1. Là tác giả đề nghị xét công
nhận sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh lớp 4 học Tập
làm văn – phần miêu tả – có hiệu quả”.
2. Chủ
đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo
dục (môn Tiếng Việt )
4. Ngày sáng kiến được áp
dụng: 07.09.2020
5. Mô tả bản chất của
sáng kiến:
5.1.Tính mới của sáng kiến
Phân môn Tập làm văn trong
chương trình Tiếng Vệt lớp 4 có số lượng bài văn miêu tả chiếm đại đa số với những
cái tên: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Bài văn miêu tả được xây dựng trên
cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm
nhận được thông qua các giác quan trực tiếp của mình.
Văn miêu tả là thể loại
văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của
người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ
giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ.
Như vậy, bài văn là một văn bản gồm ngôn từ, nội dung chứa trong ngôn từ
chính là văn. Văn và ngữ luôn sóng đôi với nhau: văn cần đến ngữ để biểu hiện,
ngữ cần đến văn để nói nên ý nghĩa.
Chính
vì thế, việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề luôn cần có sự đổi mới. Không thể
cứ áp dụng mãi phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau.
Với
các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học đã chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng. Còn với phân môn
Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung nhất cho mỗi loại
bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên khi lên lớp. Còn việc học thì
sao? Ngoài SGK Tiếng Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho học
sinh, giúp cho học sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song những cuốn
sách tham khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn
chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao
chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em
không phong phú mà còn đi theo lối mòn
khuôn sáo, tẻ nhạt.
Từ
những lí do khách quan và chủ quan trên để khắc phục những hạn chế trong việc
dạy Tập làm văn ở Tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà
trường sau bao lần suy nghĩ, trăn trở tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp giúp học sinh lớp 45
học Tập làm văn – phần miêu tả – có hiệu quả”.
5.2.
Thực trạng của sáng kiến:
5.2.1.Về phía giáo viên:
-Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo
quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau :
+ Do
điều kiện khách quan, sự chuẩn bị giáo viên chưa chu đáo nên ảnh hưởng ít nhiều
đến chất lượng tiết dạy và sự tiếp thu bài của các em. Chưa khơi gợi được mạch
nguồn cảm xúc ẩn chứa trong mỗi học sinh.
+ Do sĩ số lớp đông, trình độ không
đồng đều cách thức tổ chức của giáo viên chưa phù hợp nên rất khó trong việc
theo sát, kèm cặp từng học sinh trong từng tiết dạy.
5.2.2.Về phía học sinh :
-Kiến thức sách vở chỉ là phần mềm
không là phần cứng, kiến thức thực tế thì vô tận, giữa sách vở và thực tế đã có
độ lệch tương đối lớn. Nhiều em ở vùng nông thôn chưa ra thành phố bao giờ,
chưa từng đến công viên, vườn thú … hay những em ở thành thị chưa hề được
nghe hoặc nhìn thấy hình dáng con gà trống đang nghễnh cổ gáy, con trâu đang
cày giữa ruộng, cánh có trắng phau bay lả bay la trên thảm lúa xanh mướt, cũng
chưa hề được quan sát đám mạ xanh non, cánh đồng lúa đang trổ đòng rồi vàng
óng, trĩu bông …Vì thế, khi làm bài nhiều HS không nắm được đặc điểm đối tượng
mình đang tả, dẫn đến tả không chân thực. Cũng có trường hợp HS đọc xong đề
bài không biết mình cần viết những gì và viết như thế nào, cái gì viết trước,
cái gì viết sau,....
-Việc đọc sách của các em cũng đang
bị xem nhẹ. Phần lớn HS tiểu học ít quan tâm đến việc đọc, nếu có đọc thường là
truyện tranh, thậm chí những truyện tranh không mang tính giáo dục. Việc trò
chuyện, tiếp xúc với bố mẹ, người thân trong gia đình và cộng đồng cũng rất
hạn chế, bởi người lớn thì bận công việc, còn các em thì ở trường cả ngày, về
nhà lại phải ôn bài. Vốn liếng về cuộc sống, về văn học của HS tiểu học rất
mỏng, ảnh hưởng không nhỏ đến việc học văn và tập làm văn.
- Đa số các em tiếp thu văn chương
rất chậm. Phân môn Tập làm văn thật là khó khăn đối với các em. Vì đây là môn
học đòi hỏi phải có sự sáng tạo. Học sinh rất sợ học phân môn này.
Kết quả kiểm tra đầu năm như sau:
Lớp |
Số HS |
Điểm |
|
|||||
HTT |
HT |
CHT |
|
|||||
SL |
TL% |
SL |
TL% |
SL |
TL% |
|||
45 |
38 |
3 |
7,9% |
29 |
76,3% |
6 |
15,7% |
5.2.3.Về phía phụ huynh học sinh :
-Cha mẹ học sinh có thể giúp các em
học tốt các môn khác. Riêng môn tập làm văn, số người có thể phối hợp dạy cho
con cái học tốt môn này còn quá ít. Họ vừa thiếu điều kiện thời gian, vừa chưa
có nội dung, phương pháp dạy hợp lí. Vì vậy mà phụ huynh không thể dạy đôn đốc,
dạy hỗ trợ giáo viên .
-Cha mẹ học sinh chưa biết chọn sách
(truyện) bổ trợ môn tập làm văn cho các em đọc thường chiều theo ý thích của
con thích đọc truyện tranh. Hiếm thấy những gia đình xây dựng cho con tủ sách
phục vụ tốt cho việc học môn văn ở tiểu học .
Từ thực trạng trên, là người giáo viên
trực tiếp đứng lớp, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau nhằm góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học Tập làm văn.
5.3. Phạm vi triển khai thực hiện: Tại
đơn vị trường Tiểu học An Lộc B
5.4. Các giải pháp :
Với thực trạng đó tôi đã giúp đỡ học sinh của
mình bằng các giải pháp sau
Giải pháp 1:Tìm hiểu đặc điểm tâm lí của học sinh
Chúng
ta đã biết, tâm lý chung của học sinh
tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và
rèn luyện cho các em quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao
quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh,
nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu
tả.
Ở tuổi
học sinh tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của
một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu được phải được sắp xếp
theo một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc
làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.
