1.
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng
kiến: Phát huy tính tích cực, tự
giác, độc lập của học sinh lớp 2
2.
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng
kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
Ngày 9 tháng 9 năm 2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến
5.1. Tính mới
của sáng kiến:
Hiện nay, phong trào đổi mới nội
dung, chương trình sách giáo khoa đang được triển khai rộng khắp nước ta. Việc
đổi mới kéo theo sự thay đổi về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học và nó
được thể hiện trong hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập, sáng
tạo của học sinh trong quá trình học tập.
Việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh đóng vai trò
quan trọng, trong quá trình dạy học hiện nay. Việc dạy học lấy học sinh làm
trung tâm đòi hỏi người học sinh phải tích cực, độc lập, tực giác. Tình tích
cực, tự giác, độc lập giúp học sinh tự tin, chủ động trong hoạt động học tập.
Trong đó thầy cô giáo đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của
học sinh. Thông qua hoạt động học, mỗi học sinh đều được bộc lộ hiểu biết của
mình và đều có cơ hội trình bày.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng
của việc học nên không ham học. Với tư cách là một giáo viên tôi luôn băn khoăn
là làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong
học tập. Đó chính là vấn đề nóng bỏng phải thực hiện nhanh và đúng cách để
những thế hệ do chúng ta đào tạo là những người làm chủ tương lai, đất nước,
biết xây dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn dân đi lên sánh được
với các nước phát triển trên thế giới. Đặc biệt là các giáo viên ở các vùng
miền nông thôn. Qua đổi mới phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh nông
thôn mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá việc học của
mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn khác. Từ đó các em có tính
chủ động hơn trong việc học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để việc học có
kết quả cao hơn.
Sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đòi hỏi những con người năng động, sáng tạo, tự lực tự
cường. Thế giới đã chuyển sang thời kì kinh tế tri thức, cho nên đầu tư vào
chất xám sẽ là cách đầu tư hiệu quả đang hình thành và phát triển. Với nhu cầu
đó đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế
hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc.
Nhìn lại việc học của con em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn
nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít.
Dạy học
phát huy tính tích cực,
tự giác, độc lập, học tập của học sinh, có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình
dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu các kiến thức, kĩ
năng, biến những cái đó thành kiến thức, kỹ năng của mình. Học như vậy,
khiến sự hiểu biết của các em vững, chắc hơn, hứng thú của các em sẽ được
tăng cường hơn. Dạy học phát huy tính tích cực giúp hoạt động tư duy của
học sinh được khơi dậy và phát triển, giúp hình thành và phát triển các
năng lực hoạt động trí tuệ. Vì vậy, tôi chọn sáng kiến “Phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh lớp 2 ”.
5.2. Nội dung của
sáng kiến:
5.2.1. Cơ sở lí luận:
Trong quá trình giảng dạy, để giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao
chúng ta cần biết lựa chọn phướng pháp dạy học tối ưu nhất, phù hợp với phương
pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học. Song để đi đến
thành công giáo dục đòi hỏi mọi người phải biết và không ngừng nỗ lực phấn đấu,
sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc dạy học
của mình. Đây là một công việc vừa mang tính giáo dục vừa mang tính nghệ thuật.
Do đó Bộ Đáo dục đã đề ra yêu cầu của việc dạy học hiện nay là tăng cường hoạt
động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Đổi mới về phương pháp dạy học ở
tất cả các môn học thông qua việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ lớp
1 đến lớp 5. Đó là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường Tiểu học trong tình hình hiện nay.
5.2.2. Thực trạng
- Xuất phát từ kết
quả khảo sát lớp đầu năm chưa cao.
- Đa số các em còn thụ động, ít phát biểu. Một số em không biết cách
diễn đạt, các em còn lúng túng không biết trả lời thế nào khi cô đặt câu hỏi,
các em chưa tích cực, chưa tự giác học.
a. Tình trạng của vấn
đề đặt ra và sự cần thiết để tiến hành thực hiện
+ Tình trạng chung: Hiện nay trình độ dân trí của nước
ta nói chung và dân trí ở các vùng nông thôn nói riêng đang còn thấp so với các
nước phát triển và đang phát triển trên thế giới. Vậy làm thế nào để giải quyết
vấn đề đó? Để nâng cao trình độ nhận thức của người dân thì những người làm
trong ngành giáo dục phải có trách nhiệm khá nặng nề, mà muốn giải quyết được
vấn đề đó thì đòi hỏi phải đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương
pháp dạy học cũng như hình thức dạy học để phù hợp với đối tượng, phù hợp với
sự phát triển của xã hội.
