1. Là tác giả đề nghị xét công nhận
sáng kiến: “Nâng cao chất lượng kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3”
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: năm học 2020 – 2021.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (phân môn Chính tả)
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần
đầu: 7.9.2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Môn Tiếng Việt đã góp phần đắc lực vào việc thực hiện
mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở Tiểu học theo đặc trưng của bộ môn. Nhà trường
rèn luyện cho các em năng lực, tư duy, phương pháp suy nghĩ; giáo dục cho các
em những tư tưởng, tình cảm lành mạnh, trong sáng. Đúng như Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nói: “Trường học phải có trách
nhiệm giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Thế hệ trẻ phải nói và viết tốt hơn
chúng ta, phải làm sao cho học sinh dần dần đi đến thói quen nói và viết đúng
Tiếng Việt”
Việc rèn luyện kĩ năng viết cho học sinh là điều cần
thiết, vì chữ viết của học sinh có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng học tập.
Nhưng trên thực tế, trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh Tiểu học
nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng còn viết sai nhiều lỗi chính tả. Với suy
nghĩ “ Phải làm thế nào để học sinh không
những viết được mà còn viết đúng, viết đẹp ?”. Quan trọng hơn nữa là sẽ đạt được
yêu cầu của mục tiêu giáo dục hiện nay. Từ những lí
do nêu trên nên tôi đã chọn đề tài: Nâng cao chất lượng
kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3” để nghiên cứu.
5.2. Nội dung sáng kiến:
a. Thực trạng của vấn đề
Sau khi học xong chương trình lớp 2, một số học sinh
đã tương đối nắm vững những kiến thức và kĩ năng đọc, viết để tiếp tục học lớp
3. Bên cạnh đó vẫn còn những học sinh kĩ năng đọc, viết chính tả chưa tốt. Điều
này ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của các em ở tất cả các môn học.
Quá trình trao đổi và nghiên cứu cùng với việc chấm
bài của học sinh, tôi nhận thấy học sinh chưa đúng những lỗi chính tả chủ yếu
sau:
*
Viết hoa tự do: Một số học sinh viết hoa tự do nhưng đầu câu lại
không viết hoa.
*Lỗi
về dấu thanh: Tiếng Việt
có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng), nhiều học sinh không phân biệt
được hai thanh hỏi/ngã mà số lượng
tiếng mang hai thanh này lại rất phổ biến.
Ví dụ: uống sửa (uống sữa), lẩn lộn (lẫn lộn), dổ dành
(dỗ dành), hướng dẩn (hướng dẫn), ngã ngữa (ngã ngửa), nghĩ ngơi (nghỉ
ngơi),...
*Lỗi
phụ âm đầu:
- v/d/gi: dũ công (vũ công), dữ dìn (giữ gìn), giày
giép (giày dép), ra dào (ra vào),...
- g/ng: ông goại (ông ngoại); bên goài (bên ngoài).
- ch/tr: kể truyện (kể chuyện), chuyện cười (truyện
cười), chuyện ngắn (truyện ngắn), nói truyện (nói chuyện),...
- c/k: céo co (kéo co), cũ cĩ (cũ kĩ), cồng cềnh/kồng
kềnh (cồng kềnh),...
- g/gh: bàn gế (bàn ghế), gê sợ (ghê sợ), ghánh hàng
(gánh hàng), ....
- ng/ngh: lắng nge (lắng nghe), nghĩ nghợi (nghĩ
ngợi), ngề ngiệp (nghề nghiệp), …
- s/x: cây xả (cây sả), sa sôi (xa xôi), …
*
Lỗi âm cuối, vần:
- ao/au: đao
tai (đau tay); rao đai (rau đay) - học sinh phát âm a ngắn thành a dài nên viết sai.
- an/ang, ân/
âng, ăn/ăng: cây bàn (cây bàng), bàng bạc (bàn bạc), lầng lược (lần lượt),
bân khuân (bâng khuâng), ăng uống (ăn uống), khuyên răng (khuyên răn), …
- at/ac, ăt/ăc,
ât/âc: lừa gạc (lừa gạt), mác mẻ (mát mẻ), gặc lúa (gặt lúa), nổi bậc (nổi
bật), lấc phấc (lất phất), giậc mình (giật mình),…
- ưi/ươi:
tưi cừi (tươi cười), con ngừi (con
người),…
- en/eng, ên/ênh: áo leng (áo len), rối reng (rối ren), lên
khên (lênh khênh), gập ghền (gập ghềnh), bồng bền (bồng bềnh),...