Đầu
năm nhận lớp tôi dành nhiều thời gian tìm hiểu: hoàn cảnh giađình của từng em
thông qua lí lịch phụ huynh viết, qua gần gũi chuyện trò với các em cũng như
tiếp xúc với phụ huynh để biết thêm tính tình, thói quen, ... của từng em. Phát
hiện và phân loại học sinh để giáo viên nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng,
cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.
Giải pháp 2:Giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
cũng như quan sát, tìm ý và lập dàn bài ngay từ
tiết đầu tiên của thể loại này.
* Văn
miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù miêu tả bất kỳ đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả
cũng không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một
cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong
phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái riêng biệt của mỗi người. Nhà
văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn
với cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không
ngăn cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép
người viết "bịa" một
cách tùy ý.
Ví dụ:
¡ Khi tả đồ vật: Học sinh có thể chọn
đối tượng miêu tả là một cây bút chì của mình. tôi hướng dẫn học
sinh quan sát, nhận xét không phải chỉ vẻ đẹp về màu sắc bên ngoài của bút chì
mà còn cần nhận ra những dòng chữ in trên
bút chì, những vết trầy xước
do mình không giữ gìn cẩn thận. Em cảm được cái đau của bút, em hối
hận... hay các đặc điểm
khác mà chỉ riêng bút chì của em mới có, đó chính là nguồn cảm xúc chân thật và cũng là điểm
nhấn của bài văn.
¡ Khi tả cây cối:
Từ cây bóng mát đến cây ăn quả hay tả cây hoa học sinh phải thấy được nét khác biệt của cây mình tả với cây
khác
¡ Hoặc khi tả về
con gà trống nhà em, học sinh phải nêu được mào của gà, lông của gà hay thân
hình của gà, … có gì khác với con gà trống của hàng xóm.
* Trong
văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Việc quan sát và vị trí quan sát
tốt, góc quan sát phù hợp sẽ giúp ta nắm được cái thần của đối tượng. Biết sử dụng
các giác quan để nhận biết sự vật. Vì vậy, tôi yêu cầu học sinh lựa chọn trình
tự quan sát và sử dụng các giác quan để quan sát có định hướng:
-Trình tự không gian: Thường quan sát bao quát toàn
bộ phận đến quan sát từng bộ phận, quan sát từ trái sang phải hay từ trên xuống
dưới, hay từ ngoài vào trong.
-Trình tự thời gian: Quan sát cây cối, theo mùa,
trong năm, … Quan sát con vật như quan sát sinh hoạt của con gà, con lợn theo
thời gian trong ngày.
- Trình tự tâm lý: thấy nét gì nổi bật, thu hút, gây cảm
xúc với bản thân thì quan sát trước.
Quan sát đúng cách thì
hiện thực mới được mô tả sống động như đang hiện lên trước mắt ta, đang hoạt
động, sinh sôi, nảy nở.
-Quan
sát bằng mắt để nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật
-Quan
sát bằng tai để nghe âm thanh, nhịp điệu, gợi cảm xúc.
-Quan
sát bằng mũi nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm
-Quan sát bằng vị giác và
xúc giác để cảm nhận.
Ví dụ: Bài văn “Những chú gà xóm tôi” của nhà văn Võ Quảng, cũng tả gà nhưng đi
vào tả cụ thể ba con gà. Mỗi con mang một dáng vẻ, một đặc điểm sinh động về
tính cách. Trình tự miêu tả đi từ tiếng gáy (thính giác) đến màu sắc, hình dáng
và hoạt động (thị giác), từ đó làm nổi bật tính cách của từng con. Con gà của
anh Bốn Linh: "tiếng gáy dõng dạc", "dáng đi oai vệ",
"kiêu hãnh", cái vẻ "phớt lờ", "thách thức"; còn
gà của ông Bảy Hoá lại có: "bộ mã khá đẹp", "lông trắng",
"mỏ búp chuối", "mào cờ, hai cánh như hai vỏ trai úp" -
đặc điểm ngoại hình tạo nên ưu thế "láo khoét", thích “tán tỉnh”.
Cuối cùng là con gà của bà Kiên, một chú gà trống tơ không đẹp, không khoẻ:
"lông đen", "chân chì", "bộ giò cao", "cổ
ngắn", tính nết bộc lộ rõ trong tư thế: "xoè cánh, nghển cổ, chuẩn
bị chu đáo, nhưng rốt cuộc chỉ rặn được ba tiếng éc, e, e cụt ngủn".
Tuy
nhiên, cũng tùy từng kiểu bài mà tôi yêu cầu học sinh có những cách quan sát khác nhau:
+ Tả
đồ vật: quan sát theo trình tự: mắt nhìn, tay sờ, tai nghe,mũi ngửi,…
+ Tả cây cối: quan sát theo một
trình tự từ xa đến gần, từ bao quát đến bộ phận, nét khác biệt của cây đó
với cây khác.
+ Tả loài vật: quan sát ngoại hình
rồi mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt động của con vật.
Tuỳ theo đề bài, tôi tổ chức cho các
em quan sát ngay tại địa điểm có sự vật cần tả. Nếu không thể tổ chức quan sát
được thì tôi hướng dẫn học sinh quan sát sự vật trước khi tới lớp, để giúp học
sinh tái hiện nội dung quan sát, nhận biết tôi chuẩn bị hệ thống câu hỏi.
Ví dụ:
*Bài: "Tả cái cặp sách"
tiết 34
-Em hãy kể các bộ
phận của cái cặp.
-Cặp làm bằng gì ?
-Quai cặp thế nào?
-Mặt cặp được trang
trí thế nào?Từ nào tả vẻ đẹp của ổ khoá?
-Em hãy tìm những từ
ngữ chỉ màu sắc của cái cặp.
-Em gìn giữ cặp ra
sao?
*Bài:
“Tả cây có cây có bóng mát” tiết 46
-Em hãy nêu các bộ phân của cây.
-Thân cây thế nào?
-Gốc cây ra sao?
-Nêu đặc điểm của cành cây
-Tìm từ tả màu sắc và hình dáng của lá.
-Cây có hoa không? Hãy nêu hình dáng màu sắc của hoa.
-Hãy nêu ích lợi của cây.
