Skkn Nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài “Nghe - kể lại câu chuyện” phân môn kể chuyện lớp 4

 


1.Tên sáng kiến:  Nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài “Nghe - kể lại  câu chuyện” phân môn kể chuyện lớp 4.

2. Lĩnh vực áp dụng: Chuyên môn

3. Mô tả bản chất của sáng kiến:

3.1.Tình trạng giải pháp đã biết:   

          Kể chuyện là một phân môn có vị trí quan trọng trong môn Tiếng Việt. Tiết kể chuyện thường được các em học sinh chờ đợi và tiếp thu bằng một tâm trạng háo hức.Thông qua việc kể chuyện để bồi dưỡng tâm hồn đem lại niềm vui, tích lũy vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ em. Đồng thời, kể chuyện  cũng góp phần  rèn luyện và phát triển kỹ năng nói và kể trước đám đông một cách có nghệ thuật, đi vào lòng người, góp phần khêu gợi tư duy hình tượng của trẻ. Kể chuyện là đưa các em đi từ hiện tại để vào những vườn cổ tích, đến với những hình ảnh đẹp đẽ, tấm lòng dũng cảm cao thượng, đầy lòng vị tha của các nhân vật mà trong cuộc sống hằng ngày mà các em ít được gặp.   

Việc dạy học kiểu bài “Nghe – kể lại câu  chuyện” không chỉ là đơn thuần là giáo viên kể mà ở đây học sinh tham gia kể, tham gia vào các hoạt cảnh, tham gia vào các vai nhân vật. Bên cạnh đó các em còn thi kể, nhận xét cách kể, lối kể của bạn… Chính vì thế, đây là kiểu bài khó dạy và nếu thành công phải có sự kết hợp giữa giáo viên và học sinh. Yêu cầu của giáo viên ở tiết dạy phải có sự đầu tư chuẩn bị thật tốt, phải có tâm huyết với nghề, nếu không thì dù cốt truyện có hay đi chăng nữa thì tiết dạy cũng trở thành khô khan, nhàm chán, không gây được hứng thú cho học sinh. Ngoài ra ở kiểu bài này giáo viên là người kể chuyện. Học sinh là người nghe và kể lại đồng thời kết hợp sự diễn đạt ngôn ngữ bằng cách phối hợp điệu bộ, nét mặt của người kể. Như vậy, biết  “Nghe – kể lại  câu chuyện” thành công cần phải có sự đầu tư của giáo viên về phương pháp, hình thức giảng dạy cũng như nghệ thuật dẫn dắt, cuốn hút học sinh để các em tiếp nhận câu chuyện một cách đầy hứng thú và yêu thích, từ đó giúp các em nắm chắc nội dung câu chuyện và kể lại đầy đủ, chi tiết hay và hấp dẫn hơn.

          * Ưu điểm của giải pháp cũ:

          - Dạy đúng kiểu bài, biết cách nhận xét đánh giá, có khuyến khích học sinh kể chuyện.

- Vận dụng khá tốt các phương pháp, hình thức giảng dạy trong giờ kể chuyện.

          - Học sinh có kể chuyện nhóm sau đó đại diện nhóm kể lại chuyện và rút ra được bài học giáo dục.

          * Nhược điểm của giải pháp cũ:

          - Khi tổ chức các hoạt động dạy trong giờ kể chuyện chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh. Chưa linh hoạt xử lí các tình huống có vấn đề khi dạy giờ kể chuyện.

- Giáo viên có động viên khuyến khích học sinh nhưng chưa kịp thời, chưa giúp các em nhập tâm vào nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả chưa cao.

- Kĩ năng nói của học sinh chưa rõ ràng, rành mạch nên diễn đạt lủng củng, ấp úng, câu cụt, vốn từ nghèo, rụt rè chưa tự tin khi kể trước lớp, không nhớ chuyện hay bỏ xót những chi tiết chính của câu chuyện. Trình tự câu chuyện sắp xếp chưa hợp lí, còn rườm rà chưa hay đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giờ học.

- Giáo viên chưa chú ý đến việc thể hiện giọng điệu, cử chỉ, nét mặt của mình khi kể chuyện. Giọng kể chưa truyền cảm chưa thu hút học sinh cho nên đã kém đi sự hấp dẫn của câu chuyện, làm giảm sự hứng thú muốn kể lại câu chuyện của học sinh.

- Số học sinh kể chuyện diễn cảm, sống thực với nhân vật, hóa thân vào câu chuyện rất ít.

3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:

3.2.1.   Mục đích của sáng kiến:

          - Rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh

          - Tăng cường khả năng hoạt động tích cực, mạnh dạn trong giao tiếp

          - Tạo hứng thú học tập cho học sinh, từ đó nâng cao hiệu quả giờ dạy

          - Vận dụng linh hoạt phương pháp và tổ chức dạy hợp lí, khuyến khích được nhiều học sinh thuộc các câu chuyện được nghe thầy cô kể và kể lại được câu chuyện đó.

