn vo, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt
bồ câu, hai mí, linh hoạt, soi mói, láu lỉnh, sáng long lanh, trầm tư, trầm
tĩnh, trầm lặng, hiền hậu, mơ màng, tinh ranh, lanh lợi,…
- Tả
cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ màng, chăm chú,
ngơ ngác, hằn học,…
TẢ TÍNH TÌNH
- Diễn
tả tính cách: Nóng nảy, khoác lác, ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt, tham lam, ích
kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói, nhã
nhặn, bạo dạn, vị tha, hời hợt, lười nhác, lì lợm, trầm tính, đứng đắn, thật
thà, ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm nghị, dè dặt, siêng năng, thận
trọng, lỗ mãng,…
- Diễn
tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả hê, thoả thích, sảng khoái, khoái
chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí,…
d) Khai thác sự sáng tạo, suy nghĩ trên cơ sở quan sát bằng hệ thống câu
hỏi mở
Ví dụ : Miêu tả ngôi trường (Tiếng
Việt 5 Tập 1, trang 43).
Một số câu hỏi khai thác ý đòi hỏi
sự quan sát: (Phần thân bài)
- Tả
khu vực sân trường: Sân trường rộng hay hẹp ? Cây cối trồng trên sân đã cao lớn
chưa ? Có tán toả bóng mát cho các em trong giờ chơi chưa hay chỉ là khu đất nắng
chói chang ?
- Tả
chậu kiễng: chậu kiễng được trồng ở trước các lớp học với nhiều loài hoa màu
sắc rực rỡ, nhiều cây xanh hay chỉ toàn những cây cỏ dại ?
- Lớp
học: Lớp học có mấy phòng ? Có thoáng mát, rộng rãi, có đèn, điện, quạt ? Cửa
ra vào, cửa sổ như thế nào ? Bàn ghế được xếp như thế nào ?
- Có
đầy đủ phòng chức năng không ? Được trang trí như thế nào ?
- Tả
bảng thông báo: Bảng thông báo thường xuyên có những thông tin mới hay thường
ngày chỉ là một mặt trắng xóa, im lìm ?
- Tả
các bạn đang làm gì ? Thầy cô đang làm gì ?
e) Rèn luyện kĩ năng
nói, kĩ năng viết
* Rèn luyện kĩ năng nói
Cùng
với kĩ năng nghe, đọc, viết phân môn Tập làm văn ở lớp 5 dạy cho các em kĩ năng
nói trong các giờ học văn kể chuyện, miêu tả và một số loại văn khác. Thông qua
các bài tập thực hành luyện nói theo đề tài hoặc tình huống cho trước, tôi
hướng dẫn các em thực hiện tốt yêu cầu sau:
- Xác
định rõ nội dung cần nói (nói về nội dung gì ? gồm những ý nào ? sắp xếp các ý
đó ra sao ?…).
Ví
dụ: Đề bài Tập làm văn lớp 5 trang 94 - Luyện tập thuyết trình, tranh
luận: Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần
thiết của cả trăng và đèn trong bài ca dao sau:
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn ?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây ?
Sau khi tìm ý, sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí để thuyết trình về vấn đề nêu
ra trong đề bài, các em có thể chọn từ, tạo câu để trình bày các ý cần nói
thành một đoạn văn và liên kết các đoạn thành bài thuyết trình ngắn như sau:
“Đèn
và trăng đều vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta. Đây là hai nhân
vật cùng tỏa sáng vào ban đêm. Trăng soi sáng khắp nơi. Trăng làm cho cuộc sống
thêm đẹp, thơ mộng. Nếu không có trăng, cuộc sống ra sao nhỉ ? Chúng ta sẽ
không có đêm rằm trung thu, không được nhìn ngắm những vì sao lung linh trên
trời… Nhưng vì thế mà coi thường đèn. Trăng chỉ sáng vào một số ngày trong
tháng và cũng có khi phải luồn vào mây. Còn đèn, đèn tuy nhỏ bé nhưng cũng rất
có ích. Đèn soi sáng cho con người quanh năm, đèn giúp em học bài, đèn giúp mẹ
làm việc… Nhưng đèn không nên kiêu ngạo với trăng. Đèn không thể sáng nếu không
có dầu, có điện. Đèn dầu ra trước gió sẽ có thể bị gió thổi tắt. Trong cuộc
sống chúng ta, cả trăng và đèn đều rất cần thiết”.
