1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: phương pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện
tốt dạng toán “giải bài toán bằng hai phép tính giai đoạn cuối kì 1”
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác
giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo
dục (môn Toán)
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần
đầu: 16/11/2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Ở nhà trường Tiểu học, mỗi
môn học đều góp phần vào việc hình thành, phát triển những cơ sở ban đầu rất
quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong đó môn Toán góp phần quan
trọng trong việc rèn luyện phương pháp tư duy, suy luận, giải quyết vấn đề, phát
triển trí thông minh, độc lập, sáng tạo, hình thành các phẩm chất của người lao
động mới.
Với học sinh khối lớp 3 “Giải toán có
lời văn” là dạng toán khó và nhiều dạng bài mới mà lần đầu tiên các em mới được tiếp cận, đặc biệt là giải toán bằng hai phép tính ở giai
đoạn đầu rất khó khăn đối với các em và càng khó khăn hơn đối với học sinh tiếp
thu chậm, học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng môn Toán. Đây là một vấn đề
rất nan giải, đòi hỏi mỗi giáo viên phải luôn trăn trở và quan tâm.
Qua quá trình đứng lớp 3 bản thân tôi còn nhận thấy
các em giải toán bằng hai phép tính ở giai đoạn cuối kì 1 chưa tốt do khả năng
tư duy, suy nghĩ của các em còn yếu hoặc do một số nguyên nhân sau:
- Học sinh lớp 3 mới tiếp cận chương trình về giải
bài toán bằng hai phép tính, kĩ năng đọc hiểu của các em chưa cao nên việc xác
định đề gặp nhiều khó khăn.
- Các em chưa nghiên cứu kĩ đề toán, một số em vốn tiếng Việt còn
hạn chế nên việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán còn gặp
nhiều khó khăn.
- Có em chưa nắm chắc hệ thống các bài toán đơn đã được học, chưa xác định được dạng toán dẫn đến còn lúng
túng trong việc phát hiện mối quan hệ logic giữa các bài toán hoặc thiếu tự tin
trong việc tìm lời giải, cách giải hoặc hạn
chế trong việc lựa chọn các phép giải.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức vừa học để giải bài
tập còn hạn chế.
- Phần lớn các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, các em thường nghĩ rằng
bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số của bài.
Nhận thức được điều đó, trong giai
đoạn cuối học kì 1 năm học 2020 - 2021 này, tôi đã áp dụng những phương pháp theo tôi là hoàn toàn mới
để nâng cao chất lượng giải bài
toán bằng hai phép tính ở lớp mình phụ trách.
5.2. Nội dung
sáng kiến:
Với mong muốn giúp
học sinh lớp 3/1 mình phụ trách thực hiện tốt giải bài toán bằng hai phép
tính trong giai đoạn cuối học kì 1 năm học 2020-2021, tôi đã vận dụng những phương pháp sau:
Một là giúp các em giải tốt
các bài toán đơn
- Muốn giải được các bài toán bằng hai phép tính, trước hết các em phải
giải thành thạo các bài toán đơn (bài toán có lời văn giải bằng một phép tính).
Các bước giải bài toán bằng hai phép tính liên quan đến những dạng toán có lời
văn đã học ở lớp 1, 2 và một số bài toán đơn lớp 3 như: gấp một số lên nhiều
lần, giảm đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số,…
- Tôi đã giúp học sinh có thói quen đọc và hiểu đúng
đề bài, nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời giúp các em hiểu
đúng các từ quan trọng (nếu có) trong đề toán để lập phép tính giải thích hợp.
Lưu ý: “nhiều hơn” cũng có nghĩa là hơn, dài hơn, cao hơn, nặng
hơn,…
“ít hơn” cũng có nghĩa là
kém, ngắn hơn, thấp hơn, nhẹ hơn,…
“một nửa” là
“một đôi” (dép, đũa,…) là
2 chiếc (dép, đũa,…)
“gấp đôi” là gấp 2 lần
Đồng thời, ở mỗi dạng bài
tôi đều chốt cách giải rõ ràng cho các em nắm vững.
