1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp
rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3”
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo
ra sáng kiến
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, (ghi ngày nào sớm hơn)
Áp
dụng thử từ ngày: 20/03/2020
Áp dụng lần đầu ngày :
20/10/2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến :
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Đọc là kĩ năng cần
thiết và quan trọng hàng đầu của con người. Nếu không biết đọc, con người không
thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, nhờ biết đọc con người có thể tự học đối
với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng để học tốt được các
môn trước hết các em cần phải có kĩ năng đọc tốt. Mà hiện nay trình độ đọc của
học sinh còn thấp, nhiều em tốc độ đọc còn chậm, đọc còn sai từ, ngắt nghỉ hơi
chưa đúng…Nên khả năng thông hiểu một văn bản hay một đoạn sau khi đọc còn kém.
Chính vì vậy luyện đọc cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết và có ý
nghĩa đối với mỗi giáo viên tiểu học.
Trong
các môn học thì môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn
ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện qua bốn kĩ năng: ‘
Nghe – Nói – Đọc – viết”. Phân môn Tập đọc trong trường tiểu học có một ý nghĩa
rất to lớn. Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đọc
giúp trẻ chiếm lĩnh được mọi ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Thông
qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt. Việc dạy Tập đọc sẽ giúp các em hiểu biết
hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy
nghĩ một cách lô gic cũng như có hình ảnh về các sự vật xung quanh cuộc sống của
chúng ta. Như vậy dạy Tập đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ
giáo dưỡng, giáo dục tình cảm chuẩn mực đạo
đức và phát triển trí tuệ tư duy.
Qua năm tôi dạy tôi
nhận thấy kĩ năng đọc của học sinh tiểu học nói chung và đặc biệt là học sinh lớp
3 tôi chủ nhiệm chưa cao. Một số em đọc bài chưa được trôi chảy, tốc độ đọc còn
chậm, phát âm sai do phương ngữ đọc sai nhiều ở những tiếng có âm ch / tr; n/l;
s/x; thanh hỏi / thanh ngã. Đa số học sinh đọc đúng văn bản nhưng chưa có sự đồng
đều về âm lượng và chưa hiểu được nội dung của câu văn, đoạn văn. Số em biết đọc
diễn cảm một văn bản chưa nhiều, ngắt nghĩ giữa các từ, cụm từ, cách ngắt nhịp
thơ, cách thể hiện giọng đọc hay trong một bài văn, bài thơ còn hạn chế. Giáo viên
chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học; hình thức tổ chức chưa linh hoạt; sử
dụng đồ dùng dạy học hiệu quả chưa cao; đôi lúc con rập khuôn, máy móc. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân làm cho học sinh không chủ động, tích cực trong
học tập nên chưa nâng cao được chất lượng môn Tiếng việt nói chung và kĩ năng đọc
nói riêng.
Là một giáo viên tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: làm thế nào để nâng
cao kĩ năng đọc cho học sinh giúp các em thuận lợi hơn trong quá trình học tập
các môn học. Vì vậy, tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học
sinh lớp 3”
5.2. Nội dung sáng kiến:
A. Tình hình lớp
Thuận lợi:
- Nhà trường, tổ chuyên môn thường tổ chức chuyên
đề, thao giảng, dự giờ để giáo viên trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình giảng dạy.
-
Đội ngủ giáoviên
có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng
giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những Khó khăn.
-
Các em học
sinh đa số rất ngoan, nghe lời cô giáo, thích khích lệ động viên, khen thưởng
-
Được sự
quan tâm về việc học tập của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm cùng với giáo
viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách, vở, đồ dùng
học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng
như học tập ở nhà.
Khó khăn:
-
Học sinh ít đọc sách, chưa có thói quen say mê đọc sách. Nếu có đọc thì học
sinh cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc qua loa, đại khái, đọc cho có cho xong mà
không chịu tìm hiểu.
- Đa số
học sinh đọc chưa lưu loát , còn đánh vần, chưa ý thức được thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm.
- Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Khả năng
ngôn ngữ của các em còn yếu, tư duy của các em chưa cao. Các em thường phát âm
lẫn các phụ âm đầu, vần, thanh.
b. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học
sinh lớp 3
Từ thực trạng và nguyên nhân nêu
trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng các biện pháp như sau:
1. Biện pháp 1: Rèn kĩ năng đọc
đúng cho học sinh
* Mục tiêu của biện pháp
Chức
năng của môn Tập đọc là luyện đọc nên rèn cho học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy
là mục tiêu đầu tiên của tiết học.Vì vậy đây là biện pháp đầu tiên mà tôi áp
dụng và áp dụng trong tất cả các giờ tập đọc.
* Cách thực hiện biện pháp
1.1 Rèn phát
âm đúng từ chứa tiếng khó
Để
rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát
hiện lỗi và sửa lỗi cho học sinh. Giáo viên cần nắm được cụ thể học sinh nào hay
phát âm sai và sai ở chỗ nào để kịp thời sửa chữa.
Rèn
cho học sinh có ý thức nói và đọc thật đúng, chuẩn.Luôn luôn nhắc nhở các em rèn
đọc đúng không chỉ trong các tiết rèn đọc mà cả trong các giao tiếp hàng ngày.
