1. Là tác giả đề nghị xét
công nhận sáng kiến: Biện pháp nâng cao tính tích cực cho học sinh trong quá trình tìm hiểu,
phân tích đề bài toán có lời văn”.
2. Chủ đầu tư tạo ra
sáng kiến:
3. Lĩnh vực áp dụng
sáng kiến:
Giáo dục ( Toán )
4. Ngày sáng kiến được
áp dụng thử: Từ tháng 9/2020, áp dụng
lần đầu từ tháng 12/2020
5. Mô tả bản chất của
sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng
kiến:
Học sinh lớp 3 mới tiếp cận chương trình về giải
bài toán bằng hai phép tính, kĩ năng đọc hiểu của các em chưa cao nên việc xác
định đề gặp nhiều khó khăn.
Các
giải pháp khắc phục thói quen giải toán máy móc, rập khuôn, thiếu tích cực của
học sinh hiện nay nêu trong đề tài mang tính đột phá khá cao.
Các
biện pháp khắc phục thói quen đọc đề bài thiếu tích cực của học sinh có nhiều
điểm mới.
Đề
tài vận dụng linh hoạt một số phương pháp phân tích đề bài theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động; phát triển kĩ năng tư duy logic, hệ thống và khoa học
cho học sinh.
5.2: Nội dung sáng kiến:
5.2.1.
Giúp học sinh đọc đề bài “tích cực”:
Trong tiến trình giải
toán có lời văn, ngay từ khâu đọc đề bài và tìm hiểu đề bài, học sinh thường có
thói quen “đọc thuộc” đề bài để trả lời các câu hỏi mà giáo viên vẫn thường hỏi
khi giúp học sinh tìm hiểu đề bài chứ chưa thực sự “Thâm nhập đề bài”. Học sinh
thường trả lời câu hỏi của giáo viên theo cách “Đọc thuộc lòng từng câu, đoạn”
chứa nội dung, thông tin có trong đề bài để trả lời các câu hỏi của giáo viên.
Các em ít khi dùng lời văn của mình để diễn đạt lại nội dung, yêu cầu của bài
toán. Các em không biết lược bớt các từ ngữ không quan trọng trong đề bài và
càng không dám thay thế một số từ, cụm từ hoặc diễn đạt lại các dự kiện, thông
tin đề bài đã cho cũng như yêu cầu cần thực hiện của đề bài sao cho súc tích, ngắn
gọn mà vẫn đủ ý.
Để khắc phục tình
trạng này, tôi sử dụng một số giải pháp sau:
Giải pháp 1. Giúp
cho học sinh hiểu: “Thế nào là đọc kĩ đề bài?”
Tình huống đặt ra là: Có phải đọc kĩ đề bài là đọc nhiều lần đề bài không?
Đọc kĩ
đề bài là vừa đọc vừa tư duy để tìm hiểu đề bài (Thâm nhập đề bài) chỉ đọc lại
những câu, từ, cụm từ chưa hiểu để suy ngẫm, hiểu rõ các dự kiện và yêu cầu của
đề bài. Chứ không phải là đọc nhiều lần đề bài và càng không nên đọc thuộc lòng
đề bài mà không hiểu đề bài.
Người đọc phải hiểu rõ những thông tin được
đưa ra như là những tư liệu, những dữ kiện cần thiết để người giải toán có thể
đưa ra lời giải. Không phải lúc nào những dữ kiện được đưa ra cũng đầy đủ và
chi tiết. Câu hỏi là
những gì đề bài bắt mình đi tìm, giải quyết hoặc chứng minh.
Việc
đọc kĩ đề toán, vừa giúp học sinh nắm được các thành phần của bài toán, hiểu
một đề toán có hai thành phần “giả thuyết” và “kết luận” (Chưa tường minh).