-Những hoạt động có liên quan đến cây
*Bài: “Tả con gà trống”
-Gà
trống to chừng nào?
-Thân hình gà thế nào?
-Em hãy tìm từ tả màu
lông của gà trống?
-Đầu
gà,chân gà thế nào?
-Móng vuốt gà dùng để làm gì?
-Gà có những thói quen gì trong sinh hoạt?
-Tìm
từ tả tiếng gáy của gà trống?
-Nuôi
gà có ích lợi gì?
Đồng thời tôi nhắc HS quan sát luôn
đi liền ghi chép. Ghi chép hỗ trợ trí nhớ, các em có cơ sở để lựa chọn những
chi tiết, những hình ảnh đặc sắc: những đặc điểm cơ bản về hình dạng, màu sắc,
hoạt động,… của đối tượng, nhất là những điểm mới, điểm riêng, điểm độc đáo mà
người khác không nhìn thấy. Sau khi được quan sát có định hướng, có trình tự
hợp lí bước đầu học sinh lớp tôi đã viết
được những đoạn văn tả đầy đủ ý.
Với
bài: Miêu tả cây cối
Tiết
53 – tuần 27 - SGK TV tập 2 trang 92
Đề bài 3: Tả một cây hoa
Em Gia
Hân viết: Vẻ đẹp của hoa cúc gắn liền với
mùa thu trong sáng và dịu êm, gắn liền với mâm cổ, trăng tròn tháng Tám. Còn gì
đẹp hơn những bông cúc vàng lộng lẫy, trên cánh đọng li ti những giọt sương
đêm, đang rung rinh trước làn gió sớm. Cúc mọc thành bụi, thân mềm, thanh mảnh,
cùng màu xanh với lá.
Lá cúc to bằng mấy ngón tay, xẻ thành
những đường cong mềm mại, mọc so le trên thân. Cả bụi chỉ cao độ năm, sáu gang
tay em, mọc lòa xòa tạo nên một vẻ đẹp rất tự nhiên. Đầu mỗi cành là một chùm
nụ với hàng chục chiếc xinh xinh như những cúc áo màu xanh nhạt. Vài cái nụ hé
nở với những cánh vàng e ấp...
Hay
bài: Luyện tập đoạn văn miêu tả con vật
Tiết
63 – tuần 32 - SGK TV tập 2 trang 140
Bài 2:
Quan sát ngoại hình của một con vật mà em yêu thích và viết một đoạn văn miêu
tả ngoại hình của con vật đó
Bài 3:
Quan sát hoạt động của một con vật mà em yêu thích và viết một đoạn văn miêu tả
hoạt động của con vật đó
Em
Dũng viết: Con lợn có nước da trắng hồng.
Khi mới mang về, nó chỉ nhỏ như cái ấm phích. Vậy mà ba tuần sau, trông nó đã
to bằng hai chiếc xô nhựa úp vào nhau. Chú lợn này có chiếc mõm dài nom thật
ngộ nghĩnh. Trên mõm có hai cái lổ mũi lúc nào cũng ướt. Hai tai lợn to bằng
hai bàn tay em cụp xuống. Đôi mắt lúc nào cũng như ti hí, chẳng mấy khi mở to.
Thân lợn thon dài...
Mỗi lần cho lợn ăn bao giờ nó cũng
uống cạn nước rồi mới ăn cái. Khi ăn, chiếc đuôi cứ ngoe nguẩy tỏ vẻ mừng rỡ...
Em
Trúc viết: “...Toàn thân chú phủ một bộ
lông màu vàng. Sờ vào thì mượt như sờ tay trên tấm nhung tơ. Miu có cái đầu hơi
tròn, chắc khoảng bằng nắm tay em. Hai tay dong dỏng dựng đứng, rất thính và
nhạy. Đôi mắt hiền lành tròn xoe như hòn bi ve. Bộ ria của chú gợi cảm, vểnh
lên trông thật oai vệ. Bốn chân thoăn thoắt, thon thon bước nhẹ trên mặt đất.
Cái đuôi nom thớt tha, duyên dáng làm sao!...”
Từ
việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần đi
và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ,
sẽ gọt giũa kĩ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn.
Giải pháp 3:Giúp học sinh học tốt văn miêu tả thông qua việc yêu thích
đọc sách, phối kết hợp với các môn học khác và các buổi sinh hoạt ngoại khóa
* Khuyến khích học sinh có thói quen đọc
sách ở thư viện, ở nhà để có vốn từ phong phú:
Trường tôi là một trường
điển hình của huyện nhà, thư viện trường nhiều năm đạt chuẩn 01. Cán bộ thư viên
giỏi, nhiệt tình, cần mẫn trong công tác. Hàng năm, thư viện được trang bị thêm
từ 600 đến hơn 700 đầu sách các loại: truyện lịch sử, truyện cổ tích, sách tìm
hiểu khoa học, từ điển Tiếng Việt – Tiếng Anh, .... Thư viện hoạt động quy mô
và duy trì thường xuyên. Mỗi lớp đều có tổ cộng tác viên hoạt động có hiệu quả:
Mỗi ngày, giờ ra chơi các em theo lịch đọc đến thư viện nhận sách - truyện đem
về lớp đọc. Cứ như thế các em được tiếp cận với nhiều tác phẩm hay vừa mang ý
nghĩa giáo dục, vừa giúp học sinh cảm nhận, rung cảm trước cái hay, cái đẹp
trong văn học. Qua đó, giúp học sinh cảm thụ văn học, giúp em có những cảm xúc
thẩm mĩ xoay quanh cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội.
Ở trường, các em được đọc rất
nhiều tác phẩm hay từ những nhà xuất bản (NXB) lớn: NXB Giáo Dục, NXB Kim Đồng,
NXB Đồng Nai, NXB Trẻ, NXB Hội Nhà Văn, NXB Văn Hóa, Trung tâm hoạt động Văn
hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám,...
Ở lớp, tôi treo một bảng phụ làm
bảng tin để giới thiệu những đầu sách hay đã có ở thư viện hay những đầu sách
mà tôi tìm tòi được cho học sinh tìm tòi và tiếp cận chúng. Hàng tuần, vào các tiết sinh hoạt hay trước
và sau giờ học, tôi chủ động trò chuyện với phụ huynh giới thiệu thêm những đầu
sách hay như: Dế Mèn phiêu lưu kí, Kho tàng các ông trạng việt Nam, Chuyện con
mèo dạy con hải âu bay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ...để phụ huynh bổ sung thêm
sách cho các em đọc thêm ở nhà vào những lúc rãnh rỗi.