Hai
là giúp các em giải tốt các
bài toán bằng hai phép tính
Trong chương trình Toán 3, các dạng toán bằng hai phép tính
(toán hợp) được sắp xếp học vào thời điểm
từ sau giữa kì 1 đến cuối năm học. Ở giai đoạn cuối kì 1, học sinh được
học các dạng toán hợp phổ biến như:
- Các bài toán liên quan về nhiều
hơn, ít hơn.
Ví dụ: Bài 1 (SGK Toán 3 trang 50)
Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh. Hỏi cả hai
anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh?
Bài 2 (SGK Toán 3 trang 50)
Thùng thứ nhất đựng 18l
dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn
thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?
- Các bài toán liên quan về gấp một số
lên nhiều lần, giảm đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
Ví dụ:
Bài 3 (SGK Toán 3 trang 58)
Thu
hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều
gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng
thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua?
Bài 3 (SGK Toán 3 trang 69)
Một công ti dự định xây 36 ngôi
nhà, đến nay đã xây được số ngôi nhà đó. Hỏi công ti còn phải xây tiếp
bao nhiêu ngôi nhà nữa ?
- Ngoài
ra còn có một số dạng toán hợp khác nhưng ít gặp như:
Ví dụ: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 80)
Mẹ hái được 60 quả táo, chị
hái được 35 quả táo. Số táo của cả mẹ và chị được xếp đều vào 5 hộp. Hỏi mỗi
hộp có bao nhiêu quả táo?
Bài 3 (SGK Toán 3 trang 82)
Có 240
quyển sách xếp đều vào 2 tủ, mỗi tủ có 4 ngăn. Hỏi mỗi ngăn có bao nhiêu quyển
sách, biết rằng mỗi ngăn có số sách như nhau?
…
Để các em có thể giải đúng
bài toán theo yêu cầu đề ra, tôi đã tạo cho các em có thói quen thực hiện tốt
quy trình giải toán bằng cách:
a.Đọc
kĩ đề toán.
Ở các bài
toán có lời văn, nội dung của mỗi bài toán đều thể hiện những cái đã biết, đã
cho, cái cần tìm, mối liên quan giữa các dữ kiện trong bài toán. Học sinh muốn
giải được một bài toán thì trước hết các em phải hiểu đề toán. Có như vậy mới
tìm ra được lời giải và phép tính đúng. Vì thế ở mỗi đề toán tôi gọi 2 – 3 học sinh đọc to
đề, cả lớp theo dõi, đọc thầm bằng mắt dùng thước kẻ, bút chì gạch 1 gạch dưới
phần cho biết, gạch 2 gạch dưới phần yêu cầu của bài toán.
Sau khi đọc đề, tôi yêu cầu các em phát hiện, tìm
những từ quan trọng cần chú ý như: “nhiều
hơn” “ít hơn” “gấp” “giảm đi” “ tất cả” “còn lại”,… và yêu cầu các em phải hiểu
các từ đó để thực hiện phép tính đúng.
b.Tóm tắt bài toán
Tóm tắt
bài toán là diễn đạt nội dung bài toán ngắn gọn và dễ hiểu hơn làm nổi bật yếu
tố đã cho cả yếu tố cần tìm. Khi các em đã hiểu nội dung bài toán, tôi hướng
dẫn các em tóm tắt bài toán. Đối với những bài toán mẫu, giáo viên cần hướng
dẫn kĩ để học sinh biết cách tóm tắt bài toán.
Thông
thường một bài toán từ chỗ “ tính” hoặc “hỏi” trở về trước là cái bài toán đã
cho, đã biết. Từ “tính” hoặc “hỏi” trở về sau là cần tìm. Khi đọc xong đề toán,
tôi yêu cầu học sinh trả lời:
Bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?