Ví dụ :
Bài tập 3 (Toán 3 -
trang 115)
Mỗi xe chở 1425kg gạo. Hỏi 3 xe như
thế chở bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
* Yêu
cầu học sinh đọc kĩ bài toán để chỉ ra được:
- Bài
toán cho biết gì ? (Mỗi xe chở 1425kg gạo)
- Bài toán hỏi gì ? (3 xe như thế chở bao nhiêu
ki-lô-gam gạo?)
Giải
pháp 2. Rèn cho học sinh các kĩ năng “Thâm nhập đề
bài”:
- Cách đọc đề toán:
Yêu
cầu học sinh đọc thầm, không đọc thành tiếng đề toán nhằm tập trung tư duy nắm
bắt các dự kiện đề bài đã cho: Những đại lượng nào được nêu trong đề bài? Giá
trị của mỗi đại lượng? Các mối quan hệ toán học giữa các đại lượng?... Đồng
thời xác định rõ yêu cầu của đề bài là đi tìm đại lượng nào? Giá trị tương đối
hay giá trị tuyệt đối? ...
- Kĩ năng trình bày:
Nhắc
nhở học sinh không nên trả lời các câu hỏi tìm hiểu nội dung, yêu cầu bài toán
do giáo viên đưa ra một cách nguyên văn như trong sách giáo khoa và sửa chữa,
uốn nắn cho học sinh biết dùng lời văn của mình để trả lời sao cho ngắn gọn,
súc tích mà vẫn đủ ý. Như: lược bớt các từ ngữ không quan trọng trong đề toán;
thay thế bằng từ, ngữ khác sao cho cụ thể, dễ hiểu hơn...
Ví dụ : Bài tập 2, trang 118 – sách giáo khoa Toán 3
“Người ta lắp bánh xe
vào ô tô, mỗi ô tô cần phải lắp 4 bánh xe. Hỏi có 1250 bánh xe thì lắp được
nhiều nhất bao nhiêu ô tô như thế và còn thừa mấy bánh xe?”
Học
sinh có thể nêu nội dung, yêu cầu bài toán một cách cụ thể, rõ ràng hơn như:
Có 1250 bánh xe. Mỗi ô tô cần phải lắp 4 bánh xe..
Tìm số ô tô được lắp và số
bánh xe còn thừa ?
- Kĩ năng tóm tắt bài
toán:
Sau khi đã nắm
được các thành phần của bài toán, học sinh thực hiện tóm tắt đề bài (hay tóm tắt bài toán) bằng
nhiều hình thức như: Ngôn ngữ, sơ đồ, hình vẽ, kí hiệu,... Đây là khâu quan
trọng giúp học sinh định dạng và tìm ra hướng giải đúng đắn. Không có khâu này,
thường thì học sinh tìm ra cách giải sẽ gặp rất nhiều khó khăn, dễ mắc sai lầm.
Tuỳ theo yêu cầu của từng giai đoạn và khả năng tóm tắt đề của học sinh mà giáo
viên linh động hướng dẫn cho học sinh tóm tắt. Trong nhiều trường hợp, việc tóm
tắt đề bài thể hiện tương đối tường minh các bước giải quyết bài toán.
Ví
dụ 1 :
Tóm tắt (Bài tập 3, Toán 3, trang 55)
"Môĩ chuyến máy bay chở được 116 người.
Hỏi 3 chuyến máy bay như thế chở được bao nhiêu người ?”
1 chuyến : 116 người
3 chuyến : ….. người ?
Ví dụ 2: (Toán 3, trang 47)
"Thu hoạch ở thửa ruộng
thứ nhất được 127kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần số cà
chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu
ki-lô-gam cà chua ?.”
Phần
đã cho: Thu
hoạch ở thửa ruộng thứ nhất.
Phần cần tìm: Thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai. Thu hoạch
ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua ?
Để nhận ra mối liên hệ giữa hai
phần ta tóm tắt bài toán như sau:
127kg
?
Thửa ruộng thứ nhất:
Thửa ruộng thứ hai:
?