Để khắc phục được lỗi chính tả học sinh hay mắc phải ở
trên, giáo viên phải nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện ra những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến việc học sinh hay viết chưa đúng chính tả. Từ đó có biện pháp tốt
nhất hướng dẫn học sinh một cách cụ thể, có hiệu quả.
Số liệu khảo sát chất lượng đầu
năm như sau:
TSHS |
Viết đúng |
Viết chưa đúng ( 1 – 5 lỗi) |
Viết chưa đúng ( 6 – 11 lỗi) |
Viết chưa đúng (11 – 20 lỗi) |
44 |
4 |
10 |
15 |
15 |
Từ đó cho thấy học sinh mắc lỗi
chính tả rất nhiều, có những em còn viết chưa đúng 11 -20 lỗi trong một bài.
Nguyên
nhân mắc lỗi chính tả của học sinh như sau:
Thứ nhất: Do tác động của hoàn cảnh
sống:
Như ta đã biết, mỗi địa phương có những ngữ âm riêng
do phương ngôn mang lại. Hiện tượng phương ngôn này luôn tồn tại. Nó diễn ra
hàng ngày, tác động mạnh đến quá trình nhận thức của các em. Cụ thể là :
+ Trong phương ngữ khu vực từ miền Trung trở vào Nam
không có thanh ngã trong khi đó số
lượng từ mang 2 thanh này rất nhiều. Do đó đây là lỗi rất phổ biến trong học
sinh.
+ Trong khi một số vùng miền Bắc thường hay lẫn
lộn các âm đầu l/n ; ch/tr ; s/x ;
r/d/gi thì người miền Nam thường hay lẫn lộn v/d/gi ; âm cuối g/ng,
t/c. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng
(ví dụ : âm cờ ghi bằng 3 chữ cái c/k/qu, âm ngờ ghi bằng ng/ ngh, âm gờ ghi bằng g/gh,…).
Mặc dù đã có những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ nhưng đối với học
sinh Tiểu học thì rất dễ lẫn lộn.
+ Việc phát âm của người miền Nam hoàn toàn không phân
biệt các vần có âm cuối n/ng, c/t mà số từ mang các vần này không nhỏ.
Mặt khác, hai bán âm cuối i/u lại
được ghi bằng 4 con chữ i/y (dại/dạy) ;
u/o (lau/lao) do đó lỗi về âm
cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía Nam nói chung và học
sinh địa phương nói riêng.
Do đặc điểm tâm sinh lí hiếu động, hay bắt chước, nên
khi sống và học tập ở địa phương và đặc biệt là qua tiếp xúc với mọi người xung
quanh, bạn bè, trực tiếp sử dụng phương ngôn sẽ dễ hình thành ở các em tiếng
nói chung. Từ đó, các em vận dụng những ngôn ngữ mà mình biết để giao tiếp và
học tập, lâu dần thành quen nên rất khó sửa.
Ở gia đình, do cha mẹ và anh chị em là những người
thân luôn gần gũi với các em nên các em luôn chú ý học hỏi ở những người thân
của mình. Và vô tình khi nói chuyện với các em, họ sẽ sử dụng ngôn ngữ địa
phương, tạo điều kiện để các em nhanh chóng nắm bắt và sử dụng chúng.
Một nguyên nhân nữa cần phải kể đến đó là phụ huynh
học sinh chủ yếu là nông dân và làm nghề tự do nên sự quan tâm của phụ huynh
đến con em trong học tập còn ít. Nhiều phụ huynh còn đi làm ăn xa để con ở nhà
với ông bà, nhiều học sinh là con em gia đình khó khăn, đồ dùng sách vở còn
thiếu nên chất lượng học tập chưa cao.