Song
song với việc đọc, tôi hướng dẫn các em lập sổ tay văn học tích
lũy vốn từ ngữ miêu tả theo các chủ điểm: con người, thiên nhiên. Khi có một từ hay, một câu
văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng dạng bài và khi làm văn có thể sử dụng
một cách dễ dàng. Việc ghi chép này của các em cũng được tôi đặc biệt quan tâm,
theo sát và kiểm tra thường xuyên. Khi đọc được một quyển sách hay các em
thường khoe với tôi.
Ví dụ:
* Tả đồ vật:
-Tả Tòa Bái Đường: ...mặt sau là cửa sổ gỗ chấn song con tiện,
phía dưới là những bức phù điêu gỗ thời Lê khắc nổi hình rồng mây đao rất đẹp.
Toàn bộ phần gỗ được sơn son thếp vàng, hai hàng cột ở giữa có trang trí rồng
cuốn mây lượn, được tu sửa nhiều lần. (Văn Miếu – Quốc Tử Giám)
-Tả cây rơm: ...Cây rơm giống như một túp lều không cửa,
nhưng với tuổi thơ có thể mở cửa ở bất cứ nơi nào. Lúc chơi trò chạy đuổi,
những chú bé tinh ranh có thể chui vào đống rơm, lấy rơm che cho mình như đóng
cánh của lại.
Cây rơm như một cây nấm khổng lồ không chân. Cây rơm đứng từ
mùa gặt này đến mùa gặt tiếp sau. Cây rơm dâng dần
thịt mình cho lửa hồng căn bếp, cho bữa ăn rét mướt của trâu bò...
*Tả cây cối:
-Tả
hoa cỏ may: ...Từng bông hoa cỏ may như
một cái tháp xinh
xắn nhiều tầng. Ở mỗi nhánh tháp, trên đầu mỗi bông hoa cỏ may lại đính
một hạt sương. Khói có thể tưởng tượng bàn tay tinh xảo nào có thể hoàn thành
hàng loạt công trình đẹp đẽ, tinh tế đến vậy. Mỗi hạt sương được tính sao vừa
nhìn thấy, vừa nhẹ để không bị rơi, vừa đủ nặng để không bị gió thổi bay mất.
Mỗi chùm hoa cỏ may là một cái tháp đính đầy sương như thế... (Tháp cỏ may)
-Tả cây hoa ngâu: Li ti như muôn hạt kê, mê mải một màu vàng
tươi non. Như một trận mưa bụi vàng đọng lại trên vòm xanh, thứ vòm lá xum xuê,
lá tron tròn, nho nhỏ như vết đầu ngón tay và xanh non, bóng bẩy, mỡ màng.
Như muôn hạt cát vàng muôn hạt đã nhẵn lỳ vì mưa gió thời
gian. Bề ngoài tưởng câm đặc, ai ngờ trong hạt nhỏ xíu ấy lại rộng lớn vô cùng.
Chả có thế mà nó chứa đựng được bao nhiêu là bao nhiêu hương thơm ngát. Cứ tỏa
ra cho gió mang đi, mang đi, mang đi nữa, mang đi mãi, mà trong cái kho tí hon ấy vẫn đầy ắp hương
thơm ...
*Tả con vật:
-Tả Dế Mèn: Cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa
nhìn. Đầu tôi to và nổi từng tảng, rất bướng. Hai cái răng đen nhánh lúc nào
cũng nhai nhoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc. Sợi râu của tôi dài và
uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng...
-Tả Dế Choắt: người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Đã thanh
niên rồi mà cánh chỉ ngắn củn đến giữa lưng, hở cả mạng sườn như người cởi trần
mặc áo gi lê. Đôi càng bè bè, nặng nề, trông đến xấu. Râu ria gì mà cụt có một
mẩu, và mặt mũi lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Đã vậy tính nết lại ăn xổi ở
thì ...
Tả Nhái
Bén, Đại vương Ếch Cốm, cá Diếc, Chuồn Chuồn, chị Cào Cào, cụ Châu Chấu, Bói Ca,... (Dế
Mèn phiêu lưu kí)
Tôi thật sự thích thú khi xem rất
nhiều, rất nhiều đoạn văn mà các em ghi chép được. Và thường xuyên khuyến
khích, động viên các em siêng năng thực hiện, trao đổi với nhau để vốn từ của
các em ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
Ngoài ra, để bài văn của các em
được hoàn thiện hơn tôi luôn xem trọng việc cung cấp vốn từ thông qua các môn
học khác.
* Công tác phối kết hợp với các môn học khác:
Tập làm văn là môn học sáng tạo chứ không phải sao chép, môn học thực hành tổng hợp kiến thức, tổng hợp
các kĩ năng (kĩ năng sống, giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ, trình bày và tạo lập
văn bản,...) ở tất cả những phân môn
khác, vì vậy muốn dạy tốt tập làm văn cần phải dạy tốt các phân môn khác ở
chương trình tiểu học. Các môn học là nguồn cung cấp vốn sống cũng như
vốn từ khá phong phú.. Trong văn
miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu
nhịp điệu âm thanh. Muốn có một bài văn hay, có "hồn", đẫm
chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ
ngữ khi miêu tả cho phù hợp.
Tập
đọc:
Ví
dụ: Khi dạy bài tập đọc “Cánh diều
tuổi thơ” giáo viên cần chỉ cho học sinh thấy những câu văn hay tác giả
miêu tả cánh diều (đồ vật):
Cánh
diều mềm mại như cánh bướm.
Tiếng
sáo diều vi vu trầm bổng.
Sáo đơn
rồi sáo kép, sáo bè ...như gọi thấp xuống những vì sao sớm
Và bài “Trống đồng Đông Sơn”:
Giữa
mặt trống bao giờ cũng có hình ngôi sao nhiều cánh tỏa ra xung quanh.
Tiếp
đến là những hình tròn đồng tâm, hình vũ công nhảy múa, chèo thuyền, hình chim
bay, hươu nai có gạc, ...