          * Những điểm mới của giải pháp so với giải pháp cũ đã, đang được áp dụng:

          - Giáo viên biết chủ động trong tiết dạy với giọng kể truyền cảm, kết hợp cử chỉ, nét mặt… nhằm thu hút  học sinh, cách tổ chức lớp học nhẹ nhàng cũng tạo sự chú ý của học sinh điều này giúp các em dễ tiếp thu và có chuyển biến tốt về đạo đức.

          - Giáo viên quan tâm đến từng đối tượng học sinh, nắm được đặc điểm tâm sinh lý học sinh để chọn phương pháp điều chỉnh cách dạy cho phù hợp  phân môn, có lời khen, chê đúng lúc, động viên kịp thời.

          - Rèn kĩ năng nói cho học sinh giúp các em mạnh dạn hơn trong quá trình kể chuyện.

3.2.2.   Nội dung giải pháp:

          Các bước thực hiện như sau:

3.2.2.1. Nghiên cứu câu chuyện, cách truyền thụ để học sinh nghe và nhớ lại chuyện

          Với dạng bài “Nghe - kể lại  câu chuyện” đây là bước quan trọng của bài. Học sinh thông qua lời kể của giáo viên kết hợp tranh ảnh để ghi nhớ câu chuyện và hình thành kĩ năng kể chuyện. Nếu làm tốt yêu cầu này thì chúng ta đã giải quyết được yêu cầu của bài học cũng như vấn đề của đề bài này. Do đó,   để gây được hứng thú cho học sinh khi nghe - kể lại câu chuyện cần có rất nhiều yếu tố  tạo nên. Đầu tiên là giáo viên phải  “thuộc chuyện”, phải nhập vai nhân vật, phải biết ngắt, nghỉ giọng, sử dụng ngữ điệu, cường độ giọng điệu, cử chỉ, tư thế nét mặt…phải thể hiện rõ giọng các nhân vật trong chuyện thông qua lời thoại kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ thể hiện sự lôi cuốn để đưa các em nhập tâm vào nội dung câu chuyện.

         Ví dụ: Khi kể câu chuyện “ Sự tích hồ Ba Bể” giáo viên kể giọng kể thong thả, rõ ràng; nhanh hơn ở đoạn kể về tai họa trong đêm hội; chậm ở đoạn kết, nhấn giọng những từ gợi cảm, gợi tả hình dáng khổ sở của bà cụ, nổi kinh hoàng của mọi người khi đất rung chuyển… 

          - Khi kể kết hợp các mốc thời gian, tên nhân vật khó nhớ  giáo viên cần ghi ra bảng lớp hoặc bảng phụ đã chuẩn bị

          Ví dụ:  Khi kể chuyện: “Một nhà thơ chân chính”. Giáo viên kể xong lần 1, cần hỏi học sinh về các nhân vật và ghi nhanh ở bảng các mốc thời gian xảy ra câu chuyện: Ngày xưa, ở vương quốc Đa-ghét-xtan; Nhân vật trong chuyện: vua; các quan đại thần; lính cận vệ; các nhà thơ; các nghệ nhân.

          -Trong quá trình kể giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi gây tò mò, gây sự chú ý để cuốn hút học sinh.

          Ví dụ: Trong câu chuyện: “Lời ước dưới trăng”. Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh dự đoán chị Ngàn ước điều gì? Vì sao chị ước như vậy?  Sau này lớn lên em sẽ mơ ước gì? Học sinh tự suy nghĩ và dự đoán. 

          - Cần thể hiện rõ giọng của nhân vật theo diễn biến tâm lý

          Ví dụ: Khi kể chuyện: “Búp bê của ai?”

          + Lời búp bê lúc đầu: tủi thân; sau sung sướng…

          + Lời lật đật: oán trách

          + Lời Nga: hỏi ầm lên, đỏng đảnh

          + Lời cô bé: dịu dàng

             - Giáo viên kể lần 1 không dùng tranh, nhưng ở lần 2 dùng tranh, nên kể chậm lại thể hiện nội dung chuyện của từng tranh.

           - Trong lần kể thứ 2 nếu thấy học sinh đã nhớ chuyện cũng có thể cho học sinh kể tiếp lời của giáo viên hoặc một đoạn mà các em đã nhớ sau đó nhận xét.

          - Không khí của lớp học cũng là yếu tố quan trọng để tạo nên thành công. Khi dạy tiết kể chuyện giáo viên chú ý tạo không khí thoải mái, ổn định để học sinh tiếp thu tốt câu chuyện.