Thứ hai: Do kĩ năng nghe của học sinh
chưa tốt:
Đặc điểm của ngôn ngữ Tiếng Việt là nói và nghe thế
nào thì viết thế ấy. Do học sinh còn nhỏ nên vốn từ ngữ còn hạn chế. Khi vào
một bài cụ thể, sẽ có nhiều từ ngữ mới mẻ mà các em mới tiếp xúc, vì kĩ năng
nghe của học sinh không tốt dẫn đến các em nắm bắt và hiểu sai từ khi mình vừa nghe
nên dẫn đến viết sai. Đặc biệt khi nghe, các em nghe không tốt, các em khó có
thể phân biệt được sự khác nhau của nhóm phụ âm đầu, vần, âm cuối nên khi viết
các em hay bị nhầm lẫn dẫn đến viết sai.
Thứ ba: Do học sinh hiểu biết không
đầy đủ về các quy tắc chính tả:
Muốn viết đúng chính tả, học sinh phải nắm vững các
quy tắc chính tả Tiếng Việt. Nhưng rất đáng tiếc là có nhiều em chưa nắm vững
các quy tắc này.
VD: Quy tắc viết hoa ( viết hoa tên riêng, viết hoa
đầu câu), quy tắc viết các chữ: c/k/q, g/gh, ng/ngh, y/i, ... những quy tắc
chính tả này, học sinh được trang bị dần trong quá trình theo học chương trình
Tiếng Việt ở Tiểu học.
Thứ tư: Do đặc điểm tâm sinh lí học
sinh:
Ở lứa tuổi nhỏ, các em còn mải chơi, khó tập trung mà
vốn sống của các em còn hạn hẹp, từ ngữ chưa nhiều nên rất mau quên. Cộng thêm
việc học sinh tiếp thu trực tiếp chủ yếu từ giáo viên. Nhiều giờ dạy phương
pháp chưa phù hợp với đối tượng bài dạy nên việc nắm bắt các quy tắc chính tả
để viết thế nào cho đúng, chưa gây được sự ham thích, hứng thú cho các em.
Đặc biệt trong các tiết dạy, giáo viên chưa lấy được
các ví dụ minh họa cụ thể về cách viết đối lập của các nhóm phụ âm dễ lẫn hoặc
cách viết các tiếng, vần khó nên học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình
phân biệt để viết cho đúng.
Thứ năm: Do ảnh hưởng của cách phát âm
sai:
Hiện nay có rất nhiều học sinh phát âm sai (đọc không
đúng, không chuẩn) điều này có ảnh hưởng rất lớn đến lỗi chính tả của học sinh.
Vì cơ sở cơ bản của chính tả Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm. Viết chính tả
Tiếng Việt chủ yếu là ghi âm tiết, thể hiện các thành phần âm vị đoạn tính
trong cấu trúc âm tiết thành chữ âm tiết. Các chữ cái biểu tượng âm thanh được
tiếp nhận qua lời nói (âm vị đọc thế nào, nói thế nào thì viết thế ấy) có nghĩa
là viết như nói, viết như nghe. Cũng có
trường hợp giáo viên đọc mẫu phát âm sai dẫn đến học sinh viết sai.
Thứ sáu: Do hạn chế về vốn từ (học
sinh chưa hiểu nghĩa của từ):
Muốn viết đúng chính tả, người viết phải hiểu nghĩa
của từ và cách viết của từ đó.
VD: Muốn biết khi nào viết “truyện”, khi nào viết
“chuyện”, người viết phải phân biệt được sự khác nhau về nghĩa của từ này để từ
đó rút ra cách viết đúng chính tả.
+ Viết là “truyện” khi muốn chỉ tác phẩm văn học được
in (truyện ngắn, truyện cười).
+ Viết là “chuyện” khi muốn chỉ một sự việc được kể
lại (câu chuyện, chuyện cũ) hay chỉ công việc (chưa làm xong chuyện).
Muốn học sinh viết đúng chính tả thì giáo viên phải thực hiện tốt
những việc sau:
b. Các giải pháp thực hiện
Hướng
dẫn học sinh phát âm đúng:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là
người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh
để các em phân biệt được các thanh, các âm đầu, âm cuối, vần dễ lẫn.
Học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng
thường mắc lỗi chính tả ở các tiếng phát âm không phân biệt (phụ âm đầu, vần,
thanh theo tiếng địa phương). Vì vậy, dạy chính tả phải kết hợp với dạy chính
âm (luyện phát âm). Vì cơ sở cơ bản của chính tả Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ
âm. Do đó công việc này đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên.