Sau khi
học sinh trả lời, tôi nhấn mạnh bằng cách gạch dưới những dữ kiện của bài toán:
cái đã biết, đã cho, cái cần tìm và thực hiện tóm tắt mẫu ở bảng. Tuỳ theo nội
dung bài toán mà tôi hướng dẫn, tóm tắt bằng lời hay sơ đồ đoạn thẳng. Đối
với dạng toán về
“nhiều hơn”, “ít hơn”, “gấp một số lên nhiều lần”, “giảm đi một số
lần” tôi hướng các em tóm tắt bằng sơ
đồ đoạn thẳng để thể hiện rõ nội dung bài toán. Nhờ đó mà với những dạng toán
nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải như bài 3 (SGK Toán 3 trang 50):
Nêu bài toán theo
tóm tắt sau rồi giải bài toán đó:
27 kg Bao gạo : 5kg ? kg
Học
sinh nhìn vào phần tóm tắt trên có thể phát hiện ngay được bài toán thuộc dạng
toán “giải bằng hai phép tính có liên quan đến nhiều hơn” và từ đó dễ dàng đặt
được đề toán như sau:
Bao gạo cân nặng 27kg, bao
ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao đó cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
c. Xác định dạng
toán
Xác định dạng toán là khâu quan trọng vì có xác
định đúng dạng toán ở từng bước giải các em mới tìm được phép tính hợp lí.
Ví dụ: Bài 1 (SGK Toán 3 trang 51)
Quãng đường từ nhà đến chợ huyện
dài 5km, quãng đường từ chợ huyện đến bưu điện tỉnh dài gấp 3 lần quãng đường
từ nhà đến chợ huyện (theo sơ đồ sau). Hỏi quãng đường từ nhà đến bưu điện tỉnh
dài bao nhiêu ki-lô-mét?
Nhà Chợ huyện Bưu điện tỉnh
5km
? km
Với bài toán trên, ở học sinh lớp 3 phải biết được quãng
đường từ chợ huyện đến bưu điện tỉnh dài gấp 3 lần quãng đường từ nhà đến chợ
huyện là dạng toán “gấp một số lên nhiều lần” à thực hiện bằng tính nhân để tìm được độ dài quãng
đường đó: 5 × 3 = 15
(km)
Còn tính quãng đường từ nhà đến bưu điện tỉnh chính là tính tổng số
độ dài hai quãng đường: từ nhà đến chợ huyện và từ chợ huyện đến bưu điện tỉnh. (dạng toán tìm
tổng hai số) à thực hiện bằng tính cộng để tìm được độ dài quãng đường đó: 5 + 15 = 20 (km).
Tuy nhiên bài toán cũng có thể giải bằng cách khác như sau:
Nếu xem quãng đường từ nhà đến chợ huyện là 1 phần thì quãng đường từ chợ huyện
đến bưu điện tỉnh là 3 phần, ta có:
Tổng
số phần bằng nhau là:
1 + 3 = 4 (phần)
Quãng
đường từ nhà đến bưu điện tỉnh dài là:
5 × 4 = 20 (km)
Đáp số: 20km.
Trong quá trình xác định dạng toán, tôi còn kết
hợp cho các em nhắc lại quy tắc đã học (nếu có). Chẳng hạn muốn gấp một số lên
nhiều lần, ta lấy số đó nhân với số lần; muốn giảm một số đi nhiều lần ta chia
số đó cho số lần,...
d. Phân tích bài toán
Phân tích bài toán để tìm ra bước giải của một bài toán. Từ
việc giải một bài toán đơn sang bài toán hợp, học sinh phải giải quyết một
nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn. Trên tinh
thần dạy học phát triển, việc làm cho các em nắm được các phương pháp chung và
các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài toán đa dạng nhưng thường gặp
và có những mức độ phức tạp khác nhau là rất cần thiết. Để giải quyết được vấn
đề này, tôi đã giúp học sinh biết dẫn về một bài toán đã biết cách giải hoặc
có thể liên tưởng tới những hành động thực tiễn nào đó mà các em đã thực hiện.
Để giúp
các em phân tích bài toán, tôi hỏi học sinh đi từ câu hỏi của bài toán ( cái
cần tìm) đi đến các yếu tố đã cho. Xác lập mối quan hệ giữa các điều kiện đã
cho với yêu câu bài toán phải tìm và tìm được phép tính đúng.
Ví dụ: Bài 2 (SGK Toán 3 trang 51)
Một thùng đựng 24l mật ong, lấy ra
số lít mật ong đó. Hỏi trong thùng còn lại bao
nhiêu lít mật ong?
GV
hỏi: Muốn tìm số lít mật ong trong thùng
còn lại bao nhiêu ta làm thế nào? (Lấy số lít mật ong trong thùng đựng trừ đi số lít mật ong lấy ra à dạng toán tìm hiệu hai số)
Số
lít mật ong lấy ra đã biết chưa? (chưa biết). Đây là dạng toán nào? (Tìm một trong các phần bằng nhau
của một số) Muốn tìm số lít mật ong lấy ra ta làm thế nào? ( Lấy số lít mật ong
trong thùng đựng chia cho 3).