Trong
giờ tập đọc giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh kèm cặp nhau đọc, đọc trong
nhóm, giáo viên yêu cầu học sinh đọc tốt kèm cho học sinh đọc chưa tốt.Nhắc nhở
các em cùng bảo nhau có ý thức phát âm đúng trong mọi tình huống. Tập cho học
sinh quan sát lời nói của giáo viên, của bản thân mình để đọc, nói cho đúng.
Trong các giờ Tập đọc giáo viên gọi học sinh đọc khá, tốt đọc bài và yêu cầu
các em đọc thầm theo, tìm những tiếng khó đọc, các phụ âm hay đọc sai. Gọi học
sinh phát hiện và phát âm giáo viên kết luận và sửa lại cách phát âm cho các
em.
Ví
dụ:
Trong
lớp có nhiều em khi đọc luôn phát âm sai âm “n” thành “l”.Trường hợp này giáo viên gọi học sinh khá phát âm
chuẩn đọc trước, các em phát âm sai nghe, đọc lại, đọc nhiều lần cho đến khi
đọc đúng.Trong những tiết học khác, giáo viên cho các em đó đọc nội dung hoặc
yêu cầu của bài, chú ý xem các em đó có mắc lỗi nữa không để kịp thời uốn nắn
hoặc sửa chữa.
1.2 Rèn đọc
đúng câu, đoạn văn
Để
đọc đúng, đọc hay các câu văn dài, đoạn văn tiêu biểu,...giáo viên phải nói đến
tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Cho học
sinh biết khi mình đọc thành tiếng là người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho
người khác hoặc cho cả hai.
Trong
các giờ tập đọc, kể chuyện giáo viên chú ý nhận xét sửa sai cho học sinh về
cách đọc, cách kể chuyện thật chu đáo để làm cơ sở cho việc đọc bài mới được
tốt hơn.Khi đọc nối tiếp câu phát hiện ra học sinh nào chưa đúng cần sửa chữa
ngay.Khi đọc phải diễn cảm được ý trọn vẹn, không được bỏ ngỏ.
Khi
đọc nối tiếp đoạn theo tôi nên cho các em một số câu hỏi gợi mở để các em thảo
luận tìm ra cách đọc cho mỗi đoạn (hoặc giọng đọc của các nhân vật) sau đó giáo
viên sẽ là người chốt lại cách đọc. Khi đọc đoạn gọi một học sinh đọc, gọi học
sinh nhận xét bạn và đọc lại, chú ý đọc ngắt, nghỉ và nhấn giọng ở các từ ngữ gợi
tả, gợi cảm cho phù hợp.
Ví
dụ:
Bài
“Cậu bé thông minh”- SKG Tiếng Việt 3 Tập 1 Trang 4. Sau đây là cách đọc một số
câu:
Ngày xưa,/ có một ông vua muốn
tìm người tài ra giúp nước.// Vua hạ lệnh cho mỗi làng trong vùng nọ/ nộp một
con gà trống biết đẻ trứng,/ nếu không có thì cả làng phải chịu tội.// ( giọng
đọc chậm rãi).
Cậu bé kia,/ sao dám đến đây
làm ầm
ĩ ?
// (đọc với giọng oai nghiêm). Thằng bé này láo, / dám đùa với trẫm! / Bố ngươi là đàn ông thì đẻ sao được?// (giọng bực
tức, lên giọng ở cuối câu).
Muôn tâu, / vậy sao Đức vua lại
hạ lệnh cho làng con/ phải nộp gà trống biết đẻ trứng ạ? // (Đọc với giọng thể
hiện sự lễ phép, bình tĩnh, tự tin).
-
Giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp đoạn, yêu cầu cả lớp lắng nghe và tìm câu
dài, khó đọc.
-
Sau khi học sinh phát hiện được câu dài, khó đọc giáo viên ghi vào bảng phụ rồi
gọi 1, 2 học sinh đọc.
Giáo
viên tổ chức cho học sinh nhận xét thông qua hệ thống câu hỏi gợi ý: Em nào có
ý kiến khác? Bạn đọc như thế nào? ... Mời một vài em đọc lại.
Học
sinh đọc và ngắt hoặc nghỉ hơi để các bạn khác nhận xét bổ sung và giáo viên
thống nhất cách đọc.
Nhằm
luyện kĩ năng đọc thầm và tập trung theo dõi người khác đọc để phối hợp nhịp
nhàng khi đọc lời nhân vật tôi cho học sinh thi đọc phân vai. Với bài tập đọc
có lời nhân vật tôi thường dành 2 – 3 phút cho các em thi đọc.
Ví
dụ: Bài “Cuốn sổ tay” – SGK Tiếng Việt 3 – tập 2
-
Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm có 4 em. Yêu cầu các em đọc
theo hình thức phân vai. Giáo viên mời 1 nhóm đọc trước lớp, cả lớp lắng nghe
và nhận xét cách đọc của từng nhân vật sau đó 2 đến 3 nhóm thi đọc để chọn ra
nhóm, cá nhân đọc hay nhất.
Trong
giờ dạy giáo viên cũng đừng quên nhận xét, tuyên dương, khen ngợi những em đọc
tốt để khuyến khích các em đọc tốt hơn nữa ở những tiết học sau.
