1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến:
“Giúp học sinh biết dùng từ, đặt câu và bước đầu biết sử dụng hình ảnh nhân
hóa,so sánh để đặt câu viết thành đoạn văn ở lớp 3.”
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác
giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
3. Lĩnh vực áp dụng sáng
kiến: Giáo dục ( phân môn Tập làm văn)
4. Ngày sáng kiến được áp
dụng lần đầu: 09/9/2020
5. Mô tả bản chất của
sáng kiến
5.1 Tính mới của
sáng kiến
5.1.1.
Tình trạng của
giải pháp đã biết:
Qua thực tế giảng
dạy phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 3 theo chương trình sách giáo khoa những
năm học qua, tôi nhận thấy học sinh còn một số hạn chế sau:
- Đối với học
sinh lớp 3, vốn từ ngữ của các em rất
nghèo nàn, việc diễn đạt câu văn, ý văn còn nhiều hạn chế. các em không biết
làm một đoạn văn hoàn chỉnh, không biết dùng từ đặt câu, trong quá trình làm
bài văn không biết sử dụng từ, ý câu lan man, liệt kê sự việc, lặp từ rất nhiều.
- Học
sinh chưa tự tin trong cách dùng từ, đặt câu. Đến tiết Tập làm văn, lớp học trầm.
Các em còn thụ động.
- Một số học sinh còn ngại học văn hoặc học tập
không hứng thú.
- Từ những thực trạng đã nêu ở
trên, nguyên nhân chính là do:
+ Do vốn từ của học sinh còn hạn
chế.
+ Hiểu biết về thế giới xung
quanh chưa nhiều.
- Giáo viên chưa mạnh dạn đổi
mới
phương pháp và hình thức dạy học phân môn Tập làm văn và ngại dạy môn
này, chưa chú trọng việc huy động các kiến thức trong môn Tiếng Việt để hỗ trợ cho Tập làm văn. Việc dạy tích hợp
các phân môn trong Tiếng Việt chưa được quan tâm đúng mức. Một số giáo viên
chưa coi trọng việc cung cấp kiến thức làm văn, chưa phát huy được vốn sống của
trẻ vào quá trình hình thành kiến thức bài học. Vì vậy chưa tạo ra được một tiết
dạy phong phú, nhẹ nhàng tự nhiên và hiệu quả,
Từ trong quá trình tổ chức thực hiện,
ứng dụng có kết quả, bản thân tôi đã tổng kết thành đề tài : “Giúp
học sinh biết dùng từ đặt câu và bước đầu biết sử dụng hình
ảnh nhân hóa, so sánh để đặt câu viết thành đoạn văn ở lớp 3.”
5.1.2. Biện pháp có tính mới:
- Học sinh có
ý thức tự học và biết cách sử dụng từ ngữ để đặt câu có nghĩa.
- Rèn cách
quan sát. Học sinh miêu tả bằng lời, biết viết câu bước đầu có hình ảnh hình
ảnh nhân hóa và so sánh.
- Học sinh
luyện tập nhiều kĩ năng đa dạng: kĩ năng nghe; kĩ năng nói, cách dùng từ đặt
câu.
5.2 Nội dung sáng kiến
5.2.1. Các biện pháp thực
hiện:
* Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn về
cách dùng từ đặt câu và sử dụng một số hình ảnh so sán và nhân hóa.
+ Dạy tích hợp các phân môn trong môn Tiếng Việt.
+ Hướng dẫn
học sinh biết quan sát, biết chọn lựa, chắt lọc
hình ảnh.
+ Hướng dẫn học
sinh cách đặt câu, liên kết câu thành đoạn văn.
+ Hướng dẫn
học sinh bước đầu biết dùng từ có hình ảnh so sánh, nhân hóa khi đặt câu.
5.2.1.1 Dạy tích hợp các phân môn trong môn Tiếng Việt
để làm giàu vốn từ
Khi dạy luyện từ và câu, tôi đã cung cấp làm giàu vốn
từ cho học sinh thông qua các dạng bài tập của bài dạy. Mở rộng vốn từ ở các chủ
điểm, nhất là những từ ngữ có tác dụng tả hoặc kể.