Nổi bật
trên hoa văn trống đồng là hình ảnh con người hòa với thiên nhiên...
Hoặc tả cây cối: bài tập đọc Sầu
riêng
Thân
khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng nghiêng,
chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn.
Lá nhỏ
xanh vàng, hơi khép lại, tưởng như lá héo ...
Và bài: Hoa học trò
...mỗi
hoa chỉ là một phần tử của xã hội thắm tươi; người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ
đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm ...
Lá xanh
um, mát rượi, ngon lành như lá me non. Lá ban đầu xếp lại, còn e ấp...
Hay tả con vật: bài tập đọc Đường đi
Con đen
huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng, chùm đuôi cong lướt thướt
liễu rũ....
Và bài: Con chuồn chuồn nước
Màu vàng
trên lưng chú lấp lánh.
Bốn cái
cánh mỏng như giấy bóng.
Cái đầu
tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh.
Thân chú
nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu....
Cứ thế qua các bài tập đọc, bài thơ, bài đọc
thêm,... tôi giúp các em phát hiện và ghi lại một ý hay, những câu văn hay vào
“sổ tay văn học”. Bởi vì sưu
tầm, tích luỹ, ghi chép từng câu văn hay, những câu thơ giàu cảm xúc, những câu
ca, lời hát, . . . lâu dần sẽ thấm hình ảnh văn học được tích luỹ giống như
nguyên vật liệu thì “toà lâu đài văn
học” của các em càng to, càng đẹp, càng lộng lẫy
Luyên từ và câu:
Tôi nghĩ, học sinh hiểu thêm một từ mới nghĩa là hiểu thêm một khái niệm
mới. Mà ngôn ngữ gắn chặt với tư duy. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát
triển theo. Làm giàu vốn từ cho học sinh nhất là những từ tượng hình, tượng
thanh, từ gợi tả màu sắc, . . . để giúp
các em viết tốt thể loại văn miêu tả.
-Có nhiều đề tài nhỏ để gợi cho học sinh tìm từ ở các tiết mở rộng vốn từ:
Ví dụ:
-Tuần 15/ tiết 29: Mở rộng vốn từ: Đồ chơi – trò chơi
Bài tập 4: Tìm các từ ngữ miêu tả tình cảm, thái độ của con người khi tham
gia các trò chơi.
* Khi dạy các tiết này, tôi chia học sinh thành các nhóm thảo luận, sau đó
tổ chức cho hai nhóm thi đua “tiếp sức”, mỗi nhóm từ 4 đến 6 em cùng tìm từ
trong một thời gian được quy định cụ thể.
* Lần lượt từng học sinh lên bảng ghi từ theo bảng chữ cái đã ghi sẵn.
* Học sinh 1 ghi xong, chuyền phấn cho Học sinh 2, cứ thế cho đến em cuối
cùng . Nhóm nào tìm được nhiều từ thì nhóm đó thắng
Tôi có thể cho học sinh thi tìm từ theo thẻ từ cho sẵn.
Sau khi học sinh được quan sát, trao đổi, học sinh luân phiên tìm được các từ
nêu về dặc điểm, lợi ích của cây, nêu các bộ phận. Noi dung yêu cầu gồm các từ:
lá cây, hoa, thân cây, ích lợi.
Ví dụ: Bài ”Tả cây hoa phượng”
+Từ chỉ màu xanh của lá, xanh đậm, xanh lam, xanh um,
xanh tươi, xanh thẫm...
+Từ chỉ màu đỏ của hoa : đỏ thắm, đỏ tươi, đỏ tía, đỏ
rực...
+Từ chỉ cành lá : sum suê, um tùm…
+Từ chỉ thân cây : nham nhám, sần sùi …
+Từ chỉ ích lợi : che mát, giúp HS vui chơi, cho vẻ đẹp,
ăn quả …
-Ngoài ra, còn có những cách bồi dưỡng khác làm giàu vốn từ cho học sinh
thông qua các tiết rèn Tiếng Việt (LT&C), chẳng hạn: tôi sử dụng phương
pháp trò chơi, tôi cho học sinh thi đua tìm các từ láy gợi tả có âm đầu theo
thứ tự Alphabét :
A |
B |
|
a |
|
|
b |
bồng bềnh, bừa bộn,... |
bập bênh, bừa bãi,... |
c |
cứng cáp, cặm cụi, ... |
cần cù, canh cánh, ... |
d |
dịu dàng, dồi dào, ... dịu dàng |
dễ dàng, dồn dập,... |
đ |
đủng đỉnh, đành đạch, ... đều đặn
|
đúng đắn, đầy đặn,... |
g |
gấp gáp, gay go, ... gọn gàng
|
gặp gỡ, gay gắt, ... |
h |
hăm hở, hăng hái, ... hiu hắt
|
hùng hậu, hài hòa, ... |
k |
kè kè, kênh kiệu, ... kĩu kịt
|
kẽo kẹt, kì kèo, ... |
l |
lung linh, lạ lùng, ... |
lấp lánh, la liệt, ... |
m |
mênh mông, mềm mại, ... |
mênh mang,
miên man,... miệt mài |
n |
nóng nực, năn nỉ, ... |
no nê, nể nang, ... |
r |
rộng rãi, rời rạc,... ríu rít |
róc rách, rung rinh, ... |
s |
sạch sẽ, sâu sắc, ... |
suôn sẻ, sột soạt, ... |
t |
tỉ tê, tiều tụy, .... |
tí tách, tối tăm, ... |
v |
véo von, vành vạnh, ... |
vi vu, văng vẳng, ... |
x |
xa xăm, xấp xỉ, ... |
xôn xao, xinh xắn,... |
Cũng với phương pháp trò chơi, các
nhóm sẽ thi đua tìm các từ láy biết rằng âm cuối của từ láy đứng trước sẽ là âm
đầu của từ láy đứng sau: an nhàn,
no nê, êm đềm, mênh mông, ngào
ngạt, tí tách, chi chít, tíu tít,
tỉ mỉ; mơn mởn, nóng nực, cuồn cuộn, nũng
nịu, um tùm, mỏng manh, nhanh nhẹn,
non nớt, tiên tiến, . .