1.3 Rèn đọc
lưu loát, trôi chảy toàn bài
Giáo
viên cũng nên cho những em học sinh này luyện đọc cá nhân nhiều lần, đọc cả yêu
cầu bài tập hoặc nội dung ở những môn học khác như Toán, Tập làm văn, Luyện từ
và câu,...
Qua
mỗi lần tiến bộ của các em giáo viên đừng quên dành những lời khen, động viên
khích lệ các em dù đó chỉ là kết quả nhỏ, vì đó là những thành công ban đầu của
các em mà mỗi giáo viên cần trân trọng.
2. Biện pháp 2: Rèn học sinh
đọc kết hợp với giải nghĩa của từ
* Mục tiêu của biện pháp
Ở
lớp 3, phần giải nghĩa từ khó được giải nghĩa song song cùng với bước luyện đọc
hoặc đan xen vào phần tìm hiểu nội dung bài.Việc các em hiểu nghĩa của từ cũng
là biện pháp giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm và cảm thụ được các văn bản.
* Cách thực hiện biện pháp
Có
rất nhiều cách để giáo viên giải nghĩa từ cho học sinh vừa dễ nhớ, vừa dễ hiểu
và luyện đọc đúng sau khi đã hiểu nghĩa của từ. Giáo viên có thể chọn nhiều
cách để giải nghĩa: giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa, bằng từ trái nghĩa, bằng tranh
minh họa, bằng cách mô tả hoặc bằng cách đặt câu với từ cần giải nghĩa.
Ví
dụ 1:
Khi
các em luyện đọc bài “Cuốn sổ tay”, để giải nghĩa từ “diện tích” tôi giúp các
em hiểu từ mới này bằng cách đọc giải nghĩa trong sách giáo khoa: “diện tích”
nghĩa là bề mặt của sự vật.
Ví
dụ 2:
Hoặc
khi giải nghĩa từ “quả cầu giấy” trong bài “Cùng vui chơi”- SGK Tiếng Việt 3,
tập 2 - tôi cho học sinh quan sát quả cầu giấy để giải thích: Là đồ chơi gồm
một đế nhỏ hình tròn, trên mặt cắm lông chim hoặc một túm giấy mỏng, dùng để đá
chuyền qua chuyền lại cho nhau.
-
Hoặc tôi muốn giải nghĩa từ “già làng” – bài “Nhà Rông ở Tây Nguyên” tôi cho
học sinh xem ảnh người già vùng dân tộc để học sinh hiểu già làng là người cao
tuổi, có uy tín được dân làng cử ra điều khiển công việc chung ở các vùng dân
tộc thiểu số Tây Nguyên.
Ví
dụ 4:
-
Khi tôi muốn học sinh hiểu từ “Quốc gia” – Bài “Cuốn sổ tay”, tôi cho các em
đọc phần chú giải trong sách giáo khoa sau đó yêu cầu các em đặt câu với từ đó.
3. Biện pháp 3: Rèn đọc đúng
tiến tới bước đầu rèn đọc hay (diễn cảm)
* Mục tiêu của biện pháp
Đọc
diễn cảm là một yêu cầu được đặt ra khi đọc những văn bản có những yếu tố nghệ
thuật. Đó là việc đọc thể hiện kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường
độ giọng... để thể hiện đúng tư tưởng, tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài
đọc, đồng thời thể hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc qua bài đọc.
Để đọc diễn cảm thì người đọc phải làm chủ được tốc độ đọc, chỗ ngắt giọng,
biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi cảm, gợi tả, biết đọc đúng ngữ điệu khi gặp
câu hỏi, câu cảm...
Với
đoạn văn các em phải biết thể hiện đúng ngữ điệu của câu cảm, nhấn giọng ở một
số từ ngữ tả và biết ngắt giọng ở câu văn dài giúp người nghe hiểu được cảm xúc
của tác giả.
* Cách thực hiện biện pháp
Sau
khi học sinh hiểu nội dung bài đọc thì các em sẽ biết cách diễn đạt thích hợp
dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình thành kỹ năng đọc theo các bước:
-
Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở sâu ở chỗ ngưng nghỉ để lấy hơi khi đọc.
-
Rèn cường độ giọng đọc – Luyện đọc to (bắt đầu từ lớp 1).
-
Luyện đọc chính âm (đã trình bày ở phần đọc đúng).
-
Luyện đọc diễn cảm:
+
Giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận vì sao đọc như vậy. Có thể đọc
phân vai để làm sống lại nhân vật của bài đọc.
-
Luyện đọc cá nhân.
Trong
chương trình tập đọc lớp 3, phần lớn các bài tập đọc là các bài văn xuôi hay
các câu chuyện. Để giúp học sinh đọc hay được những văn bản này trước hết giáo
viên cần tìm hiểu kĩ bài để xác định giọng đọc cho phù hợp.
* Đối với các bài văn xuôi
-
Giáo viên cần xác định để đọc hay được bài đọc đó thì cần chú ý đến những yếu
tố cơ bản như nhấn giọng những từ ngữ nào hay đọc với giọng ra sao thì phù hợp
với cảm xúc trong bài.
-
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hay thông qua việc dẫn dắt gợi mở để học sinh
thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh cảm xúc trong
bài.
