Nguyễn Du và Truyện Kiều trong trang phê bình văn học
của Xuân Diệu
Nhân đọc cuốn “Các nhà thơ cổ điển Việt
Từ khi “Truyện Kiều” ra đời cho đến nay, đã
có rất nhiều ý kiến đánh giá về tác phẩm này. Xuân Diệu từng viết:”Truyện Kiều
sau hơn 150 năm, đến nay vẫn cứ được bàn luận, tranh cãi sôi nổi. Cái đó chỉ
chứng tỏ cô Kiều quả thật sắc sảo, mặn mà, vẫn còn làm gãy lưng được nhiều nhà
phê bình, nhà bình luận. Riêng Xuân Diệu, ông đã nhiều lần viết về Nguyễn Du và
“Truyện Kiều”. Trong mỗi bài viết của mình, Xuân Diệu đều có những phát hiện
mới mẻ. Ông góp tiếng nói riêng vào việc đánh giá tác giả tác phẩm, làm cho
viên ngọc” Truyện Kiều” vô giá ấy thêm sáng ngời, lấp lánh những vẻ đẹp.
1. Tìm hiểu” con người
Nguyễn Du”:
Ông Nguyễn Lộc, khi viết về
Nguyễn Du đã quan tâm đến con người Nguyễn Du ở khía cạnh tìm hiểu về tiểu sử
nhà thơ: Một người hiếu học, khổ học, sinh ra trong một thời điểm lịch sử biến
động. Ông Nguyễn Lộc cho rằng: Trước những biến cố lịch sử ấy, bản than Nguyễn
Du đi nhiều, tiếp xúc với nhiều than phận, sự kiện khiến cho trái tim nhà thơ
them giàu cảm xúc nhân đạo. Còn Xuân Diệu lại có cách tìm hiểu rất riêng. Ông
cho rằng: Phía sau Nguyễn Du, tác giả ‘Truyện Kiều”, Nguyễn Du ông quan, còn có
Tố Như, có cái thế giới thân mật hơn, riêng tây hơn. Xuân Diệu khẳng định:”
Muốn hiểu thơ Nguyễn Du, không chỉ dừng lại ở “ Truyện Kiều” mà cần tìm đến cả
thơ chữ Hán của Nguyễn Du”. Bằng trí tưởng tượng phong phú, nhờ năng lực thẩm
thơ tài hoa Xuân Diệu vẽ lên bức chân dung thi sĩ Tố Như bằng ngôn từ. Đây là
điểm rất đặc biệt trong ngòi bút phê bình của Xuân Diệu.
Trước cách mạng Xuân Diệu quan
tâm đến một hình ảnh Tố Như trẻ trung”bàn tay xanh non của ta sẽ rũ bụi cho
hương hồn tài tử, ta phải đặt lại Nguyễn Du trong khung xuân sắc, có hoa lá
đụng vào mình thi sĩ…”. Xuân Diệu nhận thấy:”Nguyễn Du trước hết là một tài tử
như bịn thi sĩ của muôn đời”. Ở bài viết “Đọc lại Nguyễn Du”(1966), Xuân Diệu
lại tìm hiểu Nguyễn Du trong “Thác lời anh trai phường nón”. Ông thấy Nguyễn Du
kể lại những cuộc đi hát ví với các ả phường vải. Xuân Diệu nhận thấy: bài thơ
nói về nỗi đâu khổ của anh chàng phường nón tương tư, thất tình vì cô gái
phường vải đã được Nguyễn Du đưa lên thành điển hình cho hang vạn người yêu
nhau thuở ấy. Đó là một cuộc tương tư phổ biến của trai gái trong đời, nhưng
vào tâm hồn Nguyễn Du, nó thành một nỗi đau khổ da diết.