Qua sơ đồ trực quan, học sinh dễ dàng nhận ra
độ dài đoạn thẳng biểu diễn giá trị thửa ruộng thứ hai bằng 3 lần độ dài biểu diễn giá trị thửa ruộng thứ nhất. Tổng độ dài của
2 đoạn thẳng biểu diễn giá trị tồng thu hoạch của 2
thửa ruộng. Nhờ có sơ đồ trực quan, học sinh thuận lợi
hơn trong việc xác định các bước giải, phép tính giải cho bài toán.
Giải pháp 3: Sử
dụng hệ thống câu hỏi linh động, phù hợp.
Trong khâu giúp học sinh tìm hiểu đề bài, GV
cần sử dụng hệ thống các câu hỏi mang tính sáng tạo nhằm định hướng tư duy,
loại bỏ sai lầm, phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh như:
Đề bài
có xuất hiện từ, cụm từ hay thuật ngữ toán học nào mới lạ không? Hãy suy nghĩ ý
nghĩa của các mối quan hệ toán học xoay quanh cụm từ, thuật ngữ toán học đó?
Có
thông tin nào về nội dung hay yêu cầu của đề bài khiến chúng ta băn khoăn, khó
xác định không nhỉ? Hãy đọc kĩ những thông tin, nội dung, yêu cầu đó và suy
nghĩ cẩn thận để hiểu rõ hơn.
Hãy chú ý nội dung của đề bài bên cạnh những
từ, thuật ngữ toán học chỉ quan hệ để hiểu đúng bản chất của các mối quan hệ
giữa các đại lượng thông qua những từ, thuật ngữ toán học đó; tránh máy móc,
ngộ nhận dẫn đến xác định sai…
5.2.2 Giúp học sinh phân tích đề bài “tích cực”:
Phân tích đề bài là người học phải có khả năng
phân tích dữ kiện đề bài đã cho để hiểu rõ hơn những gì mình đang có. Khả năng
phân tích càng chi tiết thì mình càng có tiềm năng tìm ra lời giải. Phân tích
câu hỏi là việc bóc tách câu hỏi để có thể trả lời từng phần một cách rõ ràng
hay dự đoán những phương pháp có khả năng sử dụng để giải quyết vấn đề. Việc
bóc tách vấn đề giúp việc trả lời câu hỏi phụ dễ hơn, còn liệt kê các phương
pháp giúp dự đoán cách giải dựa trên thông tin được đưa ra.
Qua
nghiên cứu toàn bộ các dạng toán có lời văn trong chương trình Toán Tiểu học
hiện hành (Từ lớp 1 đến lớp 5), tôi thấy: Toàn bộ các bài toán phần luyện tập
giống y hệt bài toán mẫu ở “phần lý thuyết” về bản chất, chỉ thay đổi số và tên
đại lượng. Chính vì vậy mà học sinh không cần hiểu cách giải dạng toàn vừ học.
Các em thường bắt chước cách giải, các bước giải của bài toán mẫu hay cách giải
của giáo viên một cách máy móc, rập khuôn mà vẫn cho kết quả đúng (Chỉ việc băt
chước, rập khuôn các phép tính giải của bài toán mẫu nhưng thay số và đổi tên
đại lượng là đảm bảo đúng mà không cần mất công suy nghĩ).
Học sinh thường lười tư duy, thiếu cố gắng trong việc rèn luyện các kĩ
năng phân tích đề bài tìm cách giải cho
bài toán nhưng lại rất thích đơn giản hóa quá trình giải toán một cách bất hợp
lí như: Xem trong đề bài nếu xuất hiện từ, thuật ngữ toán học chỉ quan hệ giữa
các đại lượng như: “Tất cả”, “Nhiều hơn (Số đơn vị)”, “thêm (Số đơn vị)” ...
thì làm phép cộng; “Còn lại”, “Ít hơn (Số đơn vị)”, “Kém (Số đơn vị)”... thì
làm phép tính trừ; “Gấp (số lần)” thì làm tính nhân; “Kém (Số lần)”, “Ít hơn
(Số lần)”, “Bằng một phần mấy” thì làm phép tính chia. Đây cũng là một thói
quen giải toán máy móc của học sinh. Học sinh thường không tập trung phân tích
mối quan hệ giữa các đại lượng thông qua các từ chỉ quan hệ đó để xây dựng phép
toán giải phù hợp.