-
Giáo viên viết đoạn văn ra băng giấy hoặc bảng phụ (chuẩn bị sẵn) gắn lên bảng
để học sinh tìm ra cách đọc. Gọi 1, 2 em đọc tốt đọc diễn cảm. Nếu học sinh
chưa đọc được thì giáo viên đọc mẫu cho các em.
Ví
dụ: câu trong bài “Ông ngoại” cần nhấn giọng các từ ngữ được gạch chân nhằm nêu
bật được vẻ đẹp của bầu trời sắp vào thu:
“Trời xanh ngắt trên
cao, xanh như dòng sông trong trôi lặng lẽ
giữa những ngọn cây hè phố.”
Hay
trong câu: “Trước ngưỡng cửa của trường tiểu học tôi đã may mắn có ông
ngoại – Thầy giáo đầu tiên của tôi.” Cần
nhấn giọng ở các từ ngữ được gạch chân để thể hiện tình cảm biết ơn của bạn nhỏ
đối với ông ngoại - người thầy giáo đầu tiên của bạn.
*
Đối với câu chuyện xuất hiện những nhân vật
Những
câu chuyện xuất hiện những nhân vật thì cần đọc sao cho giọng đọc phù hợp với
tính cách nhân vật trong câu chuyện là không thể thiếu.
Giáo
viên cần hướng dẫn học sinh cụ thể trong từng câu chuyện.Cần xác định được truyện
có những nhân vật nào.Trước tiên cần biết đọc phân biệt lời dẫn chuyện với lời
của các nhân vật trong truyện.Sau đó tìm hiểu tính cách của từng nhân vật ra
sao để có giọng đọc thích hợp và thay đổi giọng đọc như thế nào trong từng văn
cảnh cho phù hợp với diễn biến của câu chuyện.Bước đầu biết làm chủ được giọng
đọc đối với ngữ điệu, tốc độ, đọc cao giọng hay thấp giọng, âm sắc nhằm diễn tả
đúng nội dung bài.
Ví
dụ:
Trong
câu chuyện “Cậu bé thông minh”, giáo viên cần cho học sinh nêu được và đọc được
các giọng đọc khác nhau của hai nhân vật và người dẫn chuyện. Đó là:
-
Giọng người dẫn chuyện: Chậm rãi ở đoạn giới thiệu đầu truyện; lo lắng khi cả
làng cậu bé nhận được lệnh của nhà vua; vui vẻ thoải mái, khâm phục khi cậu bé
lần lượt qua được những lần thử tài của nhà vua.
-
Giọng cậu bé: Bình tĩnh, tự tin.
-
Giọng nhà vua: Nghiêm khắc.
*
Đối với các câu cảm, câu hỏi
Đối
với các câu cảm, câu hỏi trong bài giáo viên cần hướng dẫn các em đọc đúng thì
mới bộc lộ được cảm xúc của từng nhân vật và của tác giả.
-
Giáo viên hướng dẫn học sinh cần đọc đúng ngữ điệu khi đọc câu hỏi như nhấn
giọng từ để hỏi, cao giọng ở cuối câu.
Ví
dụ: Câu trong bài “Các em nhỏ và cụ già”:
“Thưa cụ, chúng cháu có thểgiúp
gì cụ không ạ?” cần đọc nhấn giọng từ ngữ giúp gì cụ và đọc cao giọng ở cuối câu.
-
Đối với câu cảm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc giọng phù hợp để biểu lộ
sắc thái tình cảm trong câu đó.
Ví
dụ: Câu trong bài “Cuộc chạy đua trong rừng” có lời của nhân vật Ngựa Con: “Cha yên tâm đi. Móng của con chắc chắn lắm.
Con nhất định sẽ thắng mà!”. Cần nhấn giọng khi
đọc các từ ngữ: yên tâm đi, chắc chắn lắm, nhất định và
thể hiện giọng tự tin.
Nếu
học sinh đọc chưa hay giáo viên có thể đọc mẫu cho học sinh để học sinh nghe giọng
đọc tự điều chỉnh.
*
Đối với văn bản khác
Một
số văn bản khác trong chương trình như: “Báo cáo kết quả tháng thi đua noi
gương chú bộ đội”, “Đơn xin vào Đội”, “Chương trình xiếc đặc sắc”,...Các văn
bản này thường là cung cấp thông tin, mẫu, nội dung báo cáo hay quảng cáo. Đối
với thể loại văn bản này, không những giáo viên hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ đúng
sau các dấu chấm, dấu phẩy và nghỉ hơi lâu hơn sau mỗi phần mà cần xác định
giọng đọc sao cho phù hợp với nội dung thông báo làm rõ thông tin cơ bản giúp
người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản.
Ví
dụ: Trong bài “Chương trình xiếc đặc sắc”, Khi đọc đoạn giới thiệu các tiết mục
mới:
Nhiều tiết mục mới ra mắt lần
đầu//
Xiếc thú vui nhộn,/
di dỏm.//
Ảo thuật biến hóa bất
ngờ,/ thú vị.//
Xiếc nhào lộn khéo léo,/
dẻo dai.//
Giọng
đọc đoạn này vui nhộn, rõ từng từ ngữ, từng câu, ngắt giọng ngắn, rành rọt.Chú
ý nhấn giọng các từ ngữ nêu bật sự hấp dẫn của các tiết mục mới.