Nếu trước cách mạng, Xuân Diệu
chỉ thấy :”Lời kêu gọi của một trang tình nghe êm ái ngậm ngùi”, thì sau cách
mạng, qua 102 bài thơ chứ Hán của Nguyễn Du, Xuân Diệu thấy được nhưng nét của
con người Nguyễn Du, mà trước đây ông không thể tìm ra được. Xuân Diệu khẳng
định: Thơ chữ Hán chứa đựng” bong hình,đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân,
suy nghĩ của Nguyễn Du”.
Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, ông
tím ra dấu ẫn lịch sử của một thời. Xuân Diệu viết:” Cái thời đại của Nguyễn Du
đúng là tê đi và tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui”. Từ cách nhìn
nhận ấy, Xuân Diều hiểu rõ hơn về con người Nguyễn Du. Ông cho rằng: Bản thân
Nguyễn Du mang một cái bệnh của thời đại làm căn bệnh của chính mình. Mâu thuẫn
xã hội không giải quyết được, tích tụ lại thành một nỗi u uất riêng. Xuân Diệu
so sánh:” Nguyễn Du là nàng Kiều trong cái lầu Ngưng Bích của chế độ phong
kiến”.
Như vậy, Xuân Diệu đã tìm hiểu
Nguyễn Du theo cách riêng của ông. Xuân Diệu nhận ra: Ở thơ chữ hán chứa đựng
tâm tình của Tố Như. Ở đó Tố Như có những câu hỏi về xã hội, về đời người,về
kiếp người, mà lại hỏi cho mình, một cá thể. Từ những nhận xét ấy, Xuân Diệu đi
đến nhận định:” Nguyễn Du mạng một cái đau khổ lớn, tích luỹ vào cái buồn ở tâm
hồn Nguyễn Du thành một thiên tính thứ hai”.
2. Đánh giá về nội dung
“Truyện Kiều”:
Xuân
Diệu có cách đánh giá về Truyện Kiều ở phương diện giá trị nội dung: Tác phẩm
là một bản cáo trạng lớn đối với xã hội phong kiến. Nó là một tiếng khóc vĩ đại
trong xã hội cũ. Một số nhà nghiên cứu đánh giá cao cảm hứng nhân văn trong
Truyện Kiều. Nhà nghiên cứu văn học Đặng Thanh Lê cho rằng: Qua nhân vật trung
tâm, Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, đẹp đẽ, ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp, đồng tình với khát vọng giải phóng con người, đồng cảm với số
phận bi kịch của con người và là tiếng nói lên án những thế lực bạo tàn. Với
Xuân Diệu, ông cũng khẳng định quan niệm đó, song có cách nói riêng bằng hình
tượng: “Biết khóc, khóc to, khóc lớn, là vạch mâu thuẫn không giải quyết được
của xã hội phong kiến, khóc rung chuyển cả muôn lòng người, khóc đến nỗi mây
sầu gió thảm, trời đất cũng không thể đứng yên, là muốn đập vào cửa trời, bắt
phải trả lời về số phận con người tại sao khổ sở, cùng cực đến thế. Xuân Diệu
có nhận xét rất riêng về màn Kim Kiều đoàn viên, ông cho rằng: “Bản cáo trạng
cuối cùng của Truyện Kiều lại nằm ngay trong những giờ phút vui vẻ nhất: “Đoàn
viên tái hợp nở những nụ cười tươi, những sắc mặt vui sướng nhưng luôn luôn
Nguyễn Du cứ nói: Đây là nạn nhân 15 năm của xã hội. Nguyễn Du đã sử dụng triệt
để cuộc đoàn viên, để tính sổ một lần cuối cùng”. Với Xuân Diệu, ông còn khẳng
định: trong Truyện Kiều, chất lãng mạn và hiện thực luôn kết tinh, hoà quyện
vào nhau qua hai nhân vật Từ Hải và Thuý Kiều. Trong bài viết năm 1958, Xuân
Diệu có nhận xét: “Thuý Kiều là kết tinh của tài hoa, Từ Hải là kết tinh của
khí phách, nhưng cả hai lãng mạn tuyệt vời ấy luôn rất thực”. Ở bài viết sau
năm 1964, Xuân Diệu khẳng định điều này rõ hơn: Nguyễn Du tập trung, kết tinh,
nâng cao tinh thần lãng mạn, nói những ước mơ chắp cánh của con người, tuy
nhiên cái mới là Nguyễn Du đưa đến trong truyện là cuốn tiểu thuyết hiện thực,
bởi vậy ta thấy có thực trong đời, bởi nhân vật chính diện của Nguyễn Du cũng
có khuyết điểm, bởi trong đời nó thế: Kiều nhẹ dạ tin người cầu an, Từ Hải
thiếu cảnh giác.