Trên cơ sở học sinh phát âm đúng mới viết đúng được. Phát âm đúng là biện pháp
sửa lỗi chính tả từ gốc của học sinh. Vậy sửa chữa việc phát âm cho học sinh
vào lúc nào là cần thiết và hiệu quả? Luyện phát âm cho học sinh có thể thực
hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Song ở trường học, giáo viên có thể luyện phát âm đúng
cho học sinh trong các tiết học: Tập đọc, Kể chuyện, khi học sinh trả lời câu
hỏi.
Đặc biệt là giờ tập đọc, chính là thời gian có thể
luyện phát âm nhiều nhất cho học sinh. Bởi giờ tập đọc, học sinh không những
được luyện đọc đúng, đọc nhanh mà các em còn được đọc các tiếng khó, thông qua
sự giảng giải của giáo viên một cách tỉ mỉ về cách đọc đúng và nhớ lâu.
Trong giờ tập đọc, giáo viên kết hợp hướng dẫn học sinh
từ khó với việc luyện phát âm. Có thể gọi học sinh phát âm sai đọc từ khó để
sửa chữa uốn nắn ngay cách đọc. Học sinh nhớ lâu thì viết chính tả đạt hiệu quả
hơn.
Ngoài việc học chính tả trên lớp, giáo viên có thể
luyện phát âm cho học sinh trong giao tiếp. Khi tiếp xúc với các em, giáo viên
dễ dàng nhận ra ngay những lỗi phát âm sai của học sinh, từ đó giáo viên chỉ ra
lỗi sai cho học sinh giúp các em nhận ra lỗi sai và sửa chữa.
Tuy nhiên luyện phát âm đúng chỉ là một trong nhiều
biện pháp để giảng dạy chính tả, nó mang tính chất bổ trợ, không thể chọn là
phương pháp dạy chính tả chủ đạo. Phát âm Tiếng Việt còn phải xem xét cả thói
quen và giọng điệu của từng vùng phương ngữ. Vì vậy giáo viên không nên yêu cầu
những việc quá sức học sinh.
Hướng
dẫn học sinh hiểu nghĩa của từ:
Chính tả Tiếng Việt là chính tả “ngữ âm học” nhưng
trên thực tế muốn viết đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng.
Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả.
Việc dạy từ nhất thiết phải tính đến đặc điểm của từ như một đơn vị ngôn ngữ,
quan hệ của từ với thế giới bên ngoài. Việc dạy từ cần trình bày như là việc
thiết lập quan hệ giữa từ và yếu tố thực hiện quan hệ giữa từ với một lớp sự
vật cùng loại được biểu thị bởi từ. Hai mặt này gắn chặt với nhau, tác động lẫn
nhau, phải làm cho học sinh nắm vững mối tương quan, liên hệ giữa chúng.
Tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ cho học sinh
được thừa nhận từ lâu. Nó là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ. Vậy phải làm thế nào để học sinh có thể hiểu nghĩa của từ một cách tốt
nhất?
Việc giải nghĩa của từ được dùng nhiều trong giờ Tập
đọc, Luyện từ và câu cũng như trên bất kì giờ học có sự cung cấp từ ngữ, thuật
ngữ, khái niệm mới.
Để giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách sâu sắc,
khi giải nghĩa từ, giáo viên có thể giải nghĩa bằng trực quan, ngữ cảnh, cách
đối chiếu so sánh với các từ khác, bằng các từ đồng nghĩa - trái nghĩa, bằng sự
phân tích các thành tố hoặc chi tiết đối tượng mà từ gọi tên.
Trong các biện pháp đó, biện pháp giải nghĩa từ bằng
trực quan là sinh động hơn cả. Khi giải nghĩa bằng trực quan sẽ làm cho các em
hứng thú hơn trong giờ học, giúp các em hiểu một cách dễ dàng nghĩa của từ,
phát triển năng lực tư duy, khả năng liên tưởng phong phú về từ cho các em.
Song việc giải nghĩa của một số từ không sử dụng bằng
trực quan được, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh hiểu từ bằng cách so sánh,
đối chiếu nghĩa của từ đó nhằm cung cấp những thông tin cần thiết làm chỗ dựa,
cơ sở cho học sinh viết đúng các từ này.