Ví dụ 1: Khi viết
về chủ điểm Thành thị, nông thôn tôi cung cấp cho học sinh những từ khóa sau:
+ Từ ngữ nói về thành thị: nhà cao tầng, đường
phố, xe cộ , siêu thị, nhà ga, công viên, sân bay,…; những từ ngữ gợi tả, gợi cảm
( nhộn nhịp, đông đúc, nườm nượp, lấp lánh, rực rỡ,…)
+ Từ ngữ nói về
nông thôn: cánh đồng, đường làng, bãi ngô, dòng sông, con đò hay rừng cao su, đường đất đỏ, vườn cây ăn trái,
trang trại chăn nuôi, …; những từ ngữ gợi tả, gợi cảm( uốn khúc, quanh co, bát
ngát, xanh tươi, trĩu quả, bạt ngàn,…
Trên cơ sở các từ
khóa trên, tôi hướng dẫn học sinh viết câu cho đủ ý,sắp xếp thành đoạn văn phù
hợp với nội dung các em muốn kể về thành thị hay nông thôn.
Khi dạy phân môn
tập đọc, trước hết tôi tập trung vào việc học sinh đọc bài tốt, lưu loát sau đó
hướng đến việc cảm thụ văn bản qua việc trả lời hệ thống câu hỏi tìm hiểu nội dung bài. Tôi thường hướng
dẫn học sinh đọc nhấn giọng các từ gợi tả,
gợi cảm, đồng thời giải nghĩa từ đối với các từ học sinh chưa hiểu. Tôi kết hợp
cho các em tập đặt câu với các từ đó, nếu thời gian cho phép.
5.2.1.2
Hướng dẫn học sinh quan sát, biết chọn lựa,
chắt lọc hình ảnh.
- Khi muốn viết được đoạn văn hay, để người đọc có cảm tình với mình thì
cần tổ chức tốt quá trình quan sát thực tế của học sinh. Giáo viên đóng vai trò
dẫn dắt, gợi mở nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Khi quan sát
tranh, trả lời câu hỏi, học sinh có thể ghi chép
một số hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa vào vở. Giáo viên cần tôn trọng những
suy nghĩ, cảm xúc thơ ngây và nâng chúng lên chất lượng cao hơn, giúp học sinh
nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích khám phá cái hay, cái đẹp của các em. Giáo viên không thuyết giảng mà phải gợi
mở tạo điều kiện cho học sinh phát huy độc lập suy nghĩ, làm việc, tự mình học
được cách nghĩ, cách làm, cách nói, cách viết riêng của mình. Khi quan sát phải
lựa chọn các chi tiết cụ thể nhưng không phải là các chi tiết rời rạc, tản mạn
mang tính liệt kê, chi tiết không cần nhiều mà phải chọn lọc, phải lột tả được
cái thần của người và vật. Khi quan sát, yêu cầu cần sử dụng nhiều giác quan
như thị giác, thính giác, khứu giác và cả xúc giác. Điều quan trọng là các em
phải biết quan sát bằng cả tấm lòng.
Ví dụ : Quan sát tranh tả về cảnh đẹp đất nước.
Giáo viên treo tranh:
Tả cảnh biển ở Phan Thiết:
* Giáo
viên gợi ý, học sinh quan sát tranh, dựa vào gợi ý đặt câu.
+ Học sinh thứ nhất đặt câu: Nước biển xanh ngắt.
+ Học sinh
khác nhận xét về ý và lời: Bạn đặt câu đã đủ ý, nhưng hình ảnh chưa sinh động.
Theo em: Nước biển trong xanh như ai pha
mực.
+ Học sinh khác đặt câu: Nước biển trong xanh với những con sóng bạc đầu trắng xóa.
Câu văn của
bạn ý đã chặt chẽ chưa? Em sửa lại câu
văn cho bạn như thế nào? (nếu bạn đặt câu còn lan man, lủng củng). Sau đó tôi
đã sữa rất kĩ cho từng em. Khi đến tiết tập làm văn viết, các em viết bài rất tốt.
Ví dụ: Khi dạy bài: Tả
về lễ hội.
Giáo viên
treo tranh: Lễ hội đua thuyền:
*Giáo viên
cho học sinh thảo luận nhóm, học sinh tự đặt câu, học sinh khác sửa cho bạn.
Giáo viên theo dõi giúp đỡ các nhóm khi học sinh còn thắc mắc,
Ví dụ:
Nhóm 1
+ Học sinh
thứ nhất đặt câu: Những chiếc thuyền chứa
nhiều người chuẩn bị tham gia thi đấu.
+ Học sinh
khác nhận xét về ý và lời: Những chiếc
thuyền chứa nhiều người chuẩn bị tham gia thi đấu.
