1.
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Giải pháp nâng cao hiệu quả học tập môn Tin
học 8” cấp
trường, năm học 2020-2021.
2.
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (trường hợp tác giả không
đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến): Không có.
3.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Tin học 8).
4.
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu 5/10/2020.
5.
Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Trong Tin học 8, các tiết học lý thuyết thường
rất khô khan, làm cho học sinh không hứng thú học tập. Chính vì vậy, tôi đã
mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy truyền thống bằng cách kết hợp học lý thuyết
và thực hành cùng lúc, điều này đã làm cho học sinh hứng thú và mau hiểu phần
lý thuyết hơn, đặc biệt khi vận dụng vào thực hành các em không bỡ ngỡ.
5.2. Nội dung sáng kiến:
5.2.1. Thực trạng
vấn đề
Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã khảo sát ba lớp 8 thông qua giờ
dạy lý thuyết, dạy thực hành, kiểm tra bài cũ. Khi tổng hợp kết quả thu được:
Mức độ kiến thức |
Trước khi thực hiện đề
tài |
|
Số học sinh |
Tỷ lệ |
|
Chưa
nhận biết |
15/99 |
15.2% |
Nhận
biết |
27/99 |
27.3% |
Thông
hiểu |
29/99 |
29.3% |
Vận
dụng thấp |
23/99 |
23.1% |
Vận
dụng cao |
5/99 |
5.1% |
a) Nguyên nhân
- Không nắm được kiến thức cơ bản của một số
môn như Toán, Tiếng Anh… và vận dụng kiến thức đó vào môn Tin Học.
Như chúng ta đã biết kiến thức Tin Học 8 là
về lập trình và các bài toán tin học thường liên quan đến Toán Học. Nếu học
sinh không nắm vững kiến thức Toán thì sẽ rất khó để tư duy thuật toán trong
Tin Học dẫn đến khả năng viết chương trình gặp nhiều khó khăn. Ví dự như:
Tìm UCLN của 2 số nguyên dương M, N. khi được
hỏi thì một số em không nhớ UCLN của 2 số nguyên dương là như thế nào.
Hoặc
các từ khoá và các câu lệnh trong ngôn ngữ lập trình thường được viết bằng Tiếng
Anh. Nhưng một số từ cơ bản như while, else, read, write… nhưng các vẫn không
hiểu nghĩa của những từ này.
-
Tiếp thu kiến thức chậm, không nắm được cú pháp và ý nghĩa của các câu lệnh.
Nhìn chung đây là kiến thức cơ bản của Tin
Học nhưng với một số học sinh thường tiếp thu kiến thức này rất chậm hoặc chỉ học
vẹt theo kiểu học thuộc lòng còn đến khi vận dụng kiến thức đó vào thực hành
làm bài tập thì rất khó khăn đôi khi không thực hiện được.
Do
kiến thức cơ bản của môn Tin Học có liên quan nhiều đến môn Toán Học nên những
học sinh học yếu môn Toán thì cũng đồng nghĩa với việc tư duy viết chương trình
môn Tin Học cũng rất kém. Đến lúc này việc áp dụng kiến thức Tin Học để làm bài
tập thực hành gặp rất nhiều khó khăn, chỉ trông chờ vào giáo viên giải bài trên
lớp và chép vào vở.
- Thao tác với máy tính chưa thành thạo hoặc
biết sử dụng máy tính quá ít.
Do
điều kiện cơ sở vật chất vẫn chưa hoàn thiện, phòng máy với một số lượng rất hạn
chế (24 máy) mà học sinh của một lớp thì rất đông, hôm nào thực hành phải ghép
2 em sử dụng một máy nên việc thao tác trên máy là cực kỳ hạn chế.
b)
Một số thuận lợi và khó khăn
-
Thuận lợi:
Về phía nhà trường:
Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để
học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy vi tính, trang
thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.
Về phía giáo
viên: Giáo viên được đào tạo chuẩn chuyên ngành về Tin học để đáp ứng yêu cầu
cho việc dạy và học môn Tin học ở bậc THCS.