Để khắc phục tình
trạng này, tôi đã chỉ đạo giáo viên sử dụng một số giải pháp sau:
Giải pháp 4: Phân tích đề bài qua
mô hình trực quan.
Việc sử dụng các mô hình trực quan như biểu đồ ven, biểu đồ quạt, đặc biệt
là sơ đồ đoạn thẳng (Vì sơ đồ đoạn thẳng là kiểu mô hình trực quan vừa dễ vẽ
lại dễ phân tích, dễ nhận diện qua quan sát) để phân tích đề bài giúp cho học
sinh nắm bắt những thông tin của các phần đã cho và phần cần tìm một cách cụ
thể, tường minh. Học sinh sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc xác định mối
quan hệ giữa đại lượng cần tìm với các dự kiện đề bài đã cho và các thông tin
có liên quan để làm cơ sở quan trọng trong việc tư duy tìm ra cách giải cho bài
toán.
Ví dụ : (Bài 3 – toán , trang 30)
“ Lớp 2A có 15 học sinh gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học
sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai ?”
15 học sinh
Tóm
tắt bằng sơ đồ:
Số học sinh gái:
3 học sinh
Số học sinh trai:
? học sinh
Thông qua trực quan, học sinh dễ dàng nhận
thấy: Đoạn thẳng biểu diễn giá trị số học sinh trai bằng đoạn thẳng biểu diễn
giá trị số học sinh gái (15 học sinh) bớt đi đoạn thẳng biểu diễn giá trị số
học sinh trai ít hơn số học sinh gái (3 học sinh). Từ đó học sinh dễ dàng xác
định phép tính giải cho bài toán:
Số học sinh trai là:
15 – 3 = 12 (Học sinh)
Đáp số: 12 học sinh
Giải pháp 5: Giúp
học sinh tư duy logic, khoa học bằng phương pháp phân tích – tổng hợp:
Phương pháp này thường áp dụng
cho việc giải các bài toán hợp ở Tiểu học. Nguyên tắc cơ bản của việc giải các
bài toán hợp là phân tích bài toán hợp
thành các bài toán đơn rồi xây dựng kế hoạch giải bằng cách lần lượt giải các
bài toán đơn. Việc phân tích đề toán được bắt đầu từ câu hỏi của đề bài, liên
hệ với các dự kiện đề bài đã cho và các kiến thức đã được học để đi tìm hướng
giải cho bài toán.
VD 1. Một trường học có 440 học sinh. Trong đó,
có là học sinh khối ba. số học sinh còn lại là học sinh
khối hai. Hỏi khối hai có bao nhiêu học sinh?
Quá trình phân
tích – tổng hợp được tiến hành như sau:
Bước một. Phân tích đề bài, tìm cách giải:
- GV: Muốn tìm số học sinh khối
hai, ta làm thế nào? Vì sao?
- HS: Muốn tìm số học sinh khối hai, ta lấy số học sinh
còn lại chia cho 2. Vì: Số học sinh khối hai bằng số
học sinh còn lại.
- GV: Đề bài đã cho biết cụ thể số học sinh còn
lại chưa? Làm thế nào để tìm số học sinh còn lại?
- HS: Đề bài chưa cho biết cụ thể số học sinh
còn lại. Muốn tìm số học sinh còn lại, ta lấy số học sinh toàn trường trừ đi số
học sinh khối ba.