3.2.2.2. Quan sát và nhận xét tranh nêu nội dung tranh.

          Trong mỗi tiết dạy kể chuyện này đều có sử dụng tranh. Đây là đồ dùng dạy học hết sức quan trọng, các hình ảnh này đã tóm tắt phần nội dung câu chuyện theo mỗi đoạn.

          - Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động nhóm để thuyết minh nội dung tranh sách giáo khoa.

          - Các nhóm thảo luận nhóm đôi nội dung từng bức tranh, sau đó yêu cầu  đại diện nhóm trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Sau đó, chốt lại ở bảng thuyết minh tranh hợp lý nhất và đầy đủ nội dung nhất và yêu cầu học sinh đọc lại thuyết minh.

          - Ngoài ra,việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy với hình ảnh đẹp, âm thanh sống động cũng giúp học sinh được khắc sâu kiến thức một cách nhẹ nhàng. 

3.2.2.3. Rèn kĩ năng kể lại.

Dạng bài này thông thường là kể trong nhóm sau đó kể trước lớp. Trong quá trình dạy thường học sinh kể trong nhóm 4 giáo viên giao nhiệm vụ cho nhóm trưởng điều hành.

          - Để đạt được kết quả các nhóm làm việc nghiêm túc, không khí vui, tự nhiên có tính giúp đở lẫn nhau. Lắng nghe bạn kể, bổ sung nhận xét.

          - Giáo viên đến các nhóm hướng dẫn cụ thể giúp đỡ nhóm kể chậm, đưa ra các câu hỏi có tính gợi mở nhằm giúp đỡ các em chậm tiến.

          - Khi học sinh kể trước lớp cần động viên khích lệ kịp thời và yêu cầu các em khác nhận xét về lời bạn kể, từ đó rút ra được những điểm mạnh, điểm yếu của từng em để các em học hỏi nhau và  biết cách tự điều chỉnh mình.

3.2.2.4. Kết hợp khéo léo cử chỉ điệu bộ nét mặt.

          - Do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh Tiểu học thông thường các em ít mạnh dạn đặc biệt là đứng trước đám đông hay đứng kể ở trước lớp nên khi kể các em hay lúng túng, quên chuyện nên nhiều em khi lên kể không  kể được một cách trôi chảy, mạch lạc, còn quên nhớ...trạng thái tâm lý này ảnh hưởng rất lớn trong quá trình kể chuyện.Vì vậy giáo viên khi hướng dẫn kể chuyện cần phải kết hợp các cử chỉ, điệu bộ nét mặt của mình giống với hành động của nhân vật trong chuyện để thu hút các em chú ý và mong muốn được làm theo.

          Ví dụ: Câu chuyện “ Một nhà thơ chân chính” khi kể cần nhấn giọng từ ngữ miêu tả sự bạo ngược của nhà vua, kết hợp với động tác tay, thể hiện nét mặt hun hãn của nhà vua qua câu nói “ Trói hắn lại! Nổi lửa lên.”

          - Khi kể giáo viên nên chăm chú tập trung nhìn vào các em, cũng như từng đối tượng học sinh để khuyến khích cũng như uốn nắn kịp thời.

          - Động viên các em tự tin mạnh dạn đặc biệt là đối với những em thiếu tự tin thể hiện nội dung câu chuyện như cô đã thể hiện, biết kết hợp các cử chỉ điệu bộ là hết sức cần thiết để tạo ra không khí hào hứng thi đua trong lớp học.

3.2.2.5. Rèn luyện kĩ năng đóng vai.

          - Đóng vai là hoạt động được hình thành thông qua các trò chơi hoạt động dạy học của các môn khác như: Khoa học,Tập đọc, Đạo đức...tuy nhiên trong môn kể chuyện đóng vai là phần rất quan trọng, học sinh phải thuộc chuyện, lời thoại của nhân vật và hóa thân mình vào các nhân vật trong chuyện. Đây là hoạt động mà học sinh rất thích các em luôn được muốn đóng vai diễn lại, muốn thể hiện mình. Hoạt động đóng vai của bài này thường là trong nhóm, sau đó các em lên diễn lại trước lớp.

- Để rèn kĩ năng này giáo viên lưu ý phải bố trí các nhóm của lớp một cách hợp lý, không để nhóm quá mạnh, nhóm quá yếu. Các thành viên phải hợp tác với nhau.

          - Quá trình phân vai trong nhóm giáo viên cần cho các em tự phân vai phù hợp với nhân vật, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ gợi ý cho các em giúp các em cách lựa chọn vai cho từng nhóm, do các em tự chọn vai mà mình thích nên các em sẽ mạnh dạn, tự tin hơn khi tham gia vai diễn.