VD: Khi muốn giải nghĩa của từ “Trú” giáo viên đưa cặp
từ để học sinh phân biệt nghĩa và so sánh, đối chiếu.
Phân biệt trú/
chú
- Trú: có nghĩa là ở, ở tạm, dừng lại hoặc lánh vào
một nơi nào đó (trú quán, ngoại trú, trú ẩn).
- Chú: em của ba (bố).
Như vậy cách tốt nhất là cung cấp cho học sinh từ
trong ngữ cảnh và suy luận ra chữ viết. Ngữ cảnh có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, giúp học sinh nắm được nghĩa của từ dễ dàng và làm điểm tựa cho trí nhớ.
Khi sử dụng từ, nếu còn phân vân về chữ viết, các em
liên tưởng đến ngữ cảnh và suy luận ra cách viết chữ. Giáo viên phải làm sao
trong tiết học chính tả tạo điều kiện cho học sinh nhắc đi, nhắc lại với từ cần
ghi nhớ nhiều lần.
Giúp
học sinh nắm vững quy tắc chính tả:
Giáo viên cần sử dụng khai thác tối đa phương pháp dạy
học, rèn ý thức cho học sinh trong học tập môn chính tả. Muốn vậy, người giáo
viên cần trang bị những kiến thức về ngữ âm học, từ vựng học, ngữ nghĩa học có
liên quan đến chính tả. Cụ thể: Giáo viên phải biết vận dụng kiến thức đó vào
việc phân loại lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm từng loại lỗi chính tả, nhất là
việc xây dựng các quy tắc chính tả giúp học sinh ghi nhớ cách viết một cách
khái quát, có hệ thống.
Trong giờ chính tả, để giúp học sinh phân biệt được
các cặp phụ âm đầu, các cặp từ cần thiết là một việc làm gặp nhiều khó khăn,
bởi học sinh còn nhỏ, nhận thức chậm do vốn hiểu biết còn hạn hẹp ; kĩ
năng, kĩ xảo chưa thành thục. Vì thế, tùy theo trình độ của học sinh lớp mình,
giáo viên phải có phương pháp giúp học sinh nắm quy tắc chính tả nhanh và chắc.
Cụ thể:
*
Kĩ năng chính tả các từ hay âm tiết có phân biệt âm đầu:
- Các âm đầu k,
gh, ngh đứng trước các nguyên âm e,
i, ê, iê.
- Các âm đầu c,
g, ng đứng trước các nguyên âm o,
ô, ơ, a, ă, â, u, ư
*
Hướng dẫn học sinh nắm được cấu tạo tiếng - từ:
Rèn cho học sinh nhớ tiếng đó có cấu tạo như thế nào?
Vần đó gồm mấy âm ghép lại, âm nào đứng trước, âm nào đứng sau?
Hướng dẫn học sinh nắm được cấu tạo một số vần khó.
VD: Âm đệm
Viết là u
khi đứng trước nguyên âm hẹp như: uy,
uyên, uê, uơ
Viết là o khi
đứng trước nguyên âm rộng như: oe, oa,
oăm.
*
Hướng dẫn học sinh viết hoa: Cần
nắm được các quy tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam (Nguyễn Thị Ngọc
Bích, sông Hồng, Thái Bình); tên người và tên địa lí phiên âm theo Hán Việt
(Đan Mạch, Ấn Độ); viết hoa tên các cơ quan, tổ chức (Bộ Công an, Hội Chữ thập
đỏ)
*
Hướng dẫn học sinh ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:
- Phân biệt ch/tr:
Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và con vật đều bắt đầu bằng ch (chiếu, chổi, chum, chiêng, chảo,
chén,...; chó, chào mào, chiền chiện, chuồn chuồn, châu chấu, ...)
- Phân biệt s/x:
Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s (sả, sen, sắn, si, sấu, sậy, sầu riêng, săng lẻ, sim, sồi,
sứ,...; sếu, sáo, sóc, sò, sên, sam, sâu, san hô, sơn dương,...)
- Phân biệt các
vần dễ lẫn:
+ ên/ênh: Đa
số các từ chỉ sự bấp bênh, không vững chắc có vần ênh (gập ghềnh, chông chênh, cồng kềnh, lênh khênh, chệnh choạng,
chếnh choáng, ...)