*
Luyện đọc về tốc độ đọc
Để
chữa lỗi thể hiện về tốc độ đọc giáo viên cần hướng dẫn:
-
Khi đọc văn bản có nội dung miêu tả một sự việc dồn dập khẩn trương thì phải
đọc nhanh. Nhưng không có nghĩa là các em phải đọc một cách liến thoắng mà đọc
với tốc độ nhanh hơn bình thường để người nghe có thể theo dõi được.
Ví
dụ: Bài “Hội đua voi ở Tây Nguyên” giáo viên hướng dẫn học sinh đọc với tốc độ
nhanh, khẩn trương:
“Đến giờ xuất phát, chiêng
trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy.Cái dáng lầm lì, chậm chạp
thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt.
”
-
Khi đọc một câu chuyện, một bài văn xuôi trữ tình chan chứa cảm xúc cần phải
đọc chậm rãi, thong thả.
4. Biện pháp 4: Rèn đọc dựa
trên từng đối tượng học sinh
* Mục tiêu của biện pháp
Trong
dạy học nói chung, phân hóa từng đối tượng học sinh là việc làm hết sức cần
thiết để có phương pháp và hình thức dạy học hợp lí. Đối với việc rèn đọc cho
học sinh cũng vậy, có những em đọc chậm, chưa trôi chảy thì yêu cầu đối với các
em lại khác, có những em đọc khá tốt, trôi chảy thì lại yêu cầu ở mức cao hơn.
* Cách thực hiện biện pháp
4.1 Đối với học sinh đọc chậm,
phát âm chưa đúng
-
Giáo viên xếp học sinh ngồi đầu bàn để tiện việc rèn đọc cho học sinh.
-
Giáo viên cần hướng dẫn các em đọc theo hình thức cá nhân; luyện đọc tiếng khó,
từ khó nhiều lần để học sinh đọc đúng.
-
Giáo viên hướng dẫn rèn luyện đọc nhiều lần để các em làm quen với mặt chữ.
-
Ngoài việc đọc đúng giáo viên cần xây dựng nếp học, thói quen đọc tiếp sức câu,
đoạn.
-
Giáo viên tổ chức cho học sinh khá, giỏi kèm thêm học sinh đọc chậm chưa phát
âm đúng trong giờ Tập đọc (hoặc trong khi đọc sách ở Thư viện).
-
Giáo viên vận dụng phương pháp luyện đọc theo mẫu, yêu cầu học sinh nghe và
nhìn; giáo viên đọc mẫu thật chuẩn, học sinh chú ý nghe và nhìn miệng giáo viên
để đọc theo. Biện pháp này giáo viên cần giảng, phân tích một cách đơn giản khi
học sinh phát âm để phát âm đúng: x⁄s; r/d/gi ; ch/tr ; l/n...để học sinh nhận
diện nhằm khắc sâu trí nhớ cách đọc đúng.
Ví dụ: phát âm “ưu tiên ” chứ
không phải “iu tiên ”
-
Hướng dẫn học sinh phát âm đúng thanh hỏi, ngã
Ví
dụ: “nỗi buồn” chứ không phải “nổi buồn”
4.2 Đối với học sinh ngắt nghỉ hơi chưa hợp lí
-
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc ngắt hơi sau dấu phẩy hoặc sau các cụm từ,
nghỉ hơi sau dấu chấm. Giọng đọc rõ
ràng, phát âm chuẩn.
Ví
dụ: Bài “Nhớ lại buổi đầu đi học” - SGK Tiếng Việt lớp 3 Tập l trang 51. Hướng
dẫn học sinh ngắt, nghỉ hơi như sau:
Hằng năm, / cứ vào cuối thu, / lá ngoài đường rụng nhiều,
/ lòng tôi lại náo nức/ những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.//
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy / nảy nở trong lòng tôi / như mấy
cánh hoa tươi / mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.//
-
Với các bài thơ giáo viên lưu ý các con cách ngắt hơi, nghỉ hơi theo nhịp thơ
Ví
dụ: Trong bài thơ “Bận”- SGK Tiếng Việt lớp 3 tập 1 trang 59
Ngoài
việc đọc đúng, chính xác, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh cách nhấn
giọng và ngắt nhịp giữa các dòng thơ đúng chỗ và thể hiện giọng đọc đúng với
nội dung.
Trời thu / bận xanh/ Còn con / bận bú /
Sông Hồng / bận chảy/ Bận ngủ / bận chơi /
Cái xe / bận chạy / Bận/ tập khóc cười /
Lịch bận tính ngày.// Bận/ nhìn ánh sáng. //
Với
bài này đọc với giọng vui, khẩn trương, thể hiện sự bận rộn của mọi vật, mọi
người.
-
Giáo viên sử dụng phương pháp luyện đọc theo mẫu. Giáo viên đọc mẫu, học sinh
theo dõi, đọc lại.
4.3 Đối với học sinh đọc vẹt,
chưa hiểu nội dung
-
Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà, tìm hiệu nội dung của bài
theo từng câu hỏi ở sách giáo khoa.
-
Giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc thầm. Đây là hình thức đọc hiểu mà
đòi hỏi học sinh phải có tính tự giác. Trước khi cho học sinh đọc thầm, giáo
viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng rõ việc đọc - hiểu
(đoạn văn hay khổ thơ nào, đọc để biết, hiểu, nhớ hay suy nghĩ để trao đổi về
điều gì,...)