Vậy để giải được bài toán này em cần thực hiện mấy bước? Đó là
những bước nào? (thực hiện 2 bước: bước 1 tìm số lít mật ong đã lấy ra, bước 2
tìm số lít mật ong trong thùng còn lại.)
e. Thực hiện bài giải
Sau khi
lập được trình tự hai bước giải, học sinh hình thành được hai phép tính và hoàn
thành bài giải. Tôi lưu ý nhắc nhở các em khi thực hiện phép tính cần dùng nháp
và làm cẩn thận rồi mới ghi kết quả vào bài giải để có kết quả đúng.
Nhằm giúp cho học sinh nắm, ghi nhớ, thực hiện các bước giải không
bị nhầm lẫn, ở tiết học bài mới, sau khi
hoàn thành bài giải mẫu, tôi chốt lại các bước giải bài toán bằng 2 phép tính
như sau:
Dạng bài liên quan về nhiều hơn, ít hơn:
Bước 1: Tìm giá trị của đại lượng
chưa biết thường sử dụng phép tính cộng hoặc trừ.
Bước 2: Tìm giá trị tổng của hai
đại lượng bằng phép tính cộng.
Dạng bài liên quan về gấp một số lên nhiều
lần, giảm đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số:
Bước 1: Tìm giá trị của đại lượng
chưa biết thường sử dụng phép tính nhân hoặc chia.
Bước 2: Tìm giá trị tổng của hai
đại lượng bằng phép tính cộng.
Tóm lại:
* Lời
giải thứ nhất : Tìm yếu tố thứ hai
chưa biết ( Yếu tố này thường có liên quan với yếu tố thứ nhất đã biết) trường
hợp:
“nhiều
hơn” à dạng toán về “nhiều hơn”à
thực hiện bằng tính cộng.
“ít hơn” à dạng toán về “ ít hơn” à
thực hiện bằng tính trừ.
“gấp…lần”
à
dạng toán “gấp một số lên nhiều lần” à thực hiện bằng tính nhân.
“giảm…lần” à dạng toán “giảm đi một số lần” à thực hiện bằng tính chia.
* Lời giải thứ hai :
Trả lời câu hỏi của bài toán ( cái cần tìm ) trường hợp:
Hỏi “ tất cả”, “cả hai” à thực hiện tính cộng.
Hỏi “còn lại” à thực hiện tính trừ.
Hỏi
“mỗi” à thực hiện tính chia.
…
g. Kiểm
tra, đánh giá kết quả
Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải
xong khi tính ra đáp số hoặc tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không
phải học sinh nào cũng có niềm tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần
giáo viên hỏi vặn lại một và câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải
của mình. Do đó kiểm tra cách giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể
thiếu khi giải toán. Việc làm đó giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như
cách giải bài toán của mình đã đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh
giá cách giải bài toán phải trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu
học.
* Các bước thực hiện kiểm
tra cách giải bài toán:
- Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong quá
trình giải với các số đã cho.
- Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó.
- Giải bài toán bằng cách khác.
- Xét tính hợp lí của đáp số.
Ví dụ: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 82)
Có 240
quyển sách xếp đều vào 2 tủ, mỗi tủ có 4 ngăn. Hỏi mỗi ngăn có bao nhiêu quyển
sách, biết rằng mỗi ngăn có số sách như nhau?
Bài giải
Số sách xếp trong mỗi tủ là:
240 : 2 = 120 (quyển)
Số sách xếp trong mỗi ngăn là:
120 : 4 = 30 (quyển)
Đáp số:
30 quyển sách.
Để kiểm tra cách giải bài toán
trên, tôi hướng dẫn học sinh thiết lập tương ứng số sách giữa từng tủ gộp lại
để thành tổng số sách 2 tủ
Ta thấy: 1 tủ có 120 quyển thì 2
tủ như nhau có 120 × 2 = 240 (quyển).
1 ngăn có 30 quyển thì 4 ngăn ( 1
tủ) có 30 × 4 = 120 (quyển).
Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài toán có cách giải và
kết quả đúng.
Ngoài
ra, để kiểm tra cách giải bài toán trên, học sinh cũng có thể giải bài toán
bằng cách khác. Chẳng hạn như :
Ta thấy mỗi tủ có 4 ngăn thì 2 tủ có tất cả: 4
×2 = 8 (ngăn). Vậy có thể tìm số sách
xếp trong mỗi ngăn bằng cách khác:
Cách 2: Bài giải
Số ngăn cả 2 tủ có là:
4 × 2 = 8 (ngăn)
Số sách xếp trong mỗi ngăn là:
240 : 8 = 30 (quyển)
Đáp số: 30 quyển sách.
Xét tính hợp lí của đáp số:
ta thấy lấy số sách mỗi ngăn tìm được nhân với 8 ngăn được tổng số sách 2 tủ (30 × 8 = 240 (quyển
sách)
Từ đó ta khẳng định đáp số trên là
kết quả đúng.
Ba là rèn kĩ năng giải toán
Việc rèn kĩ năng giải toán giúp hình thành năng lực khái quát hoá
và kĩ năng giải toán, rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh. Tôi đã tổ chức rèn kĩ
năng giải toán cho các em không những biết cách giải toán mà còn giải thành
thạo qua việc:
- Cho học
sinh làm các bài tập ở sách giáo khoa và vở bài tập toán. Đối với các bài tập
cùng dạng, tôi cho các em làm hai đến ba bài tập nhằm củng cố và khắc sâu kiến
thức vừa mới học.
- Với những bài toán mở rộng và
nâng cao, tổ chức cho các em học theo nhóm, trao đổi tìm ra cách giải sau đó
mỗi em tự giải, tự phát huy tính tích cực của mình.
- Rèn
thêm một số bài toán cho các dạng khác nhau để mở rộng kiến thức, để phát huy
sự sáng tạo, suy luận cho các em. Lập và biến đổi bài toán bằng
những hình thức như: đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết dữ kiện hoặc điều
kiện, chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu, lập bài toán
tương tự hoăc ngược với bài toán đã giải, lập bài toán theo cách giải cho sẵn,
lập bài toán theo tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ,...
Ví dụ giáo viên đưa
bài toán thiếu dữ kiện : Số viên bi của An bằng số viên bi của Bình. Hỏi Bình có nhiều hơn An
bao nhiêu viên bi ?
Ở bài toán này học sinh cần tìm hiểu đề bài, phân tích để thấy được bài toán
này thiếu dữ kiện. An, Bình có bao nhiêu viên bi chưa cụ thể, mới chỉ có mối
quan hệ giữa số bi của hai bạn, do đó cần thêm dữ kiện vào và giải bài toán.
Chẳng hạn, ta có thể thêm dữ kiện để được bài toán và giải như sau :
Bài
toán:An có 9 viên bi và số viên bi của
An bằng số viên bi của Bình. Hỏi Bình có nhiều hơn An
bao nhiêu viên bi ?
Bài giải
Số viên bi của An là:
9 × 3 = 27 (viên bi)
Số viên bi
của Bình có nhiều hơn An là:
27 - 9 = 18 (viên bi)
Đáp số:
18 viên bi.
- Trong
khi giải toán, tôi thường khuyến khích các em tìm nhiều cách giải cho một bài
toán, buộc các em phải suy nghĩ, tự tìm tòi và biết so sánh lựa chọn ra cách
giải hay nhất, hình thành cho các em thói quen không bằng lòng với kết quả đạt
được và có ý thức vươn lên.
Ngoài ra, tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em ôn và kiểm tra
lại các bảng cộng, trừ, nhân chia, các quy tắc tính. Bên cạnh đó, dù là dạng toán nào, tôi cũng chú ý đến
rèn kĩ năng thực hiện tính cộng, trừ, nhân, chia trong phạm vi đã học của các
em có như vậy thì các em mới làm tính đúng kết quả.
Bốn là khích lệ
học sinh tạo hứng thú khi học tập
Đặc điểm chung của học sinh
Tiểu học là thích được khen hơn chê nên tôi đã động viên khích lệ kịp thời giúp
các em hứng thú trong học tập bằng cách: đối với những em chậm tiến bộ, thường
rụt rè, tự ti tôi đã luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng
làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó
các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Ngược lại, đối với những em
học tốt phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.