+ Hầu hết các từ chứa tiếng có tận cùng là nh/ch/ng là từ mô tả âm thanh: leng
keng, loảng xoảng, xập xình, đùng đoàng,
huỳnh huỵch, thình thịch, quang quác,...
+ Vần uyu
chỉ xuất hiện trong các từ khuỷu tay, khúc khuỷu, khuỵu chân, ngã khuỵu.
+ Vần oeo
chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân.
Hướng
dẫn học sinh viết từ khó trong giờ chính tả:
Học sinh nắm được cách viết từ khó tức là nắm được cấu
tạo của tiếng, từ cần viết. Do vậy trong giờ dạy chính tả, ở bước hướng dẫn học
sinh viết từ khó, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ, phân tích tiếng khó
viết. Phân tích tiếng gồm phụ âm đầu và vần trong tiếng để học sinh tránh viết
nhầm. Ở phần này, giáo viên có thể thực hiện qua hệ thống câu hỏi đối với từ
khó viết như sau:
+ Từ này gồm mấy tiếng?
+ Tiếng đó gồm âm đầu và vần gì?
Giáo viên lấy ví dụ ở những tiếng cần so sánh và hỏi
học sinh: Hai tiếng này giống và khác nhau ở điểm nào?
Phân biệt chính tả bằng cách phân tích, so sánh: Trong
giờ chính tả, giáo viên thường xuyên hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo tiếng
khó rồi so sánh với tiếng dễ lẫn:
VD: Khi viết tiếng hàng,
học sinh dễ lẫn lộn với hàn, giáo
viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo 2 tiếng này để các em thấy tiếng hàng có âm cuối là ng, tiếng hàn có âm cuối
là n. Học sinh ghi nhớ điều này để
không viết sai.
- hàng = h + ang + thanh huyền (hàng hóa, xếp
hàng,…).
- hàn = h + an
+ thanh huyền (thợ hàn, hàn gắn, ….).
Bước hướng dẫn học sinh viết từ khó là cơ bản trong
giờ chính tả nên giáo viên cần dành nhiều thời gian để học sinh tập viết đúng.
Bên cạnh đó, giáo viên cho học sinh luyện viết các từ, thi viết nhanh, viết
đúng từ khó vào bảng phụ qua trò chơi, bài tập. Sau đó giáo viên nhận xét và
sửa lỗi cho học sinh nhớ nhằm hạn chế lỗi trong bài viết.
e.
Học sinh phát hiện lỗi và tự sửa lỗi:
Trong giờ chính tả, giáo viên giúp học sinh phát hiện
ngay được lỗi sai của mình. Điều này được thực hiện khi học sinh soát bài chính
tả vừa viết. Khi giáo viên đọc cho học sinh soát bài, lưu ý nhấn mạnh ở những
chữ mà học sinh của lớp hay nhầm hoặc sai để học sinh phát hiện và tự sửa.
VD: Khi đọc cho học sinh soát bài “Sân chim” TV2-Tập
II trang 29, giáo viên cần đọc nhấn mạnh “tả xiết” để học sinh không
viết nhầm “tả xiếc”.
Giáo viên giúp học sinh tự sửa lỗi sai khi học sinh
viết từ khó lên bảng, giấy nháp, khi soát bài sửa lại bằng cách gạch chân chữ sai
và sửa lại ra phần “sửa lỗi”. Giáo viên hỏi một vài em về cách sửa:
+ Bài viết của các em có bao nhiêu lỗi sai?
+ Với từ sai này em sẽ sửa như thế nào?
Vận
dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
Đây là việc làm không kém phần quan trọng trong giờ
học chính tả. Giáo viên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập âm vần (chú
trọng những bài tập có âm, vần đa số học sinh mắc lỗi) để giúp các em vận dụng
những kiến thức đã học, làm quen cách sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi
bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
Ví dụ:
a/ Điền t hay c:
lượ... bỏ, lần lượ..., biến mấ…, ướ…mơ.
b/ Điền n hay ng :
ngâ…nga, yên lặ…, vâ… lời, cái câ….
c/ Điền vào chỗ chấm:
- c hay k: ...éo co, cổ ...ính, ...iên nhẫn, tổ ...iến
- g hay gh: …ồ ghề, bao …ạo, chán …ét, …i nhớ.
- ng hay ngh: ngốc ...ếch, ngờ ...ệch, nghiêng ...ả,
ngọt ...ào.