- GV: Đề bài cho biết số học sinh khối ba như
thế nào? Làm thế nào để tìm giá trị cụ thể của số học sinh khối ba?
- HS: Đề bài cho biết: Số học sinh khối ba bằng
số
học sinh toàn trường. Muốn tìm số học sinh khối ba, ta lấy số học sinh toàn
trường chia cho 4.
(440
: 4 = 110 (học sinh)).
Đến đây thì quá
trình phân tích tìm cách giải kết thúc vì đại lượng cần tìm được xác định rõ
ràng bằng phép toán cụ thể.
Bước hai. Tổng hợp quá trình phân tích,
xây dựng kế hoạch giải:
- GV: Muốn tìm số học sinh khối hai, chúng ta
phải thực hiện các bước giải theo trình tự như thế nào?
- HS: Muốn tìm số học sinh khối hai, ta thực
hiện các bước giải theo trình tự như sau:
+ Bước một: Lấy
số học sinh toàn trường chia cho 4 để tìm số học sinh khối ba.
+ Bước hai: Lấy
số học sinh toàn trường trừ đi số học sinh khối ba vừa tìm được để tìm số học
sinh còn lại.
+ Bước ba: Lấy số
học sinh còn lại chia cho hai để tìm số học sinh khối hai.
Bước ba. Thực hiện kế hoạch giải, ghi lời
giải và đáp số:
BÀI GIẢI
Số học sinh khối ba là:
440 : 4 = 110 (Học sinh)
Số học sinh còn lại là:
440 – 110 = 330 (Học sinh)
Số học sinh khối hai là:
330 : 2 = 165 (Học sinh)
Đáp số: 165 học sinh
Bước bốn. Kiểm tra lại phép tính, lời
giải, đáp số.
Sơ
đồ tóm tắt quá trình phân tích – tổng hợp:
Số học sinh khối hai?
(Số học sinh
còn lại) chia cho 2
Số học sinh toàn trường (440
học sinh) trừ đi Số học sinh khối ba
Số
học sinh toàn trường (440 học sinh) chia
cho 4
Giải
pháp 6: Phát triển, nâng cao kĩ năng tư duy giải
toán cho học sinh bằng phương pháp phân tích đề bài – tìm giải pháp.
Phương pháp phân tích – tìm giải pháp
thường dùng để phân tích các bài toán hợp có mối quan hệ giữa các phần khá phức
tạp như: Thông qua đại lượng trung gian nhưng không được nêu trực tiếp trong đề
bài hoặc thông qua các thuật ngữ toán học mới lạ, khó xác định được mối quan hệ
giữa các thành phần trong đề bài... Đây là phương pháp đòi hỏi học sinh phải tư
duy ở mức độ cao. Học sinh không những phải biết phân tích các mối quan hệ giữa
các đại lượng được nêu trong đề bài mà còn phải phối hợp, liên hệ các kiến thức
đã được học có liên quan với đề bài. Đồng thời phải có kĩ năng “tìm – đoán”
hướng giải cho bài toán một cách có cơ sở, khoa học nhằm xây dựng phép tính
giải, kế hoạch giải.
Khi
sử dụng phương pháp này, giáo viên cần lưu ý học sinh: Trong quá trình phân
tích đề bài – tìm giải pháp thì: Giải pháp mà chúng ta tìm và đoán có thể đúng
nhưng cũng có thể sai. Nếu sai thì quá trình phân tích lại được tiến hành lại
nhưng theo hướng khác (Tìm – đoán lại).
VD:
Tìm
hai số, biết: Tổng của hai số là 2013 và giữa chúng có 25 số lẻ.
Bước 1: Phân tích
đề bài – tìm giải pháp:
Khi tiến hành phân tích đề bài này để tìm
cách giải. Học sinh phải xác định được mối quan hệ giữa các đại lượng cần tìm
(Hai số) với các đại lượng, dự kiện đề bài cho biết để “tìm – đoán” giải pháp
đúng và xây dựng kế hoạch giải.