Về phía học
sinh: Một số em học sinh ở nhà có điều kiện đã trang bị máy vi tính nên cũng có
những thuận lợi nhất định đối với môn học.
-
Khó khăn:
Về phía nhà trường:
Hiện tại nhà trường phòng vi tính chỉ có 24 máy trong đó có một số máy
không hoạt động, trong khi đó mỗi lớp học trung bình
khoảng 35 đến 40 học sinh vì vậy mỗi máy phải hai học sinh sử dụng, nên thời gian thực hành thực tế
của các em đã giảm đi một nửa.
Về phía giáo
viên: Do trường còn khó khăn, không có máy dự phòng nên mỗi khi
máy tính hỏng, giáo viên phải kịp thời sửa chữa để học sinh có máy thực hành.
Về phía học sinh: Do đa số các em học sinh chỉ được tiếp
xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, dẫn đến việc tự rèn luyện các kỹ
năng thực hành với các em còn rất hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn
còn mang tính thụ động.
5.2.2. Giải pháp:
Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh
Học
sinh không có hứng thú với môn học là một tồn tại khách quan, một phần do giáo
viên chưa có phương pháp dạy học phù hợp chưa quan tâm tới suy nghĩ, thái độ của
học sinh. Một phần là học sinh lười học, không chịu học dẫn đến ngày
càng tụt hậu so với yêu cầu chung của học sinh.
Nếu
giáo viên không sớm nhận ra hiện tượng này thì nhận thức của học sinh ngày càng
thụ động trong việc tiếp thu kiến thức dẫn đến các em không đáp ứng được chuẩn
kiến thức của môn học và những kĩ năng cơ bản. Không cần kể nguyên nhân do đâu,
cần phải làm sao để học sinh có thể hứng thú với môn học. Chủ động tiếp thu kiến
thức, tăng khả năng tự học đáp ứng được yêu cầu của xã hội đối với con người
trong xã hội ngày nay.
Để tạo
cho học sinh một niềm hứng khởi với môn học tôi đưa ra một số giải pháp khắc phục
tình trạng trên.
1. Tạo tâm lí thoải mái cho học sinh
Một
trong những yếu tố khiến các em không có hứng thú khi tiếp xúc với bộ môn này
là do giáo viên tạo áp lực cho học sinh. Một số giáo viên luôn đòi hỏi cao đối
với những học sinh nhưng không tìm hiểu xem liệu học sinh có thể đáp ứng được
những yêu cầu đó không. Chính vì vậy mà ngay từ khi tiếp xúc với các em tôi đã
tạo cho các em tâm lí thoải mái, sự thân thiện, chân thành tin cậy trong các hoạt
động dạy và học.
Làm
sao để cho học sinh thấy được đối với mỗi học sinh khi ngồi trên ghế nhà trường
chúng ta phải thật sự nỗ lực để tiếp thu những kiến thức phổ thông sau này có
thể học cao hơn hoặc áp dụng vào thực tế, chứ không phải học chỉ để vượt qua
các kì thi mà những kiến thức này lại xem nhẹ.
Trong
quá trình dạy giáo viên phải có thái độ nhẹ nhàng khi các học sinh mắc khuyết
điểm, cư xử khéo léo với các em, xử lí tốt các tình huống sư phạm.
Việc
đánh giá nhận xét phải công bằng, khách quan và công tâm, công khai kết quả
trong các giờ kiểm tra và nhận xét bài làm của học sinh. Không nên đánh giá quá
thấp sẽ làm cho học sinh chán nản, nên tạo cho học sinh một niềm tin khi học
môn này.
Phải
có kiến thức vững vàng để giải đáp thắc mắc một cách thuyết phục, khuyến khích
các em mạnh dạn hỏi bài khi chưa hiểu.
Xây dựng
cho các em thói quen học tập tích cực, động viên kịp thời những học sinh tiến bộ,
cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng đắn, khuyến khích các em không ngừng
cố gắng, tạo điều kiện để mọi học sinh trong lớp đều có cơ hội phát biểu trong
giờ học.