Dùng từ chứa
nhiều người chưa được hay, học sinh khác sửa cho bạn: Trên mỗi chiếc thuyền khoảng mười vận động viên chuẩn bị tham gia thi đấu.
+ Học sinh khác đặt câu: Hai bên bờ, mọi người tham gia rất đông, nét mặt ai cũng vui vẻ rạng ngời.
Cây cối như muốn hò reo cùng khán giả.
em
vừa chuyện trò vui vẻ. Một thoáng, lớp học
đã sạch sẽ. Em rất vui.
5.2.1.3
Hướng dẫn học sinh bước đầu biết dùng từ có hình ảnh so sánh, nhân hóa
vào đoạn văn.
Luyện
từ và câu lớp Ba bước đầu cung cấp cho học sinh các cách để sử dụng biện pháp
so sánh, nhân hóa. Tôi cho học sinh nắm kĩ các cách so sánh, nhân hóa thông qua
các ví dụ cụ thể trong sách giáo khoa, sau đó mở rộng thêm bằng cách cho các em
luyện đặt câu có hình ảnh so sánh, nhân hóa.
- Học sinh cần nắm được các kiểu so sánh:
Có hai kiểu so sánh: So sánh ngang bằng và so
sánh không ngang bằng
+
Ví dụ so sánh ngang bằng: Ông mặt trời
như quả cầu lửa khổng lồ.
+
Ví dụ so sánh không ngang bằng: Tình yêu thương của cha mẹ hơn cả mọi thứ
trên đời.
-
Từ tuần 19, các em bắt đầu làm quen với các kiểu nhân hóa:
Cách 1: Gọi vật
như gọi người:
VD:
Bác gà trống trông thật oai vệ.
Cách 2- Tả vật như tả người (tả
hình dáng, tâm trạng, ngoại hình, tính cách)
VD:
Chú ếch con ngồi học bài bên bờ sông
Cách 3 - Nói với vật
như nói với người
Vd:
Chị gió ơi, mau về đây!
Qua từng bài tập từng cách so sánh, nhân hóa, giáo
viên hướng dẫn các em luyện tập đặt câu có sử dụng các biện pháp so sánh, nhân
hóa để các em vận dụng khi viết đoạn văn.
Khi viết đoạn văn, tôi khuyến khích các em sử dụng biện
pháp so
sánh và nhân hóa trong bài thì bài văn mới trở nên sinh động, tạo được sự thích
thú cho người đọc. Khi hướng dẫn làm bài, tôi hướng dẫn các em phải sử dụng biện
pháp đó vào thời điểm nào thì
thích hợp..
Ví dụ bài: “Kể một buổi biểu diễn nghệ thuật” nên lồng nhân hóa vào thời gian.
VD:
Khi ông mặt trời vừa đi ngủ, em cùng các bạn đến sân trường để đón xem buôi xem buổi biểu diễn văn nghệ. ( Trang 16)
Ví dụ bài: “Kể lại buổi đầu đi học” sử dụng các biện pháp so sánh, nhân
hóa vào các sự vật như cây cối, lá cờ.
VD: Hàng cây hai bên đường dang tay chào đón em đến trường. Bác cổng trường hiền từ mỉm cười với em. Cờ đỏ sao vàng reo vui trong gió.
Ví dụ bài: “Kể về trận thi đầu thể thao” …Vũ
Thị Hương lao về phía trước như một mũi tên, bỏ xa các vận động viên khác giành tấm huy chương bạc. Cờ
đỏ sao vàng tung bay trong gió chào đón
chị. Chị đã đem lại vinh quang cho Tổ quốc…
- Vì so sánh và nhân hoá giữ một vai trò quan
trọng trong việc biểu đạt đặc điểm, thuộc tính của đối tượng miêu
tả. Chúng tạo nên bức tranh sinh động với những gam màu ấn tượng
bằng ngôn ngữ trong miêu tả. Vì vậy nên tôi hướng dẫn và khuyến khích học
sinh có thói quen sử dụng hình ảnh
so sánh, hình ảnh nhân hóa trong viết văn. Đó cũng là tiền đề để các em lên lớp
trên làm bài văn hoàn chỉnh.
Ví dụ: Buổi
sáng, em đến trường, lúc này ông mặt trời chiếu những tia nắng dịu dàng xuống mặt
đất. Các bạn có mặt đầy đủ, nét mặt ai cũng hớn hở vui vẻ. Sau khi được cô phân
công nhiệm vụ. Các bạn vui vẻ dọn vệ sinh lớp học. Vừa làm chúng em vừa chuyện
trò như bầy chim non ríu rít. Mới thoáng lớp học đã sạch sẽ.