Sau khi các
em biết cách tích lũy vốn từ, tôi yêu cầu các em đặt câu theo mức độ tăng dần,
bước đầu chỉ yêu cầu ghép thành câu, đặt câu đúng ngữ pháp: Học sinh chỉ cần
viết câu văn có đầy đủ bộ phận chủ ngữ và vị ngữ, diễn đạt câu văn sáng, ngắn
gọn.
Ví dụ:
*Ghép
cụm từ tạo thành câu:
Ở tiết 44 (bài tập 4)
A |
|
B |
đẹp người đẹp nết |
...,em mỉm cười chào
mọi người. |
|
Mặt tươi như hoa |
Ai cũng khen chị Ba... |
|
chữ như gà bới |
Ai viết cẩu thả chắc
chắn ... |
hay
tiết 48 (bài tập 2)
A |
|
B |
Sư tử |
là nghệ sĩ múa tài ba |
|
Gà trống |
là dũng sĩ của rừng xanh |
|
Đại bàng |
là chúa sơn lâm |
|
Chim
công |
là sứ giả của bình minh |
* Đặt
câu đơn giản có đủ chủ ngữ và vị ngữ: Ở các tiết 37 (bài tập 2, 3/7), tiết 42
(bài tập 2/30), tiết 44 (bài tập 3/40), tiết 46 (bài tập 4/52)....với các mẫu
câu: Ai làm gì? Ai thế
nào? Ai là gì?... học sinh sử dụng để
giới thiệu hoac nêu nhận định về sự vật. Rồi sau đó, tôi yêu cầu cao hơn
là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy,
từ ngư gợi tả hình ảnh, âm thanh, những từ biểu lộ tình cảm hay có thành phần
trạng ngữ...Tôi cho các tổ chuẩn bị các câu văn, có sử dụng biện pháp nghệ
thuật. Mỗi tổ đọc câu văn của tổ mình, yêu cầu tổ bạn nêu biện pháp nghệ thuật
mà tổ mình đã sử dụng trong đoạn văn đó. Biện pháp nghệ thuật được sử dụng
trong đoạn văn là hình ảnh so sánh, nhân hóa, các so sánh, tác dụng của nó. Cứ
như vậy đến tổ khác lên đọc đoạn văn rồi mời tổ bạn tìm và nhận xét. Đội nào
nói đúng, nhanh là thắng cuộc.
Ví dụ:
Tả đồ vật:
-Bút chì như người bạn thân của em.
-Thân viết thon thon như búp măng. (viết mực)
-Ngày ngày, em cõng cặp đến trường như cõng đứa em trai bé
bỏng.
-Ngăn bàn ấy chứa cả một “kho báu” của riêng em.
-Trống khum khum hình bầu dục...
Tả cây cối:
-Vỏ cây xù xì màu nâu xám.
-Bốn “ông” bã đậu đứng ở sân trường như những tàng dù khổng
lồ.
-Hoa bàng màu trắng, li ti như những ngôi sao.
-Rễ cây trồi lên mặt đất như
những con trăn.
-Giờ ra chơi, chúng em đến vui đùa quây quần bên gốc cây
chuyện trò rôm rã...
Tả con vật:
-Hai cái
cựa nhô ra như hai cái đinh nhọn hoắc.
-Đôi mắt sáng, tròn như
hai hạt đậu đen.
- Ở hai bên mép, những
sợi râu trắng như cước.
- Cái
mào trên đầu như một cái vương miện màu đỏ tươi.
- Móng
vuốt của chị Mun vừa nhọn, vừa cong và sắc như dao...
Mặc dù sẽ có trường hợp các tổ nêu
lên là những câu đơn tôi sẽ cho các em tập trung bổ sung để tạo thành câu đúng
với yêu cầu của giáo viên. Các tổ sửa đúng được cả lớp tuyên dương. Như vậy cùng là miêu tả về đồ vật, cây cối và con
vật nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ
gợi tả, gợi cảm... như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như
vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người
nghe.
Chính tả:
-Nội dung của bài văn
có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không một phần phụ thuộc vào hình
thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ viết. Vì vậy muốn có bài văn
hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho học sinh trong các tiết chính
tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và trình bày rõ
ràng, sạch sẽ. Qua những bài tập, tôi hướng dẫn các em nắm các mẹo luật đơn
giản, chấm VSCĐ và tuyên dương kịp thời. Đồng thời vốn từ ngữ của các em ngày
càng đầy ắp, giúp các em diễn đạt rõ ràng từng ý, từng câu của phân môn Tập làm
văn.
Ví dụ:
Tuần 11 – Bài chính tả (nhớ
viết): “Nếu chúng mình có phép
lạ” có 2 bài tập, bài tập 2 là bài tập lựa chọn tôi chọn
2b nhưng nội dung được thay đổi như sau:
Hãy xếp các từ sau vào các nhóm có
đặc điểm giống nhau về dấu thanh, em có nhận xét gì về các nhóm từ vừa xếp? chặt chẽ - thỗn thện
- õng ẹo - kĩu kịt - rộn rã - lẵng nhẵng -
rộng rãi - rõ ràng - lõm bõm - nhão nhẹt - dỗ dành - nhũng nhiễu -
quạnh quẽ - bỗ bã - kĩ càng - não nùng - lộng lẫy - dãi dầu - dễ dàng - nũng nịu - não nề |
|
-Yêu cầu HS nêu nhận xét -Nhận xét, tuyên dương *GV cung cấp: để dễ nhớ các em cần chú ý: chị Huyền mang Nặng Ngã đau |
-Đáp án: +Nhóm 1: chặt chẽ -
thỗn thện - õng ẹo- kĩu kịt - rộn rã - rộng rãi - nhão nhẹt - quạnh quẽ -
lộng lẫy - nũng nịu - nghĩ ngợi +Nhóm 2: lẵng nhẵng -
lõm bõm - nhũng nhiễu - bỗ bã - nhũng nhẵng - lõa xõa. +Nhóm 3: rõ ràng - dỗ
dành - kĩ càng - não nùng - dãi dầu - dễ dàng - não nề - nhỡ nhàng- trễ tràng
-lỡ làng - hãi hùng - mỡ màng -HS phát biểu: +Nhóm 1: Tiếng có dấu thanh ngã đi với tiếng có dấu thanh
nặng, hoặc ngược lại. +Nhóm 2: Tiếng có dấu thanh ngã đi với tiếng có dấu thanh
ngã, hoặc ngược lại. +Nhóm 1: Tiếng có dấu thanh ngã đi với tiếng có dấu huyền,
hoặc ngược lại. -Nhắc lại |
Qua đó, học sinh vừa nắm được mẹo
luật chính tả vừa có được những từ mới góp phần đắc lực trong văn miêu tả sự
vật.