1. Đối với học
sinh đọc lưu loát, trôi chảy
-
Bên cạnh việc rèn học sinh đọc chưa tốt, giáo viên không thể quên các em đã đọc
được mà cần nâng từ mức độ đọc khá lên đọc tốt.
-
Ngoài việc đọc đúng, giáo viên cần phải xây dựng cho học sinh có thói quen đọc
tiếp sức đoạn và tự giác học tập, phát huy tính tích cực trong học tập. Tạo mọi
điều kiện để học sinh được tham gia vào tiết học (trả lời câu hỏi, phát biểu về
nghĩa của từ, mở rộng từ, tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, đặt câu,...). Đề xuất
cách đọc diễn cảm sau khi hiểu từ, hiểu nghĩa; biết lắng nghe và nhận xét ý
kiến của bạn, được rèn đọc đúng và diễn cảm, tham gia các trò chơi, luyện đọc,
đọc theo cách phân vai.
Ví
dụ: Bài “Người liên lạc nhỏ”- SGK Tiếng Việt lớp 3 tập l trang 112.
Giáo
viên hướng dẫn cho học sinh đọc diễn cảm:
-
Thể hiện giọng đọc qua từng đoạn:
-
Hướng dẫn học sinh đọc phân biệt lời người dẫn chuyện, bọn giặc, Kim Đồng, ông
Ké, nhằm luyện đọc diễn cảm cho học sinh.
-
Lời ông Ké thân mật, vui vẻ: Nào bác cháu ta lên đường!
-
Lời Kim Đồng trong đoạn đóng kịch để lừa lũ giặc: bình tĩnh, thản nhiên, không
hề tỏ ra bối rối, sợ sệt khi trả lời bọn lính (Đón thầy
mo về cúng cho mẹ ốm); tự nhiên, thân tình khi gặp ông Ké (Già ơi! Ta đi thôi! Về nhà cháu còn xa đấy!)
Đọc
câu văn: Mắt giặc tráo trưng mà hóa thong manh (giọng
giễu cợt bọn giặc; đọc câu miêu tả “Những tảng đá ven đường sáng
hẳn lên như vui trong nắng sớm”, với giọng vui.
-
Trong tiết học, giáo viên giữ vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh luyện đọc và
tìm hiểu bài; giáo viên nghe và sửa chữa cách đọc của từng học sinh nhưng không
áp đặt và gò ép.
4.5 Đối với học sinh đọc hay
(diễn cảm)
Giáo
viên cần cho học sinh khá giỏi đọc mẫu để phát huy năng lực đọc cho các em.
Giáo
viên khuyến khích cách đọc sáng tạo của học sinh, tránh áp đặt một cách đọc
theo khuôn mẫu.
Sau
khi tìm hiểu nội dung bài, giáo viên cần mở rộng nội dung bài; đặt câu hỏi mở
rộng phù hợp với nội dung bài để học sinh suy nghĩ, phán đoán, tạo cho học sinh
có cơ hội phát huy năng lực tìm tòi, sáng tạo trong học tập. Có thể ra thêm về
biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn bản đọc từ đó giúp các em hình
thành và phát triển năng lực đọc trong các lớp học trên.
5. Biện pháp 5: Áp dụng một số
phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực theo hướng phát huy năng lực của học
sinh
* Mục tiêu của biện pháp
Kích
thích tư duy sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh. Tạo không khí học
tập sôi nổi, vui vẻ để học sinh luyện đọc có hiệu quả.
* Cách thực hiện biện pháp
Tôi
đã chọn lựa những kĩ thuật dạy học tích cực sau:
5.1 Kĩ thuật khăn trải bàn
Ví
dụ: Bài “Cuộc chạy đua trong rừng”- SGK Tiếng Việt lớp 3 tập 2
Khi
hướng dẫn học sinh luyện đọc các đoạn giáo viên sử dụng kĩ thuật khăn trải
bàn.Giáo viên chia lớp thành các nhóm 4. Các nhóm 4 của Tổ 1 nêu cách đọc của
đoạn l, các nhóm 4 của Tổ 2 nêu cách đọc của đoạn 2, các nhóm 4 của Tổ 3 nêu
cách đọc của đoạn 3, các nhóm 4 của Tổ 4 nêu cách đọc của đoạn 4. Các nhóm dùng
bảng phụ, chia bảng phụ làm 5 phần, các thành viên của từng nhóm ghi nhanh ý
kiến của cá nhân mình vào ô của mình trên bảng phụ này.Sau đó ý tổng hợp được
ghi ở giữa bảng. Nhóm trưởng sẽ nêu ý chung của cả nhóm, các nhóm khác bổ sung
và giáo viên sẽ chốt lại cách đọc đúng cho từng đoạn.
5.2 Kĩ thuật tia chớp
Sử
dụng kĩ thuật tia chớp trong rèn đọc cho học sinh tôi thấy rất hiệu quả thông
qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như tia
chớp) ý kiến của mình. Mặt khác kĩ thuật dạy học này còn cải thiện tình trạng
giao tiếp của các em.