Việc
áp dụng trò chơi học tập ở các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan
trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, có phản ứng nhanh nhẹn, ghi
nhớ một số nội dung bài đã học,... Tùy bài dạy mà đầu, giữa hoặc cuối tiết học tôi
tổ chức cho các em chơi các trò chơi học tập như là Giải toán tiếp sức, Ong đi
tìm hoa, Ai nhanh, ai đúng?, Chọn số…
Tóm lại, trong quá trình dạy học, người
giáo viên không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học
sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc tạo hứng thú trong học tập cho học
sinh.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến của tôi được thể hiện dưới nhiều
phương pháp mà căn cứ vào đó có thể
thực hiện ngay được. Vì thế sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi cho
tất cả các lớp 3 ở trong và ngoài tỉnh.
6. Những thông tin cần được bảo mật: không
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Theo tôi, trong dạy học toán
nói chung dạy giải bài toán bằng hai phép tính nói riêng cần có sự phối hợp tốt giữa giáo viên
và học sinh.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
8.1 Kết quả đạt được:
Trong năm học 2020-2021, ngay từ giữa tháng 11/2020 (giai đoạn các
em bắt đầu học dạng toán giải bằng hai phép tính), tôi đã thử nghiệm những ý
tưởng của mình ở lớp 3/1 tôi phụ trách bằng cách áp dụng các phương pháp trên và
đến cuối học kì 1 (đầu tháng 1) tôi đã thu được kết quả đáng kể:
Thời gian thử nghiệm |
Tổng số HS |
Chưa
giải được bài toán bằng hai phép tính |
Đặt lời giải
đúng nhưng ghi 2 phép tính chưa đúng |
Đặt lời giải
đúng nhưng ghi được 1 phép tính đúng |
Đặt lời giải
chưa đúng nhưng ghi được 2 phép tính đúng |
Giải
bài toán bằng hai phép tính thành thạo |
|||||
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
||
Trước thử
nghiệm (giữa tháng 11) |
37 |
8 |
21,6 |
7 |
18,9 |
6 |
16,2 |
7 |
18,9 |
9 |
24,4 |
Sau thử
nghiệm (cuối học kì
1- đầu tháng 1) |
37 |
0 |
0 |
1 |
2,7 |
3 |
8,1 |
11 |
29,7 |
22 |
59,5 |
Qua kết
quả đã đạt được trên, tôi thấy so với giai đoạn trước khi chưa áp dụng sáng kiến
thì đối với học sinh lớp 3/1 do tôi phụ trách các em đã có tiến bộ rõ rệt, cuối
học kì 1 không còn học sinh nào chưa giải được bài toán bằng 2 phép tính (tuy
vẫn còn học
sinh đặt lời giải đúng nhưng ghi 2 phép tính chưa đúng song chỉ với tỉ
lệ rất nhỏ:1 em 2,7%).
Nói chung có được kết quả như vậy một
phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác của học sinh, mặt khác là các
phương pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên. Điều đó cho thấy những
cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả khả quan.
Với kết quả này, chắc chắn khi các em học sang
học kì 2 hoặc lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa với
những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn.
8.2. Bài học kinh nghiệm:
Qua áp dụng phương pháp để giúp học sinh lớp mình giải toán có lời
văn đạt kết quả tốt trong giai đoạn cuối học kì 1, tôi rút ra được một vài kinh
nghiệm sau:
- Người giáo viên cần phải luôn luôn
có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức, thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với
nghề nghiệp.
- Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đúc rút những
vướng mắc, khó khăn thực tế ở lớp mình dạy để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng
giải quyết tốt nhất.
- Hướng dẫn học sinh đọc đề bài và tìm hiểu đề bài thật kĩ. Lưu ý
học sinh cần xác định rõ đâu là dữ kiện đã có và vấn đề cần tìm của đề toán.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện
pháp, nhiều hình thức hoạt động học tập và tập trung chú ý tới tất cả đối tượng
học sinh, quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó
khăn để giúp các em học tốt hơn.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi
phần, mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo viên trong mọi lúc của giờ học.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/