2. Tăng cường sử dụng
phương tiện dạy học, thực hành.
Có thể
nói phương tiện dạy học góp phần quan trọng và quyết định đến hiệu quả của tiết
học. Nếu như không có phương tiện dạy học thì giáo viên phải làm việc nhiều
nhưng kiến thức học sinh thu được lại rất ít. Đặc biệt đối với bộ môn Tin nếu
như không có phương tiện dạy học thì tiết học lại càng nhàm chán.
Nếu
như đối với bài 3: Chương trình máy tính và dữ liệu.
Giáo
viên dạy theo phương pháp thông thường thì học sinh sẽ không nhớ và không hiểu
việc nhập dữ liệu từ bàn phím và đưa dữ liệu ra màn hình như thế nào. Nhưng nếu
như giáo viên sử dụng một chương trình pascal đơn giản và minh họa cho học sinh
thì học sinh sẽ hiểu và nhớ lâu hơn. Giáo viên kết hợp máy tính và máy chiếu để
hướng dẫn học sinh các bước để soạn thảo, dịch, thực hiện và hiệu chỉnh chương
trình sẽ giúp học sinh nắm vững hơn.
Ví dụ
như yêu cầu học sinh làm thực hành:
Var a,b: integer;
Begin
a:=5; b:= 3;
writeln(‘a mod
b=’,a mod b);
writeln(‘a div
b=’, a div b);
end.
Khi làm
bài thực hành này học sinh sẽ nắm được ý nghĩa và cách thức sử dụng phép toán
mod và div.
3. Sử dụng bài giảng điện tử, minh hoạ từ thực tế.
Với sự
phát triển của khoa học kĩ thuật và bùng nổ công nghệ thông tin làm cho tất cả
các lĩnh vực đều ảnh hưởng trong đó có giáo dục. Nếu như trước đây hoạt động dạy
và học chủ yếu theo phương pháp truyền thống và kiến thức mà học sinh thu nhận
được chủ yếu là từ giáo viên thông qua phương tiện truyền tải chính là sách
giáo khoa thì giờ đây trong giờ học học sinh không phải nhàm chán chỉ với riêng
cuốn sách giáo khoa mà còn rất nhiều phương tiện khác truyền tải thông tin hay
và hấp dẫn trong đó có bài giảng điện tử của giáo viên.
Trong
mỗi tiết học nếu như giáo viên sử dụng hợp lí bài giảng điện tử thì sẽ đạt hiệu
quả rất cao. Giáo viên không phải làm việc nhiều nhưng lại kích thích sự hứng
thú tiếp thu bài giảng ở học sinh.
Trong
chương trình Tin Học 8 sử dụng rất nhiều thuật toán, một trong những vấn đề
quan trọng để tạo ra thuật toán đó chính là ý tưởng. Nếu như chúng ta không có
ý tưởng nhìn nhận vấn đề đúng đắn thì không thể tạo ra thuật toán chính xác. Một
trong những phương pháp để truyền đạt lại ý tưởng thuật toán cho học sinh đó là
liên hệ gần gũi từ thực tế giúp học sinh hiểu rõ vấn đề và nhớ lâu.
Ví dụ:
hoán đổi giá trị 2 biến x, y cho nhau.
Ban đầu
học sinh có thể chưa hiểu rõ công việc trên là như thế nào. Nhưng nếu như giáo
viên đưa ra ý tưởng: Hãy hình dung chúng ta có 2 chiếc cốc 1 chiếc cốc đựng rượu
và 1 chiếc cốc đựng nước làm sao để chiếc cốc đựng nước ban đầu sẽ đựng rượu
còn chiếc cốc đựng rượu sẽ đựng nước.
Học
sinh sẽ nghỉ ngay ra muốn làm được công việc trên chúng ta chỉ có thể sử dụng
thêm chiếc cốc thứ 3 đóng vai trò là biến trung gian t trong đoạn chương trình
sau:
t:= x;
x:= y;
y:= t;
Ví dụ: Tìm số lớn nhất trong 3 số a,b,c.