+ Tình hình địa phương: Phường An Lộc là một phường nằm ngay
trung tâm thị xã tuy có điều kiện khá thuận tiện hơn so với một số phường khác
nhưng trình độ dân trí ở đây vẫn còn thấp, đều kiện kinh tế vẫn còn khó khăn
nên sự quan tâm đến việc học tập của con em trên địa bàn của một số gia đình
còn nhiều hạn chế.
+ Tình hình trường, lớp: Trường Tiểu học An Lộc A là một ngôi
trường được thành lập tương đối lâu có 3 dãy phòng học gồm 29 lớp. Tuy nhiên
tình hình học sinh đầu năm đến trường còn nhiều hạn chế như: ý thức tự giác học
tập của các em chưa cao, một số em còn rụt rè, một số em thiếu tự tin trước đám
đông, một số em thiếu sự quan tâm của phụ huynh do hoàn cảnh kinh tế khó khăn
phải đi là xa gởi con ở với ông bà.
b. Tính thuyết phục
Trong giai đoạn hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm đòi
hỏi ở học sinh một yêu cầu cao là học sinh phải độc lập, tự giác, sáng tạo
trong học tập. Quá trình dạy học này gồm hai mặt quan hệ với nhau: Hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ thể của
hoạt động dạy với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức. Bằng hoạt
động học tập học sinh tự hình thành và phát triển nhân cách của mình không ai
có thể làm thay được.
Như vậy, dạy học phải xây dựng trên nhu cầu hứng thú, thói quen, năng
lực của học sinh ở các trình độ khác nhau nhằm làm cho học sinh lĩnh hội được
những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ giá trị cần thiết, phát huy được đầy
đủ năng lực của các em. Vai trò của giáo viên là truyền đạt tri thức, là người
hướng dẫn, là người cố vấn cho học sinh trong việc học tập. Chỉ có sự phối hợp
và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa những tác động bên ngoài của giáo viên,
biểu lộ trong việc trình bày tài liệu chương trình và tổ chức công tác học tập
của học sinh với sự căng thẳng trì tuệ” bên trong” của các em mới tạo được cơ
sở của sự học tập có hiệu quả. Tình tích cực nhận thức của bản thân các em càng
cao thì sự cân băng năng lượng cơ sở tư duy sẽ càng phong phú và những kiến
thức được lĩnh hội càng sâu sắc, đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
5.2.3. Các giải pháp:
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng
thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều. Trước
hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến
trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc
điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm
gồm:
* Năng lực khoa học
* Năng lực hiểu học sinh
* Năng lực ngôn ngữ
* Năng lực tổ chức
* Năng lực phân phối chú ý
* Năng lực trình bày bài giảng
* Óc tưởng tượng sư phạm
Ngoài ra giáo viên muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học
sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện
nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy
tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng
và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát
huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh trong học tập, cụ thể là:
1. Phương pháp thuyết minh.
9. Phương pháp trò chơi học tập.
2. Phương pháp đàm thoại.
10. Phương pháp quan sát.
3. Phương pháp thảo luận.
11. Phương pháp thí nghiệm.
4. Phương pháp hỏi đáp.
12. Phương pháp nêu vấn đề.
5. Phương pháp tìm tòi.
13. Phương pháp giải quyết vấn đề.
6. Phương pháp kể chuyện.
14. Phương pháp khảo sát điều tra.
7. Phương pháp động não.
15. Phương pháp thực hành luyện tập.
8. Phương pháp đóng vai.
16. Phương pháp lập luận đề án.
Việc đổi mới PPDH tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo
một sự tương ứng cần thiết. Sự đa dạng của phương pháp dạy học trong sự phối
hợp của chúng, đòi hỏi phải có một số hình thức tổ chức dạy học thích hợp. Mỗi
hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực phát triển học sinh một khía
cạnh nào đó. Vì vậy, chúng ta cần phải biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức để
phát huy thế mạnh của mỗi hình thức tổ chức dạy học. Phương pháp dạy học mới,
đòi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm
việc, trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn, cụ thể là sử dụng các hình thức
dạy học sau:
* Dạy học cá nhân: Là chú ý phát
triển năng lực riêng của từng học sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen
tự học, tự làm việc, hình thức dạy học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với
phiếu học tập, ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Làm bài tập trong
sách, làm các trò chơi, tiến hành các thí nghiệm, sự thể hiện tài năng, các
hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh, thu tập tài liệu, khảo sát thực tế
nơi mình ở.