3. Đề cao cái cá thể khi
nghiên cứu Truyện Kiều:
Khi tìm
hiểu Truyện Kiều, Xuân Diệu đã đề cập đến “con người cá nhân”, vấn đề quyền
sống và quyền hạnh phúc của mỗi con người, vấn đề của individu trong xã hội
phong kiến. Đây là cách nhìn nhận mới mẻ của Xuân Diệu ở thời điểm phê bình lúc
bấy giờ (1966). Xuân Diệu cho rằng: Chỉ có Nguyễn Du trong Truyện Kiều mới đặt
vấn đề chữ mình một cách tập trung
hơn cả, một cách gay gắt điển hình. Ông so sánh vấn đề số phận con người được
đề cập trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân
Hương. Ông nhận thấy ở thơ Hồ Xuân Hương, nữ sĩ đòi quyền sống của con người
trong xã hội. Tuy nhiên, Xuân Hương không dùng chữ mình và chữ riêng, còn ở
Nguyễn Du đã nhiều lần nói vấn đề mỗi cá nhân, chữ mình một cách rõ ràng:
Một mình lưỡng lự
canh chầy
Đường xa nghĩ nỗi sau
này mà kinh
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Biết duyên mình, biết
phận mình thế thôi
Nỗi riêng lớp lớp
sóng dồi
Nghĩ đòi cơn lại sụt
sùi đòi cơn
Nỗi riêng, riêng
những bàn hoàn
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
Xuân Diệu
nhận thấy: việc đặt vấn đề số phận con người bị nghiền nát, vấn đề quyền sống
của con người bị phủ nhận là đòi hỏi bức thiết trong thời đại Nguyễn Du. Nhà
thơ lấy mỗi con người là một bản cá thể, một con người cá thể. Xuân Diệu so
sánh với các tác giả khác, nhận thấy trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đưa nhân vật
chính vào giữa cuộc đời và nhập thân vào nàng, luôn luôn Thuý Kiều tự giác mình
là một cái thân, một tấm lòng, một con người. Trong khi đó các tác phẩm khác,
chữ mình chỉ lơ thơ, lác đác. Xuân
Diệu chú ý đến cách: Nguyễn Du viết tiểu thuyết, kể chuyện như không mải sự
kiện, tình tiết mà quên vấn đề con người. Ông cho rằng: tất cả là quy tụ vào số
phận một con người, qua nàng Kiều, Nguyễn Du muốn nói cái nỗi đòi hỏi u uất của
hàng triệu người.
Như vậy,
vấn đề cá thể trong Truyện Kiều được Xuân Diệu nhìn nhận và đánh giá có cơ sở
khoa học. Từ hiện tượng cá thể trong tác phẩm, ông có cách nhìn khái quát: “Bi
kịch ấy chính Nguyễn Du cũng không biết làm sao mà giải quyết ra được, chỉ đến
xã hội mới, cá nhân hoà vào xã hội, xã hội bồi dưỡng cá nhân, vấn đề của anh
trai phường nón Nguyễn Du đến xã hội mới, được giải quyết thoả đáng, biện
chứng”.