Học sinh sẽ rất khó khăn trong việc đưa ra
ý tưởng đúng cho thuật toán . Bây giờ hãy đặt ra vấn đề này cho học sinh: Chúng
ta hãy đưa ra cách tìm bạn cao nhất trong 1 bàn có 3 người. Có thể học sinh sẽ
đưa ra nhiều cách trong đó có 1 cách là so sánh 2 bạn ban đầu tìm người cao hơn
sau đó sẽ so sánh người cao hơn với người thứ 3 sẽ tìm được người cao nhất đó
chính là tư tưởng của thuật toán trên học sinh sẽ nhanh chóng hiểu ra vấn đề và
nhớ kĩ.
Var
a,b,c, max : real;
Begin
If
a> b then max: = a
Else
max := b;
If
max< c then max: = c;
Write(
‘so lon nhat la:’ ,max)
End.
Việc
giáo viên sử dụng những liên hệ gần gũi từ thực tế này giúp cho quá trình dạy
và học diễn ra một cách sôi nổi và hấp dẫn giúp học sinh chủ động nắm vững kiến
thức.
4. Chú trọng đến dạy tư duy thuật toán cho học sinh
Có thể
nói mục tiêu chính của môn Tin học 8 không phải là dạy một ngôn ngữ lập trình cụ
thể. Ngôn ngữ lập trình Pascal được sử dụng như là công cụ để chuyển tải kiến thức
văn hoá phổ thông về lập trình, về ngôn ngữ lập trình bậc cao cũng như để rèn
luyên kĩ năng lập trình. Trong phạm vi văn hoá tin học phổ thông, lập trình để
giải bài toán trên máy tính được hiểu theo nghĩa chuyển đổi thuật toán đã có
sang chương trình viết trên ngôn ngữ lập trình bậc cao.
Ngôn
ngữ lập trình Pascal chỉ là ngôn ngữ để chuyển tải thuật toán nên giáo viên
không nên quá đi sâu vào ngôn ngữ này mà chủ yếu vẫn là truyền đạt thuật toán
cho học sinh. Đối với mỗi bài tập nào đó giáo viên cần phải yêu cầu học sinh
đưa ra ý tưởng sau đó đến thuật toán, nên khuyến khích học sinh đưa ra nhiều ý
tưởng và thuật toán khác nhau. Sau đó sẽ phân tích để tìm thuật toán tối ưu.
Ví dụ
bài tập:
Lập
trình để giải bài toán cổ sau:
Vừa gà
vừa chó.
Bó lại
cho tròn.
Ba
mươi sáu con.
Một
trăm chân chẵn.
Hỏi có
bao nhiêu con mỗi loại
Đối với
bài toán trên chúng ta có thể có rất nhiều thuật toán tương ứng với nhiều cách
khác nhau.
Cách 1:
Var cho, ga : byte;
Begin
Cho:= 1 to 36 do
Ga := 1 to 36 do
If
cho* 4 + ga*2 =100 then write(‘cho=’, cho :3, ‘ga=’, ga);
End.
Cách 2:
Var cho: byte;
Begin
Cho:= 1 to 36 do
If cho*4 + (36 – cho) *2 =100 then
write(‘cho=’
,cho: 4, ‘ga=’,36- cho);
End.
Cách 3:
Var cho: byte;
Begin
For cho: = 1 to 24 do
If cho*4 +(36-cho)* 2= 100 then
write(‘cho=’
,cho: 4, ‘ga=’,36-cho);
End.
Giáo
viên sẽ yêu cầu học sinh đi phân tích xem thuật toán nào là tối ưu nhất. Trong
quá trình phân tích sẽ lôi cuốn học sinh vào tiết học một cách sôi nổi và hào hứng.