*
Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao vai trò tự hợp
tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn luyện cho
học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người
khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời học sinh biết trình bày ý
kiến của mình cho bạn nghe và học được công tác tổ chức, điều khiển.
Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
- Thảo luận về một vấn đề học tập.
- Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh một
đề tài.
- Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
- Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
- Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.
- Xây dựng một phương án hay một kế hoạch.
* Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến trong
dạy học lấy HS làm trung tâm.Trong dạy học lấy HS làm trung tâm, để xuất hiện
nhiều hình thức dạy học phù hợp với các PPDH đề cao vai trò hoạt động nhận thức
của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều tác dụng tích cực, nhưng không diễn
ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vào những lúc thích
hợp của tiết học như vào đầu, giữa và cuối tiết học.
* Dạy học ngoài trời: Có nhiều nội dung gần gũi, gắn với môi trường tự
nhiên và xã hội xung quanh. Những bài học đó nếu có điều kiện nên tổ chức cho
học sinh học ngoài trời những địa điểm thích hợp như vườn trường, sân trường
hoặc những địa điểm gần trường. Vì việc học ngoài trời giúp học sinh có biểu
tượng rõ nét, cụ thể về sự vật, hiện tượng nên nắm bài tốt hơn vì mắt thấy, tai
nghe...Đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, phát triển tư duy cụ thể. Mặt khác
bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, thói quen hợp tác, học hỏi lẫn nhau.
* Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài hiện
trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn nuôi, nhà bảo
tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông ,hồ, thác nước...
Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh. Học
sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được học trong
lớp nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn. Liên hệ thực tế với
bài học HS phát triển kĩ năng quan sát, so sánh, óc tò mò, trí tưởng tượng, bồi
dưỡng hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.
* Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được trong
mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển.Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý
những đặc tính: Vui- Khoẻ- An toàn- Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư
giản...được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh, có
hai đặc điểm cơ bản sau:
+ Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng
tâm của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
+ Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây
hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.
* Tóm lại: Phát huy tính tích cực, tự giác độc lập của học sinh
trong học tập, tập trung vào các vấn đề sau:
- Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho học sinh
chủ động, tích cực, sáng tạo và linh hoạt trong học tập.
- Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo
ra tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết
vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành
cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
- Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày
kiến thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học sinh,
nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề
nghiên cứu.
- Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu quả
to lớn trong việc dạy học.Việc dạy học trực quan không những làm cho quá trình
học tập thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho
các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu
hiện bề ngoài, kích thích ham hiểu biết của học sinh.
- Cải tiến công tác tự học. Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong
việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và
tiếp thu kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng sự
nghiên cứu của cơ sở lí luận DH của việc tổ chức công tác tự học của học sinh.
- Ngoài 4 nội dung trên, thái độ ngôn ngữ truyền đạt, tình cảm quan hệ
giữa GV và HS cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Do đó đòi hỏi người GV phải
là người mẫu mực, là tấm gương, là thần tượng của các em.
5.2.4. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề:
a. Đối với việc học ở nhà:
- Cho học sinh lập thời gian biểu
học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ thể
gắn liền với thời gian cụ thể.
- Tổ chức họp phụ huynh từng kì
để trao đổi vấn đề học tập của các em
đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết hợp với cha mẹ học sinh để thăm dò
quản lí việc học tập của các em.
- Thường xuyên đến thăm gia đình
học sinh, đặc biệt là những em cá biệt,
những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin
thường xuyên giữa gia đình và giáo viên
chủ nhiệm.
- Phát huy các phong trào học
theo nhóm nhỏ (đôi bạn cùng tiến, bạn chung đường, …)
b. Đối với việc học ở lớp:
- Đến thư viện của trường mượn:
Sách, đồ dùng học tập cho những học sinh còn thiếu.