Học sinh hào hứng, tự giác, tích cực tham gia các hoạt
động học tập thì chất lượng giờ học sẽ cao. Trò chơi học tập là một hình thức
“vui để học” mà học sinh hứng thú nhất. Chính vì vậy, tôi thường xuyên tổ chức
cho học sinh làm bài tập chính tả thông qua các trò chơi phù hợp và đã đem đến
cho tôi những kết quả thật bất ngờ: Không những học sinh viết chính tả có tiến
bộ mà vốn từ của các em ngày càng phong phú hơn.
Ngoài ra , việc tích hợp dạy chính tả trong các môn
học khác rất quan trọng. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để
giúp học sinh dần có ý thức rèn kĩ năng “viết đúng, viết đẹp” trong mọi tình
huống.
Hướng dẫn riêng những học sinh viết sai
nhiều lỗi:
Trong lớp, ngoài những học sinh viết đúng còn có một
số học sinh thường xuyên viết sai, sai nhiều lần. Do mải chơi hoặc do nhận thức
chậm, các em không nắm được quy tắc chính tả. Do đó giáo viên cần dành nhiều
thời gian để rèn và luyện viết cho những học sinh này.
Trong giờ chính
tả, giáo viên cần gọi các em hoạt động (phân tích từ khó, đọc từ khó...). Khi
các em viết bảng sai, giáo viên giúp các em tự sửa chữa hoặc khi đọc soát lỗi,
giáo viên nên chú ý soát lỗi những học sinh viết chưa tốt để giúp các em phát
hiện ra lỗi sai của mình và tự sửa lỗi.
Bên cạnh việc hướng dẫn các em viết ở lớp, giáo viên
nên cho những em chữ viết còn xấu, viết sai nhiều lỗi viết lại bằng chính tả ở
nhà. Vì luyện viết ở nhà không những rèn cho các em kĩ năng viết đúng mà khả
năng nắm bắt từ cũng nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Phương pháp này có thể áp dụng cho toàn thể học sinh
khối 3 ở trường Tiểu học An Lộc A và học sinh khối 3 trong toàn
địa bàn thị xã Bình Long.
6. Những thông tin cần được bảo mật:
Không
7. Các điều kiện cần thiết để áp
dụng sáng kiến: Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như: trò
chơi, đố vui,…phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
8. Đánh giá lợi ích thu được do áp
dụng sáng kiến:
a. Kết quả đạt được:
Trong học kì I của năm học này, với phương pháp dạy
học như trên tôi đã thấy rõ sự tiến bộ, kết quả mà các em đạt được sau những
tiết học, sau kỳ thi kiểm tra học kỳ I do nhà trường ra đề đã cho thấy công sức
tôi bỏ ra đã có kết quả nhất định. Lớp Ba 2 do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy có kết quả như
sau: (kết quả tính đến giữa tháng 2).
TSHS |
Viết đúng |
Viết chưa đúng ( 1 – 5 lỗi) |
Viết chưa đúng ( 6 – 11 lỗi) |
Viết chưa đúng (11 – 20 lỗi) |
44 |
25 |
9 |
5 |
5 |
b. Bài học kinh nghiệm:
Để việc dạy phân môn chính tả đạt kết quả tốt thì
người giáo viên cần:
- Linh động sử dụng phương pháp dạy sao cho phù hợp
với kĩ năng viết và trình độ của học sinh.
- Phân loại học sinh, có biện pháp phụ đạo, bồi dưỡng
kịp thời.
- Giáo viên luôn động viên, nhắc nhở học sinh thực
hiện tốt phong trào “Vở sạch – Chữ đẹp”. Chấm và nhận xét Vở sạch – chữ đẹp mỗi
tháng, trưng bày những cuốn vở, những
bài viết đúng, đẹp tạo động lực thi đua
trong học sinh.
- Thái độ của giáo viên phải mềm mỏng, tôn trọng học sinh.
Quan tâm sâu sát những học sinh viết
chưa đúng, chưa đẹp. Động viên khích lệ kịp thời những học sinh có cố gắng,
tiến bộ dù là những tiến bộ rất nhỏ.
- Giáo viên nên sử dụng linh hoạt các biện pháp sửa
lỗi chính tả để giúp học sinh viết đúng.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/