Ví
dụ: Bài “ Buổi học thể dục”- SGK Tiếng Việt lớp 3 tập 2
Khi
luyện đọc câu: “Nen-li rướn người lên và chỉ còn cách xà
ngang hai ngón tay. “Hoan hô!Cố tí nữa thôi!”- Mọi người reo lên. Lát sau, Nen-li
đã nắm chặt được cái xà.”
Bằng
kĩ thuật tia chớp giáo viên tung ra câu hỏi: Để đọc được tốt các câu văn trên
con cần ngắt nghỉ hơi ở đâu và nhấn giọng vào những từ ngữ nào ?
Nhanh
như tia chớp nhiều học sinh nêu được ý kiến của mình để có thể đưa ra cách đọc
đúng như sau: “Nen-li rướn người lên/ và chỉ còn cách xà ngang hai
ngón tay.// “Hoan hô!/ Cố tí nữa thôi!”/- Mọi người reo lên. Lát sau,/ Nen-li đã nắm chặt được cái xà.//”
5.3 Phương pháp Bàn tay nặn bột
Khi
dạy luyện đọc cho học sinh tôi chọn lựa để áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột.
Tuy nhiên tôi không áp dụng cả 5 bước của phương pháp này mà tôi chỉ áp dụng
một vài bước nhỏ của phương pháp và tôi thấy có hiệu quả rõ rệt.
Ví
dụ: Khi dạy bài “Cuộc chạy đua trong rừng”, sau khi tôi đọc mẫu xong toàn bài
tôi đặt câu hỏi nêu vấn đề theo hướng mở cho học sinh:
“Con thấy câu chuyện cô vừa đọc
có hay không?
Vậy chúng ta cần đọc thế nào để
người nghe thấy được cái hay và ý nghĩa của câu chuyện?”
Sau
đó tôi cho học sinh bộc lộ quan điểm ban đầu của mình và tôi viết các ý kiến
của em lên một góc bảng. Tôi nói với các em rằng chúng ta sẽ cùng nhau tháo gỡ
và giải đáp các ý kiến của các em trong toàn bộ tiết học.
Kết
thúc tiết học tôi nêu kết luận của mình về cách đọc toàn bài và đối chiếu với ý
kiến ban đầu của các em.
Như
vậy tôi đã áp dụng 3 bước của phương pháp bàn tay nặn bột đó là:
Bước
1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
Bước
2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh.
Bước
3: Giáo viên nêu kết luận.
Áp
dụng phương pháp này tôi thấy học sinh học tập rất hứng thú, các em thấy mình
là chủ thể, là nhân vật không thể thiếu của tiết học. Suy nghĩ đó giúp các em
sáng tạo và rất chủ động trong tiết học.
5.4 Tạo hứng thú cho học sinh
khi rèn đọc bằng hình thức chơi trò chơi
-
Mục đích của việc tổ chức chơi trò chơi trong tiết tập đọc là tạo không khí học
tập sôi nổi, vui vẻ, nhưng phải rèn đọc có hiệu quả.
Ví
dụ: Bài “Ông tổ nghề thêu” - SGK Tiếng Việt lớp 3 tập 2
Đoạn
l, 2 gồm 8 câu, tôi cho học sinh chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm 4 học sinh. Sau đó
cho các em thi đọc tiếp sức mỗi em 2 câu.Các em rất hào hứng và đọc bài rất tốt
mà tiết học thêm phần sinh động.
6. Biện pháp 6: Kết hợp rèn đọc
ở tất cả các môn học
* Mục tiêu của biện pháp
Việc
kết hợp rèn đọc đồng bộ ở tất cả các môn học là việc làm vô cùng cần thiết vì
giáo viên không những tạo được sự liên kết trong dạy các môn học mà còn làm
tiền đề cho các em làm quen với phương pháp dạy học tích hợp liên môn ở các cấp
học tiếp theo.
* Cách thực hiện biện pháp
Khi
dạy môn Tập đọc nói riêng và các môn học khác nói chung, tôi đều chú trọng rèn
đọc cho học sinh: rèn mọi lúc, mọi nơi, mọi tiết học.
Ví
dụ:- Trong giờ Toán tôi cho các em rèn đọc bằng hình thức đọc đề bài của các
bài tập đặc biệt là các bài toán có lời văn.
-
Trong giờ chính tả tôi cho các em đọc bài chính tả mà các em sẽ viết trong tiết
học để rèn đọc cho các em.
-
Trong giờ Tập làm văn tôi rèn đọc cho các em bằng hình thức yêu cầu các em đọc
đề bài hay đọc chính bài viết của mình,
5.3. Khả năng áp dụng của
sáng kiến:
Giải pháp này có thể áp dụng
cho học sinh lớp 3, cấp tiểu học
6. Những
thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên cần
nghiên cứu kĩ bài, chuẩn bị đồ dùng dạy học hợp lí, chu đáo, sáng tạo.
- Nhắc nhở học
sinh chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ.
- Giáo viên tâm
huyết với nghề, nhiệt tình trong giảng dạy, có năng lực truyền thụ kiến thức tốt,
yêu thương học sinh như chính con mình. Sự nổ lực của học sinh trong học tập.