- Duy trì nề nếp kiểm tra bài
cũ, kiểm tra sự chuẩn bị ĐDHT, chữa bài tập thường xuyên với thông qua tổ
trưởng, lớp trưởng, giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
- Có hình
thức nhắc nhở, khen thưởng cụ thể nhằm động viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và
nhắc nhở những em lười học và không chú ý trong giờ học.
- Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát
nội dung bài học và phù hợp với ba đối tượng học sinh để học sinh nắm bài được
tốt.
- Thường xuyên tổ chức cho học
sinh hoạt động và thảo luận theo nhóm, tổ chức trò chơi hoặc sắm vai tuỳ theo
môn học, bài học.
- Tạo hứng thú cho học sinh bằng
cách nêu gương và thi đua giữa các tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân...
- Bồi dưỡng học sinh năng khiếu,
hỗ trợ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng vào các tiết học trong tuần.
- Thay đổi phương pháp dạy học
theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
*Đối với môn toán:
+ Khi hướng dẫn HS trả lời bài
cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn, nắm vững kiến thức trọng tâm, trả lời hoặc
làm bài tập có liên quan đến kiến thức đã học, hoàn thành bài với phép tính dễ
hiểu với bước giải nhanh nhất.
+ Khi hướng dẫn học bài mới ở
nhà: GV yêu cầu HS nghiên cứu bài tập ở nhà trước, đọc và tập làm một số bài
tập trong sách giáo khoa.
+ Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều
phương pháp như: Trực quan, đàm thoại, thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh
tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do
đó, GV phải sử dụng triệt để các DDDH. Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian
cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi
dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
+ Tạo hứng thú cho các em bằng
cách: Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi
điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân , giữa các tổ, nhóm...Sau đó cho
học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng.
*Đối với môn Tiếng việt:
+ Khi hướng dẫn học sinh trả lời
bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và
đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức độ hoàn thành từ 50% trở lên.
+ Khi hướng dẫn HS học bài mới ở
nhà, GV yêu cầu:
- Đối với phân môn tập đọc: Yêu
cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi
trong sách giáo khoa.
- Đối với phân môn chính tả: Yêu
cầu học sinh đọc trước bài cần viết, tập chép bài đó vào vở ở nhà.
- Đối với phân môn Tập làm văn:
Yêu cầu HS đọc phần nhận xét và trả lời các câu hỏi để tự rút ra bài học và áp
dụng bài học đó để làm các bài tập phần luyện tập.
- Đối với phân môn Luyện từ và
câu: Yêu cầu HS đọc đọc phần nhận xét và trả lời các câu hỏi để tự rút ra bài
học và áp dụng bài học đó để làm các bài tập phần luyện tập.
+ Khi dạy bài mới: GV sử dụng
triệt để các ĐDDH có liên quan đến bài học, sử dụng phương pháp: Trực quan; đàm
thoại; giảng giải; hỏi đáp; thực hành; phân tích; tổng hợp; tổ chức cho học
sinh hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai... Đặc biệt phương pháp trực quan,
hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho
học sinh học sôi động hơn. Từ đó tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực
hành thì giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức
cho các em.Tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các
cá nhân, giữa các nhóm, tổ... qua các trò chơi học tập...
* Đối với các môn còn lại:
+ Khi hướng dẫn học sinh trả lời
câu hỏi bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn và đúng trọng tâm, mô tả tranh
rõ ràng.
+ Hướng dẫn học bài mới ở nhà:
GV yêu cầu HS quan sát tranh, đọc trước bài, nắm chắc ý chính, trả lời hệ thống
câu hỏi trong sách giáo khoa..
+ Khi giảng bài mới: GV sử dụng
tích cực hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, GV chỉ là người tổ chức còn HS là
người thực hiện.
+ Tạo hứng thú cho học sinh bằng
cách: Tổ chức học tập theo nhóm, tổ chức thi đua giữa các nhóm, tổ chức các trò
chơi học tập, động viên, khen thưởng HS kịp thời, đúng lúc.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng
kiến
Những biện pháp của tôi đưa ra đã được áp
dụng tại lớp Hai/4 do tôi chủ nhiệm và mang lại hiệu quả khá cao. Việc áp dụng
sáng kiến này vào trong quá trình giảng dạy cũng không quá khó khăn và đạt kết
quả tốt. Tỷ lệ học sinh cuối kì I đạt hoàn thành tốt cao.