          - Trong quá trình nhận xét giáo viên cần chú ý những điểm mạnh, điểm yếu của từng nhân vật trong nhóm để rút ra kinh nghiệm lần sau, cần chú ý động viên kịp thời để giúp các em thể hiện tốt vai diễn của mình.

3.2.2.6. Nghe kể, nhận xét và đánh giá.

          - Thực chất hoạt động này trong phân môn kể chuyện là rèn kỹ năng nghe từ đó có ý kiến riêng của cá nhân mình.

          - Trước khi học sinh kể giáo viên cần đưa ra tiêu chí để cả lớp biết cách nhận xét từ đó giúp các em tập trung cao vào lời kể của bạn.

          - Đưa ra lời nhận xét của mình qua lời kể của bạn, đây là quá trình học sinh tham gia cùng giáo viên để đánh giá bạn. Qua đây giáo viên có thể nắm bắt được các hoạt động của học sinh cũng như mức độ nắm chắc bài của cả lớp.

          -Trong quá trình tổ chức đánh giá giáo viên cần có hệ thống câu hỏi trọng tâm. Để học sinh nhận xét lời bạn kể thông qua việc trả lời các câu hỏi đó.

Ví dụ: Câu chuyện bạn kể đã đầy đủ ý chưa? Bạn kể có hấp dẫn không? Có thể hiện được giọng nhân vật chưa? Ý nghĩa câu chuyện thế nào?

          -  Khuyết khích học sinh đưa ra những đánh giá đúng, sát với lời bạn kể, tránh để học sinh đánh giá tùy tiện không sáng tạo.

3.2.2.7. Trao đổi cùng bạn sau khi kể.

          - Đây là hoạt động để học sinh rút ra nội dung, ý nghĩa câu chuyện. Từ đó giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, con người, hướng tới cái thiện, lẽ phải, đấu tranh chống cái ác.. cũng như ý chí nghị lực để vượt qua những khó khăn trong học tập và rèn luyện hàng ngày. Học sinh có thể bày tỏ thái độ của mình đối với nhân vật trong chuyện.

          - Trong quá trình học sinh trao đổi, giáo viên nên đưa ra những câu hỏi gợi mở và đặc biệt là để cho các em tự trao đổi cùng nhau qua các câu hỏi mà giáo viên đưa ra.

          - Nội dung câu chuyện? Nhân vật bạn thích? Vì sao? Chi tiết nào trong chuyện bạn thích? Bạn học được ý chí gì của nhân vật trong chuyện?

          Từ đó giúp các em rút ra nội dung ý nghĩa một cách dễ dàng để tự hoàn thiện nhân cách của bản thân.

Ví dụ:  Khi kể chuyện “ Bàn chân kì diệu” các em thấy đươc tấm gương Nguyễn Ngọc Ký bị liệt cả hai tay, bằng ý chí vươn lên đã đạt được những điều mình mong ước. Em học được ở anh tinh thần ham học, càng thấy mình phải cố gắng nhiều hơn nữa, quyết tâm vươn lên trở thành người có ích.

3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:

          Trên đây là sáng kiến của bản thân  đã thực hiện đạt được kết quả rất tốt khi áp dụng giảng dạy ở lớp mình. Tôi nghĩ rằng phương pháp này có thể áp dụng đối với tất cả giáo viên dạy lớp 4 trong huyện, có thể tham khảo và vận dụng để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy nhằm tạo  sự say mê hứng thú cho học sinh khi học kiểu bài này.

3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến:

        - Học sinh rất ham thích giờ kể chuyện, học sinh chậm tiến cũng bắt đầu nhớ được các nội dung câu chuyện trong chương trình lớp 4. Các em đã coi mỗi tiết kể chuyện là một ngày hội, một cuộc thi thố tài năng nho nhỏ. Một số em tiếp thu chậm cũng đã mạnh dạn nêu được các tình tiết chính trong câu chuyện.

        - Học sinh mạnh dạn tự tin hơn nhất là những em rụt rè,nhút nhát.

        - Khả năng sử dụng vốn từ đa dạng hơn, giao tiếp mạnh dạn hơn.

        - Các em biết tự đánh giá bản thân và đánh giá bạn.

        - Không khí lớp học trở nên sôi nổi, nhẹ nhàng đầy hứng thú.

        - Vốn từ ngữ của các em được bổ sung đáng kể giúp cho các em học tốt các môn học khác. Bên cạnh đó, sự hiểu biết của các em về cuộc sống xung quanh cũng được tăng lên rõ rệt. Các em nhận thức rất nhanh về những việc làm đúng để học tập và những việc sai để tránh, từ đó giúp các em ngày càng hoàn thiện bản thân để trở thành người tốt.   

3.5. Tài liệu kèm theo:  Không.


 Nguồn: ST


Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/                                                       

Previous Post Next Post

QC

QC