4. Những khám phá của Xuân
Diệu về tài năng ở một hồn thơ vĩ đại:
Đánh giá về tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du,
giáo sư Nguyễn Lộc đánh giá cao về trình độ ngôn ngữ thơ phong phú, chính xác
của Tố Như thể hiện ở Truyện Kiều. Giáo sư chú ý hiện tượng kế thừa văn học dân
gian (thành ngữ, ca dao, tục ngữ,...) trong Truyện Kiều, việc tiếp nhận nguồn
thi liệu giàu có của văn học Trung Quốc; đồng thời ông cho rằng: bút pháp tả
cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là một thành công đáng kể. Còn
Xuân Diệu, với sở trường thẩm thơ, ông có khả năng khai thác từ ngữ, tiết tấu,
nhạc điệu. Ông quan tâm đến những câu thơ có tính nhịp điệu, tiết tấu:
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn, ê
chề cho coi!
Trước cho bõ ghét
những người
Sau cho để một trò
cười về sau.
(Truyện Kiều)
Xuân Diệu có bài viết “Chung quanh từ ngữ Truyện
Kiều” (1976), với lối cảm thụ tinh tế, ông đưa ra những cách hiểu sao cho phù hợp
với nội dung văn bản. Xuân Diệu có nhận xét: “Vào đến thế giới của các từ, của
từng từ một, nó là từng viên gạch một, nó là mỗi tế bào của tác phẩm thơ, càng
thấy Nguyễn Du là một ông thầy của ngôn ngữ, là một phù thuỷ của ngôn từ. Những
từ, những chữ dùng của Nguyễn Du rất đắt. Dĩ nhiên, “từ” đây không phải là danh
từ, mà còn là động từ, tính từ, trạng từ,… Tất cả các thì, là, mà, rằng.
Đặc biệt trong bố cục của Truyện Kiều, Xuân Diệu
có phát hiện khá lí thú. Ông cho rằng: “Nguyễn Du có tất cả lí do để dùng 400,
500 câu thơ trong hơn ba nghìn câu, trồng cái cây tình ái của Kim Kiều cho thật
chắc, sâu sắc trong hai tháng, để nó vượt qua được cái phũ phàng trong 15 năm.
Bố cục ở phần đầu được Nguyễn Du để bao nhiêu tâm huyết, hai tháng so với 15 năm
quả là ngắn ngủi, nhưng Nguyễn Du đã dành một phần tám tác phẩm để điểm trang
“cái thủa ban đầu lưu luyến ấy”.
Phải là Xuân Diệu, một thi sĩ nổi tiếng về thơ
tình, một nhà phê bình giàu khả năng nắm bắt chất thi vị của tình yêu mới có thể
có phát hiện độc đáo và lí thú như thế. Không chỉ vậy, Xuân Diệu còn chứng minh
được văn Truyện Kiều là tinh hoa của văn chương cổ điển kết hợp với tinh hoa của
văn chương bình dân. Từ chất văn xuôi của truyện chuyển sang chất thơ. Ông cho
rằng: Nguyễn Du đã có những bút pháp để gạn lấy nét chính, tập trung vào tâm tình,
tạo ra hình tượng.
Tập hợp các bài viết về Nguyễn Du và Truyện
Kiều của nhà phê bình Xuân Diệu từ 1958-1976, ta thấy ông luôn luôn thể hiện sự
ngưỡng mộ nhiệt thành với thi hào dân tộc Nguyễn Du. Góp một tiếng nói riêng
trong nhiều tiếng nói về Truyện Kiều xưa và nay, Xuân Diệu đã thể hiện được cái
nhìn tiến bộ trong tư tưởng nghệ thuật khi đề cao cá thể trong nghiên cứu Truyện
Kiều, ở cách xem xét hài hoà giữa tác phẩm và cuộc đời tác giả. Xuân Diệu có
duyên trong những trang phê bình đề cập đến tình yêu, có lẽ đây là sở trường của
nhà phê bình Xuân Diệu.
Tháng 6/2013
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/