- Những biện pháp tôi đưa ra đã mang lại
những lợi ích thiết thực, nó giúp tư duy của học sinh tốt hơn, học sinh tích
cực, tự giác hơn và độc lập trong suy nghĩ, không ỷ lại vào giáo viên hay người
khác.
- Sáng kiến này đã được áp dụng và có hiệu
quả trong phạm vi lớp học, trường học nhất định. Khi áp dụng trên những đối
tượng học sinh khác nhau cần có những điều chỉnh phù hợp với môi trường và điều
kiện học tập.
- Với những biện pháp mà tôi đưa
ra cũng có thể áp dụng cho các khối lớp khác và các trường khác đều đem lại kết
quả cao.
6. Những thông tin cần được bảo mật (Nếu
có): không
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng
kiến
Để
áp dụng sáng kiến này thành công đòi hỏi:
- Giáo viên trước hết phải trang bị đủ
kiến thức, kỹ năng sư phạm, phải có lòng nhiệt tình, sự năng động, đặc biệt là
lòng yêu nghề mến trẻ. Giáo viên khi soạn bài phải có kế hoạch cụ thể cho từng
hoạt động. Xem xét kỹ từng đối tượng học sinh, cũng như điều kiện phục vụ dạy –
học. Giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức các hoạt động dạy – học(
trong đó thầy giữ vai trò chủ đạo). Sau mỗi hoạt động học sinh được tự đánh
giá, giáo viên đánh giá.
- Giáo viên phải làm tốt công tác tham mưu
với BGH, với chuyên môn nhà trường. Qua đó tạo điều kiện cơ sở vật chất, trang
thiết bị dạy học để Ứng dụng tốt công nghệ thông tin. Đồng thời, tham mưu và
phối hợp với cha mẹ học sinh.
- Học sinh: Chuẩn bị bài, dụng cụ học tập
đầy đủ, tham gia các hoạt động học tập tích cực và chủ động.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến
có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
8.1. Kết quả
- Từ những biện pháp nêu trên bản
thân tôi nhận thấy có kết quả khả quan như sau:
+ Không khí lớp học sôi nổi, ở
học sinh có sự tiến bộ rõ rệt về kết quả học tập. Các em dần dần mạnh dạn, tự
tin không còn rụt rè khi đưa ra ý kiến, phát biểu rất chuẩn xác đúng trọng tâm
bài (70 % học sinh tích cực học tập), (30 % học sinh có phát biểu nhưng chưa
diễn đạt tốt), cụ thể là:
+ Kết quả học tập học kì I
Thời gian |
TSHS |
Hoàn thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa hoàn thành |
|||
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
||
Đầu năm đến nay( áp dụng) |
39 |
17 |
43,6 |
19 |
48,7 |
3 |
7,7 |
+ Học sinh tích cực tham gia tốt các phong trào nhà
trường.
8.2. Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy, tôi đã rút ra một số kinh
nghiệm để phát huy tính tích cực, tự giác độc lập học tập của học sinh như sau:
- Thường xuyên áp dụng phương pháp tích
cực hóa hoạt động, lấy học sinh làm trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò
tổ chức hoạt động học của học sinh, thông qua hoạt động, mỗi học sinh đều được
hoạt động, được bộc lộ mình và đều có cơ hội trả lời.
- Tăng cường sử dụng phương tiện, thiết bị
dạy học nhằm:
+ Làm tăng hứng thú học tập, nhận thức của
học sinh.
+ Tạo điều kiện để học sinh tự lực chiếm
lĩnh kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo.
- Sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức lớp học khác nhau,
tạo nên sự mềm dẻo, linh hoạt và sinh động trong quá trình dạy học, tạo điều
kiện để học sinh bộc lộ khả năng của chính các em.
- Kế
hoạch bài học phải xác định rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp và phương tiện
dạy học, hoạt động dạy học. Giáo viên cần lựa chọn hoặc xây dựng các hoạt động
dạy học để đạt được mục tiêu của bài, phù hợp với đối tượng và điều kiện của
học sinh. Giáo viên cần lên kế hoạch, bố trí thời gian cho hoạt động dạy học đã
xác định.
Trong từng hoạt động phải nêu rõ mục tiêu,
cách tiến hành hoạt động, hoạt động nào của giáo viên, hoạt động nào của
học sinh. Hoạt động dạy học phải sinh động, hấp dẫn lôi cuốn được học sinh
tham gia.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/