5.1.2.4
Hướng dẫn học sinh cách đặt câu, viết
câu đủ ý, liên kết câu thành đoạn văn.
Để có đoạn văn hay, trước hết các em phải viết được
câu đủ ý, sắp thành đoạn văn một cách hợp lí, lô-gic. Vì vậy, sau mỗi lần học
sinh đặt câu (cả nói và viết) tôi đều lưu ý kiểm tra học sinh và xác định xem
trong câu vừa đặt câu đã đủ nghĩa chưa? Nội dung câu văn ấy thông báo điều gì?
Đối với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên gợi ý để
cho học sinh biết đặt câu đơn bình thường đơn giản, rồi dần nâng lên mức cao
hơn.
Ví
dụ:
Đặt câu với từ: quê hương
Học sinh có thể
chọn và đặt được câu như sau:
a. Quê hương em rất
giàu đẹp.
b. Quê hương em với những rừng
cao su bạt ngàn.
c. Quê hương em có đồi núi
trùng điệp.
Tôi hướng dẫn các em nhận xét về cách dùng từ đặt câu
đã đủ ý, câu văn đã có nghĩa chưa? Tôi còn cho học sinh bình chọn câu văn hay
và cho học sinh giải thích: Tại sao em lại cho câu văn ấy là hay. Đồng thời tôi
động viên khích lệ và khuyến khích các em viết được, nói được những câu văn hay
như thế một cách thường xuyên.
Sau khi sửa cách dùng từ đặt câu, tôi hướng dẫn các em
sắp xếp các câu văn thành đoạn. Cách sử dụng từ ngữ liên kết câu có tác dụng
liên kết lô-gíc. Nó mang lại sự mạch lạc, chặt chẽ cho đoạn. Trên cơ sở câu hỏi
gợi ý để hướng dẫn học sinh viết đoạn văn theo từng bài tập, từng chủ điểm
trong sách SGK Tiếng Việt, tôi tổ chức cho học sinh nắm bài và có kĩ năng sử dụng
phép liên kết câu một cách tốt nhất, đạt hiệu quả.
Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về buổi
đầu đi học
- Tôi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn như sau: ( sử dụng
liên kết câu theo trình tự thời gian và không gian)
Cách
đây đã hơn 2 năm nhưng em không thể nào quên buổi đầu tiên đi học của mình, Đó
là một buổi sáng trời thu trong xanh. Mẹ thức em dậy thật sớm. Mẹ chuẩn bị cho
em một cặp sách mới có đủ sách vở và dụng cụ học tập. Ăn sáng xong, em mặc bộ
quần áo đồng phục thật đẹp. Ba chở em đến trường. Trên đường đến trường, em thấy
rất nhiều bạn cũng được ba mẹ chở đi học với những nét mặt rạng ngời. Hai bên
đường, cây cối như cùng hòa reo với niềm vui của chúng em....
Sau đây là một số bài văn mà học sinh lớp tôi
đã sử dụng hình ảnh so ánh, nhân hóa.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng
kiến này áp dụng cho các giáo viên giảng dạy lớp Ba
6. Những
thông tin cần được bảo mật: ( không có)
7.
Các điều kiện cần thiết để ấp dụng sáng kiến:
- Được sự
quan tâm của Ban giám hiệu Nhà trường, của Địa phương cũng như của các bậc phụ
huynh.
- Trường, lớp thoáng mát, đủ đồ dùng học tập,
bàn ghế được trang bị đầy đủ. Các phương tiện phục vụ cho công tác giảng
dạy tương đối đầy đủ.
- Được sự
quan tâm giúp đỡ của đồng nghiệp.
7.1 Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự
kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp:
- Học sinh
không còn lúng túng trong việc viết đoạn
văn; việc viết một đoạn văn trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số
đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ pháp,
rõ ý; có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản
khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa.
Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên
rõ rệt.
- Đối với những học sinh chưa hoàn thành, những học sinh chưa có ý
văn. Được nghe các bạn trình bày, bước đầu cũng đã tự tin. Đồng thời khuyến
khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến.
Tập đặt những câu nhân hóa, so sánh một cách đơn giản.
- Giáo viên tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân
thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho học sinh, để học sinh
cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.
-
Giúp học sinh biết cách quan sát và ghi
lại những gì đã quan sát được.