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn
bè, thầy cô giáo để tự kiểm tra, đối chiếu văn bản nói của bản thân với mục đích
giao tiếp và yêu cầu diễn đạt ; biết sửa lỗi về nội dung, hình thức diễn đạt.
Tôi luôn quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho các em theo yêu cầu trên, như vậy
vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển tư duy,
vừa tạo điều kiện cho kĩ năng viết phát triển tốt.
* Rèn
luyện kĩ năng viết
Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), các em
có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá,…) thuận lợi hơn làm văn
nói. Tuy nhiên, các em cũng
cần đạt được những yêu cầu rèn luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn,
lời văn viết vừa cần rõ ý vừa cần sinh động, bộc lộ được cảm xúc ; bố cục bài
văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng đoạn và cả bài. Kĩ năng viết của các em được rèn luyện chủ yếu qua các
bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do vậy, trong quá
trình rèn luyện kĩ năng viết, tôi giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu
sau:
- Phân
tích đề bài, xác định nội dung viết ; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực
hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học.
- Tập
viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần thân bài,
viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng, không mở
rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong đoạn được diễn tả theo một
trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính.
- Viết
bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể hiện
cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một văn bản
hoàn chỉnh, bố cục chặt chẽ theo ba phần (Mở bài, thân bài, kết bài). Lời văn
trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ:
+ Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm ; có thể so sánh,
nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động ; cần bộc lộ cảm xúc
trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
+ Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc ; từ ngữ chỉ hoạt
động, đặc điểm, trạng thái của người ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so
sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả.
+ Tả đồ vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so sánh, nhân
hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động.
+ Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, hương thơm,
mùi vị ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh cây
cối ở thời kì phát triển hay mùa khác nhau.
+ Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm thanh
; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật ; có thể sử dụng biện pháp liên
tưởng, so sánh, nhân hoá để tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi với
con người.
5.3. Khả năng áp dụng sáng kiến:
- Sáng kiến này có thể áp
dụng trên mọi đối tượng học sinh, giáo viên đều có thể vận dụng những biện pháp
này trong các tiết học, các tiết học môn khác… mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy.
6. Những thông tin cần được bảo mật: (Không có)
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng
kiến:
- Giáo viên phải có kiến thức vững vàng, có kĩ năng sư phạm
không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, có lòng say mê nghề nghiệp, tâm
huyết nhiệt tình tất cả vì thế hệ trẻ, vì tương lai đất nước.
- Cơ sở vật chất phòng
học tốt; Có đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho việc nghiên cứu và áp dụng:
Trang thiết bị dạy học: máy, tính máy chiếu, các tài liệu tham khảo…
- Được sự ủng hộ giúp đỡ
nhiệt tình của nhà trường, học sinh và phụ huynh.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
a. Kết quả đạt được:
Qua
các biện pháp rèn luyện nêu trên trong
quá trình thực hiện bản thân tôi tự nhận
xét và thấy học sinh có phần tiến bộ hơn, sự tiến bộ của các em được thể hiện
như sau:
Thời
gian |
Tổng số HS |
Viết văn đạt |
Viết văn chưa đạt |
CHKII 2019-2020 |
24 |
16 em |
8 em |
Cuối kì I 2020-2021 |
24 |
22 em |
2 em |
b. Bài học kinh nghiệm:
Muốn các em học tốt phân môn Tập làm văn tôi cần rèn
luyện cho các em một số kĩ năng cơ bản sau:
- Trau
dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn nhằm rèn luyện mình để có nhận thức đúng,
tình cảm đẹp đối với văn học.
- Tích
luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học qua hoạt động, quan sát hằng
ngày trong cuộc sống. Nhưng quan sát như thế nào mới có kết quả tốt, phục vụ
cho việc tích luỹ “Vốn sống”.
- Nắm
vững kiến thức cơ bản đã học trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Có
hiểu biết về ngữ âm, chữ viết Tiếng Việt ; nắm vững kiến thức ngữ pháp tiếng
việt, các em sẽ không chỉ nói – viết tốt mà còn có thể cảm nhận được nét đẹp
của nội dung qua những hình thức diễn đạt sinh động, sáng tạo của tác giả.
-
Rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học là một trong những nhiệm vụ cần thiết đối với
học sinh lớp 5. Có năng lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều
nét đẹp của văn thơ, được phong phú thêm về tâm hồn, nói – viết tiếng việt thêm
trong sáng, sinh động.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/