Nếu như tập đọc rèn kĩ năng cảm thụ
cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng viết; vốn từ cho học sinh thì phân môn kể
chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ năng sản sinh văn bản dưới dạng
nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp học sinh biết quý
trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập cách miêu tả, cách
diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Kể chuyện :
Các bài kể chuyện theo tranh ở tuần
1, 4, 7, 11, 14, 17, 19, 22, 25, 29, 32 học sinh được quan sát tranh tỉ mỉ kết
hợp với lời kể của giáo viên, được thảo luận nhóm các em sẽ có những cách tả sự
vật phong phú hơn so với văn bản ban đầu mà giáo viên cung cấp như: con giao
long, vỏ ốc, áo nàng tiên, mái tóc của chị Ngàn, hai tay của Kí, ...
Từ các tiết kể chuyện trên đến các
tiết kể chuyện đã nghe đã đọc cách tả
của các em đa dạng, nhuần nhuyễn hơn và sử dụng vốn từ ngữ một cách có hiệu
quả. Cứ thế, phần miêu tả ở phân môn Tập làm văn được hỗ trợ rất đắc lực.
Tóm lại các phân môn đều có nội dung riêng, phương pháp
riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà luôn bổ sung cho nhau,
kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn khác. Với phân
môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân môn khác, muốn
học tốt Tập làm văn học sinh cần được học tốt các phân môn còn lại .Quá trình tích lũy những bộ phận kiến
thức như trên chính là quá trình HS tự mình mở rộng phạm vi gợi ý, lựa chọn về
ngôn ngữ (từ vựng, hình ảnh, cấu trúc câu... ), giúp các em dễ dàng hơn khi tìm
cách diễn đạt đối tượng. Bên cạnh đó, đọc các tác phẩm văn học, những cách sử
dụng ngôn từ trong giao tiếp sẽ tự nhiên ăn sâu vào tiềm thức của HS, trở thành
cái vốn để các em huy động khi cần khắc họa cách thức giao tiếp nói năng của sự
vật mà các em mô tả.
*Phối kết hợp trong các buổi sinh hoạt ngoại
khóa
Hàng năm cứ thi xong cuối
kì I, đoàn – đội thường tổ chức cho học sinh đi tham quan du lịch nhằm tạo cho
các em phấn chấn bước vào một học kì mới, các em được hòa mình với thiên nhiên,
được thoải mái sau những ngày học hành, thi cử. Vào những dịp ấy, tôi luôn động
viên khuyến khích phụ huynh tạo điều kiện cho các em tham gia đầy đủ.
Khi các em tham gia,
ngoài việc vui chơi, vùng vẫy với thiên nhiên các em còn được tôi định hướng
quan sát sự vật xung quanh, những sự vật không dễ gì có được ở trường học, ở
gia đình.
Ví dụ:
-Khi các em tham quan:
khu du lịch Đại Nam tôi sẽ yêu cầu các em kết hợp quan sát những con thú như:
ngựa vằn, trăn, báo gấm, đà điểu, cá sấu...hay nhưng cây hoa đẹp, những cây đại
thụ lạ mắt,...hoặc ở khu vui chơi những chiếc xe điện nhiều màu, những chiếc
tàu cao tốc độc đáo, ... cùng với một cảm giác thật, các em được thấy tận mắt
những con thú, nghe được tiếng kêu của nó, ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ; được sờ
tận tay những bông hoa sặc sỡ, những chiếc xe, chiếc tàu trong một cảm giác
lâng lâng thích thú.
- Hoặc khi các em được
tham gia “Một ngày em làm chú bộ đội” trước khi các em tham gia tôi yêu cầu các
em mang theo sổ tay và định hướng cho các em hãy quan sát kĩ áo – nón của chú
bộ đội. Các em quan sát, ghi
chép cẩn thận...
Cứ như thế, sau này về
lại lớp, tôi đưa ra các đề bài văn như: tả cây hoa, tả con vật, tả đồ vật hay
trong các tiết rèn Tiếng Việt tôi cho đề bài tả cái nón, chiếc áo chú bộ đội,
...thì đảm bảo rằng các em sẽ không gặp khó khăn gì trong phần làm bài. Bởi vì
các em được quan sát thực tế, cảm xúc cũng đã có sẵn.
Giải pháp 4:Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và
kết bài
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài,
những phần này thường thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và
cách cảm nghĩ về vấn đề mà người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học
sinh xây dựng một đoạn văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
- Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được
học đó là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học
sinh làm mở bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý
nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ
một vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu
hát,…nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm
rà. Tôi cho học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của
mình, sau đó cho các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, em Ngân mở
bài:''Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành
viên thứ năm của gia đình em, nay đã được bốn tháng."
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ
thụ nơi làng quê, em Thanh Hà mở bài như sau:
"Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng
trăm năm tuổi. Cả làng gọi đó là cây đa ông Đài, vì ông Đài là người trồng ra
nó, nhưng ông Đài là ai, sống và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả."
Em Giang lại viết: "Từ bến đò, xa xa, em đã nhìn thấy
làng em. Phải đi qua một cánh đồng rộng lớn, một con đường dài hơn hai cây số,
em đã nhìn thấy làng quê thân yêu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên nền
trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng em đang huơ tay vẫy
chào, như đã chờ đợi em từ lâu lắm rồi."
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý
đúng, ý hay để mở bài một cách hợp lý nhất.
- Đoạn văn kết bài:
Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn
kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả.
Vì thế khi viết, các em phải viết thật cô đọng ngắn gọn tránh liệt kê cảm xúc
của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các
em thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay,
chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy tôi gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài
có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở,
sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.