- Tạo điều kiện cho học sinh có thói quen trao
đổi lẫn nhau.
- Thường xuyên gọi học sinh đặt câu còn chậm,
những học sinh chưa mạnh dạn trình bày ý nghĩ của mình để học sinh có cơ hội khắc
phục khiếm khuyết, mạnh dạn tự nhiên
trong giao tiếp. Tuyên dương trước lớp nhằm động viên kích thích các em ham học
và học tốt hơn dù đó là những tiến bộ nhỏ.
* Ở lớp 3, học sinh biết tham gia
hoạt động nhóm để quan sát và dùng hình
ảnh so sánh, nhân hóa khi làm bài. Tôi thấy các em đã mạnh dạn trong học tập.
Năng lực giao tiếp của các em tốt dần lên. Đó cũng là tiềm năng để lên lớp lớn học tốt
hơn và biết ứng dụng vào thực thế làm cho con người năng động hơn.
* Như vậy, qua tiết Tập làm văn ngoài việc nắm được kiến thức, tôi đã
giúp các em phát triển năng lực hợp tác, có ý thức tự học và giải quyết vấn đề.
7.2 Kết luận:
Nhờ thực hiện các biện pháp nêu trên, học
sinh có kĩ năng sử dụng từ ngữ gợi tả, gợi cảm để diễn đạt những câu văn sinh động.
Các em có khả năng viết đoạn văn khá hơn trước. Một số em đã biết diễn đạt câu
văn hay, đủ ý, giàu hình ảnh so sánh, nhân hoá.
8. Đánh giá lợi ích
thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác
giả:
8.1 Kết quả
Qua quá trình áp dụng vào thực tiễn, tôi nhận thấy rằng
so với trước đây học sinh học tự giác hơn, tích cực hơn, các em tỏ rõ sự mạnh dạn,
tự tin. Tiết học trở nên nhẹ nhàng, sôi nổi,
học sinh duy trì hào hứng và yêu thích khi học Tập làm văn.
Cụ thể, kết quả phân môn Tập làm văn của lớp tôi chủ
nhiệm của hai năm gần đây như sau: ( điểm
tối đa phân môn Tập làm văn là 6 điểm).
NĂM
HỌC |
TSHS |
KẾT QUẢ |
||||||||
THỜI
GIAN |
6 |
5 |
4-3 |
Dưới 3 |
||||||
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
|||
2020-2021 |
36 |
Đầu năm |
2 |
5,6% |
6 |
16,6% |
23 |
63,9% |
5 |
13,9%% |
HK I |
9 |
25 % |
14 |
38,9% |
14 |
38,9% |
2 |
5,6% |
||
HK II (cả năm) |
|
|
|
|
|
|
|
|
8.2 Bài
học
Vậy
để giờ học Tập làm văn đạt được kết quả nói trên thì người giáo viên cần phải
làm gì? - Chắc chắn rằng mỗi người giáo viên đều có những kinh nghiệm riêng để
làm được việc đó. Với bản thân tôi qua nhiều năm đứng lớp và áp dụng các biện
pháp dạy học. Tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm để dạy và học tốt phân
môn Tập làm văn như sau:
-
Giáo viên có sự chuẩn bị bài tốt sẽ dạy tốt. Đặc biệt là khâu hướng dẫn
học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
-
Giáo viên phải có kiến thức vững vàng, phương pháp tổ chức học tập tốt để
phát huy và khai thác triệt để tính chủ động, sự sáng tạo trong học tập của học
sinh tạo hứng thú và duy trì hứng thú
cho học sinh qua một số trò chơi phù hợp với đặc trưng bộ môn. Để giờ học
Tập làm văn đạt được là giờ mà học sinh được sáng tạo bằng ngôn từ.
-
Giáo viên không ngừng học hỏi và tự trau dồi kiến thức văn học cho mình.
Kết hợp được kiến thức của các môn học nói chung và của phân mônTập làm văn với
các phân môn trong môn Tiếng việt nói riêng.
-
Thường xuyên ghi chép, hướng dẫn học sinh ghi chép ý hay, câu văn
hay,…vào sổ tay văn học để giúp cho học
sinh làm giàu vốn ngôn ngữ và
áp dụng tốt những biện pháp dạy hay có hiệu quả trong các giờ học.
- Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp
tự tìm tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp
dạy học theo hướng đổi mới. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh
là chủ thể của hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức
và rút ra kết luận phù hợp với bài học
Nguồn: ST
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/