Khi đi tìm một ý tưởng, thuật toán cho một bài toán nào đó học sinh không chỉ
ôn tập và rèn luyện kiến thức môn Tin học mà còn là vận dụng và tổng hợp kiến
thức môn Toán và rất nhiều môn học khác nhau và trong thực tế cuộc sống hằng
ngày. Tại sao mà biến (cho<= 24) trong cánh 3 ,vì tối đa là 100 chân mà chó
có 4 chân nên tối đa là 25 con chó mà trong đó có cả gà nên tối đa chỉ có 24
con chó. Trong giờ học giáo viên nên khuyến khích học sinh đưa ra các thuật
toán có thể có. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà có thể tăng độ khó của thuật
toán.
Trong
chương trình Tin Học của chúng ta có 2 loại câu lệnh lặp đó là For - do và
While - do giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuyển đổi qua lại giữa 2 loại câu
lệnh trên. Ví dụ trên chúng ta đã sử dụng For – do vậy có thể sử dụng While –
do không, nếu được hãy cài đặt bằng while – do. Đến đây không chỉ đòi hỏi học
sinh phải nhớ từng loại câu lệnh mà nó còn đòi hỏi sự tư duy của học sinh vì tuỳ
từng bài toán mới có thể chuyển đổi chứ không phải bài nào cũng có thể.
5. Tích cực hoá hoạt động nhóm.
Phương
pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học mới. Phương pháp
này tỏ ra khá nhiều ưu điểm:
Làm việc
theo nhóm cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải quyết 1 cam kết làm việc
được mô tả rõ ràng, không được giáo viên dẫn dắt trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự kết
hợp chặt chẽ và phân công công việc trong nhóm nhỏ.
Phương pháp này thích hợp cho việc thảo luận
nhóm, đưa ra những cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích sự hợp
tác của các thành viên trong nhóm cùng tham gia vào việc giải quyết 1 vấn đề.
Làm việc theo nhóm thoả mãn nhu cầu học tập của cá nhân, người học có thể đưa
ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó. Nếu trong phương
pháp thuyết trình người học chỉ có thể trao đổi với nhau rất ít thì làm việc
theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa ra quan điểm của mình đối với
chủ đề thảo luận, mặt khác ở đó cũng đòi hỏi tăng cường tư duy độc lập và trao
đổi lẫn nhau trong nhóm.
Trong
khi thực hiện phương pháp làm việc theo nhóm, giáo viên đóng vai trò là người
chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi việc thực hiện
và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. Như vậy công việc của giáo
viên trong làm việc theo nhóm là không bao giờ thừa, trái lại đó là sự cần thiết
để giúp các nhóm đạt được kết quả trong việc tìm ra giải pháp, câu trả lời
trong việc giải quyết vấn đề được đưa ra.
Để thực
hiện được phương pháp này giáo viên cần lập kế hoạch bài dạy cụ thể và chi tiết.
Dự kiến cách chia nhóm, số lượng nhóm, nhiệm vụ và thời gian thảo luận trình bày.
Thiết kế bài giảng cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi, nhằm khuyến khích học sinh
tích cực, hào hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn.
Đặt biệt
đối với môn Tin Học việc chia nhóm để thực hiện khá dễ dàng. Vì mỗi nhóm có thể
viết 1 chương trình con nhỏ hay một đoạn của chương trình lớn sau đó ghép tất cả
các nhóm thành một chương trình lớn. Hoặc chúng ta có thể để cho mỗi nhóm tiến
hành 1 công đoạn trong công việc lập trình trên máy tính như: ý tưởng, viết chương
trình, hiệu chỉnh, chạy các bộ test.
5.3.
Khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến này có thể áp dụng cho GV dạy Tin
học 8 ở trường THCS.
6. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có):
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Đối với nhà trường: có phòng máy tính hoạt động tốt, có
máy chiếu hoặc ti vi.
Đối với giáo viên: Nắm vững kiến thức và phối hợp các
phương pháp một cách linh hoạt.
Đối với học sinh: Nắm vững kiến thức bài cũ, tự tin, năng
động, sáng tạo
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/