Giải pháp 5: Thực hiện nghiêm
túc tiết trả bài
Tất cả những công việc, từ những việc làm
thông thường hàng ngày đến việc nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình
nhất định, bắt đầu từ việc lập kế hoạch đến
việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá
lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá
lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các khâu
trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể
biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho
những việc tiếp theo.
Dạy tập làm
văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài thường dành một tiết
kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành ấy cần được xem
xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn
kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài
chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá "nhằm mục đích
giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết
của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ,
ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ đó học
sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy
thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời
lượng.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự
như trong sách bài soạn đã hướng dẫn, tôi thay đổi hình thức hoạt động để học
sinh đỡ nhàm chán.
Ví
dụ: Tiết 41 - tuần 21: Trả bài văn miêu tả đồ vật (Trích)
Hoạt động thầy |
Hoạt động trò |
*Giáo viên nhận xét chung: -Giáo viên trả bài *Hướng dẫn HS chữa bài -Tổ chức thảo luận theo nhóm bàn |
-Trao đổi với bạn về cách làm
bài, đọc cho nhau nghe các câu, giúp nhau sửa lỗi trong bài làm |
Từ đó, học sinh sẽ thấy rõ ưu,
nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại
đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học
sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả
giao tiếp hàng ngày. Một phần không thể thiếu
trong tiết trả bài đó là: khuyến khích học sinh học tập nói chung, học
văn miêu tả nói riêng, không nhất thiết giáo viên luôn tặng điểm 9, 10 mà hãy
dành cho các em những lời khen thích hợp, những tràng pháo tay hay những món
quà nhỏ những khi các em có đoạn văn, câu văn hay, ý văn sáng tạo, xúc tích, thể
hiện được tình cảm chân thực, tự nhiên. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát
huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó khắc phục được những lo âu, tự
ti cố hữu.
Giải pháp 6:Chuẩn bị kĩ phần củng
cố – dặn dò trong các tiết tập làm văn
Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết
học nhưng lại là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở
ra hướng kiến thức mới cho tiết học sau, vì
vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của các em.
Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở
nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các
em nên ở phần củng cố, tôi không đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các em
bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná nhau mà đưa
ra những đoạn văn miêu tả khác nhau. Chẳng hạn, trong tiết luyện tập xây dựng
đoạn văn miêu tả con vật, phần củng cố bài, tôi có thể đọc cho các em nghe đoạn
văn tả con mèo như sau:
"...Chị rất thích vuốt ve chiều chuộng. Lần nào cũng vậy, hễ thấy em ngồi
vào bàn học là y như rằng mấy phút sau, đã thấy chị lững thững bước theo vào,
nhẹ nhàng cọ quẹt cái mũi ươn ướt vào chân em ra chiều nũng nịu. Những lúc như
thế, em không thể không dành ít phút bế chị lên vỗ về, vuốt ve, nói chuyện với
chị...”
Các đoạn văn đưa ra cũng không
nên quá dài hay quá ngắn vì nếu dài quá học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ
không đảm bảo nội dung. Đặc biệt đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc đúng cấu
trúc ngữ pháp, lời văn giản dị, câu
văn giàu hình ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về
nội dung và hình thức.
Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh
giá để học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh
nhận rõ nội dung miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành
văn.
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài
giảng, thực hiện được tốt các giai đoạn trên, tôi không ngừng học tập nâng cao
trình độ, tham gia đủ các lớp học chuyên môn, các tiết hội giảng do nhà trường
và các cấp quản lý triển khai, chịu khó sưu tầm các loại sách vở liên quan đến
chuyên môn, tự lập cho mình tủ sách riêng để
tiện tra cứu khi cần thiết. Đặc biệt trong thời đại mà khoa học công nghệ thông
tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết phải là người đi đầu
trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin hiện đại ấy.
Việc tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn giản, lại không tốn kém đáng kể
về kinh tế, ngoài giờ lên lớp, mỗi ngày ta có thể dành ít thời giờ để lên mạng
tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, như vậy vốn kiến thức của
chúng ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài giảng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn, nhất
là với việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần thiết.
Sau phần củng cố là phần dặn dò cũng không kém phần quan trọng,
ở hoạt động này, tôi phát cho HS phiếu bài tập và yêu cầu học sinh đọc rồi
hướng dẫn cách thực hiện để các em có thể hiểu và làm được ở tiết sau.
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm
khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự
đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn bè đồng nghiệp. Vì vậy, tôi đã nghiêm túc
trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh
hoạt khối, sau tiết dự giờ hay sinh hoạt chuyên môn.
5.5.Khả năng áp
dụng của sáng kiến: Sáng kiến này áp dụng
cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học An Lộc B
6. Những thông tin cần được bảo mật : Không có .
7.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
-Tìm hiểu kỹ đối tượng học
sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và nắm chắc đặc điểm, chức năng của
văn miêu tả và cần giúp các em
hiểu rõ các đặc
điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
-Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn
nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải dạy tốt các phân môn còn
lại đồng thời khuyến khích sự yêu thích đọc sách, hòa mình với thiên nhiên của
các em.
-Cần chuẩn bị chu đáo trước khi
lên lớp, để khi thực hiện kế hoạch bài học trên lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử
dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn hay…giúp các
em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào bài làm
của mình.
-Cần coi tiết trả bài như một
khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp theo. Trả bài là tiết học mà giáo
viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh điều chỉnh
những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn , hấp
dẫn hơn .
8. Kết quả của sáng kiến:
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập
làm văn lớp tôi đã đạt được kết quả ở cuối kì I như sau:
Lớp |
Số HS |
Điểm |
|||||
HTT |
HT |
CHT |
|||||
SL |
TL% |
SL |
TL% |
SL |
TL% |
||
45 |
38 |
12 |
31,6% |
24 |
63,1% |
2 |
5,2% |
Bài làm của nhiều
em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình ảnh,
giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như:
Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm xúc chân thật.
Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng
miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài làm na ná như
nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy Tập làm văn thì
kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp trên mới chỉ được
áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn
miêu tả ở lớp 2, 3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả
quan hơn rất nhiều.
Với kết quả nêu
trên, tôi thật sự vui mừng vì đã đạt
được kết quả tốt. Các em đã lĩnh hội được kiến thức khi bước chân vào bậc
Trung học cơ sở .
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/