Ngoài ra cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học là những điều kiện không thể
thiếu trong việc giảng dạy cho các em.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có
thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
8.1 Kết quả đạt được:
- Khi tiến hành các biện
pháp trên, tôi thấy lớp đã có chuyển biến và tiến bộ rõ rệt:
+ Nó làm thay đổi không
khí lớp học
+ Học sinh nhanh nhen, cởi
mở hơn.
+ Tiếp thu bài tự giác, tích
cực hơn
+ Hệ thống và củng cố kiến
thức.
+
Các em sinh hứng thú và chủ động hơn trong việc luyện đọc và cảm thấy yêu thích
phân môn này.Số học sinh đọc chưa đạt yêu cầu đã giảm rất nhiều, số học sinh
đọc tốt đã được nâng lên.
+ Tạo điều kiện cho học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ, giảm độ mỏi mệt.
+ Về phía bản thân tôi không
bị lệ thuộc vào sách giáo khoa, tài liệu tham khảo.Tôi đã mạnh dạn đổi mới
phương pháp dạy học.Đặc biệt là tôi thấy mình hứng thú hơn rất nhiều trong
giảng dạy, giảm áp lực với học sinh.
+ Tôi thấy rất vui, khi học
sinh của mình có tiến bộ, không những về kiến thức mà các em cong trở nên vui vẻ
khi tieps nhận kiến thức, đáp ứng mục tiêu: Giáo dục toàn diện cho học sinh
ngay từ bậc học đầu tiên mà bộ GD – ĐT đề ra.
Kết quả của biện pháp rn kĩ năng đọc cho học
sinh lớp 3
* Khảo sát sau khi thực hiện biện
pháp:
1. Lỗi phát âm
Mô tả tiếng, từ dễ lẫn |
Số học sinh của lớp |
Khảo sát trước khi thực hiện đề tài |
Khảo sát sau khi thực hiện đề tài |
||||||
Học sinh phát âm đúng |
Học sinh phát âm sai |
Học sinh phát âm đúng |
Học sinh phát âm sai |
||||||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
||
Tiếng có phụ âm đầu “l” và “n” |
21 |
15 |
71,4 |
6 |
28,5 |
20 |
95,2 |
1 |
4,8 |
Tiếng chứa vần “uyên” |
21 |
12 |
57,1 |
9 |
42,8 |
20 |
95,2 |
1 |
4,8 |
Tiếng chứa thanh “hỏi” |
21 |
13 |
61,9 |
8 |
38,2 |
20 |
95,2 |
1 |
4,8 |
Tiếng chứa vần “anh” |
21 |
16 |
76,1 |
5 |
23,8 |
21 |
100 |
0 |
0 |
2. Lỗi đọc và hiểu văn bản
Mô tả |
Số học sinh của lớp |
Trước khi thực hiện đề tài |
Sau khi thực hiện đề tài |
||
Học sinh mắc lỗi theo mô tả |
% |
Học sinh mắc lỗi theo mô tả |
% |
||
Đọc ê a, ngắc ngứ, chưa
lưu loát,... |
21 |
12 |
57,1 |
2 |
9,5 |
Đọc vẹt, không hiểu văn
bản |
21 |
13 |
61,9 |
2 |
9,5 |
Đọc đúng song chưa hay
(diễn cảm) |
21 |
18 |
85,7 |
2 |
9,5 |
Đọc đúng, đọc hay (diễn
cảm) |
21 |
16 |
76,2 |
14 |
66,7 |
Như
vậy so sánh với bảng khảo sát đầu năm học, tôi thấy số lượng học sinh đọc đúng,
đọc hay chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn. Số học sinh đọc sai, đọc ấp úng giảm nhiều.
Nhiều học sinh đầu năm đọc ngắt nghỉ hơi tùy tiện thì nay đã đọc đúng, đọc lưu
loát, biết ngắt hơi đúng ở sau những dấu câu và những câu dài, biết lên giọng
hạ giọng, nhấn giọng một cách hợp lí. Nhờ đọc đúng mà các em nắm tốt nội dung
bài học. Bên cạnh đó các em cũng đã thấy thích thú và yêu thích môn Tập đọc
hơn.
Vì
vậy tôi khẳng định: “Một số biện pháp rèn đọc cho
học sinh lớp 3” là đúng hướng và có hiệu quả.
8.2 Bài học kinh nghiệm:
Qua việc nghiên cứu một số biện pháp rèn kĩ năng
đọc cho học sinh lớp 3 Trường tiểu học Thanh Bình, tôi rút ra một số kinh nghiệm
như sau:
Để
làm tốt việc rèn đọc cho học sinh lớp 3 trong phân môn Tập đọc, theo tôi người
giáo viên phải làm tốt những việc sau:
-
Cả thầy và trò phải rèn tính kiên trì, bình tĩnh, chịu khó trong giảng dạy cũng
như trong học tập. Giáo viên luôn theo dõi từng bước đi của các em.
-
Giáo viên phải thường xuyên học tập, nâng cao nghiệp vụ, trình độ chuyên môn,
năng lực sáng tạo, nắm chắc khả năng nhận thức của từng đối tượng học sinh để
có phương pháp và hình thức giảng dạy cho phù hợp. Kết hợp triệt để và hiệu quả
các đối tượng giáo dục: học sinh với học sinh, nhà trường và gia đình.
-
Giáo viên nên tổ chức nhiều hình thức học tập khác nhau.
- Thường xuyên dự giờ học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/