- Quá trình phân tích – tìm giải pháp được tiến hành
như sau:
+ Giáo viên:
Từ dự kiện đề
bài đã cho, Hãy liên hệ tới các dạng toán đã học và đưa ra phán đoán về giải
pháp ban đầu? Vì sao có phán đoán đó?
+ Học sinh:
Phải chăng đây là dạng toán hợp điển hình: “Tìm hai
số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” vì: Đề bài đã cho biết “Tổng của hai số là 2013’’. Có thể cụm
từ “giữa chúng có 25 số lẻ’’ là tư
liệu giúp ta tìm hiệu của hai số. Liên hệ với các kiến thức đã học, ta suy luận
như sau:
Tổng của hai số là 2013 - đây là số lẻ; suy ra hai số
cần tìm sẽ có một số chẵn và một số lẻ (vì hai số cùng chẵn hay cùng lẻ sẽ đều
cho tổng chẵn). Như vậy, số số chẵn và số số lẻ ở giữa hai số cần tìm là bằng
nhau. Vậy hiệu của hai số cần tìm là: 25 x 2 + 1 = 51 (Hiệu của hai số bằng số
số hạng ở giữa hai số cộng thêm 1). Như vậy, từ dạng toán lạ đã đưa về dạng
toán quen thuộc (Quy lạ về quen) là: Tìm hai số, biết: Tổng của hai số là 2013 và
hiệu của chúng là 51
Bước 2: Tổng hợp quá trình
phân tích xây dựng kế hoạch giải:
Ta
có sơ đồ:
?
Số bé:
25 số lẻ 2013
Số lớn:
?
Bước 3: Thực hiện
kế hoạch giải:
GIẢI:
Hiệu của hai số là
25 x 2 + 1 = 51
Theo sơ đồ, ta có:
Số bé là:
(2013 – 51) : 2 = 981
Số lớn là:
2013 – 981 = 1032
Đáp số: Số bé là 981
Số lớn là 1032
Giải pháp 7: Khắc phục thói quen giải toán máy móc,
phỏng đoán thiếu căn cứ cho học sinh:
Như đã nêu ở
trên: Học sinh thường lười tư duy, thiếu cố gắng trong việc rèn luyện các kĩ
năng phân tích đề bài tìm cách giải cho
bài toán nhưng lại rất thích đơn giản hóa quá trình giải toán một cách bất hợp
lí như: Xem trong đề bài nếu xuất hiện từ, thuật ngữ toán học chỉ quan hệ giữa
các đại lượng như: “Tất cả”, “Nhiều hơn” thì làm phép cộng; “Còn lại”, “Ít hơn
(Số đơn vị)”, “Kém (Số đơn vị)” thì làm phép tính trừ; “Gấp” thì làm tính nhân;
“Kém (Số lần)”, “Ít hơn (Số lần)”, “Bằng một phần mấy” thì làm phép tính
chia... Học sinh không phân tích mối quan hệ giữa các đại lượng thông qua các
từ chỉ quan hệ đó để xây dựng phép toán giải phù hợp.
Để
khắc phục thực trạng này, tôi thay một số bài tập phần luyện tập trong sách
giáo khoa bằng bài tập “đồng dạng” có các đại lượng xuất hiện trong đề bài
giống nhau, các con số giống nhau và cùng xuất hiện một từ chỉ quan hệ như nhau
nhưng từ chỉ quan hệ đó được đặt trong hai văn cảnh khác nhau dẫn đến các phép
tính giải khác nhau. Từ đó giúp học sinh cẩn thận hơn trong quá trình phân tích
đề bài; tránh máy móc, đồng thời khắc sâu hơn các mối quan hệ toán học thông
qua các từ chỉ quan hệ cho học sinh.
Ví
dụ : Bài 4 – toán 3, trang 82.
“Lớp
2A trồng được 48 cây, lớp 2B trồng được gấp
6 lần lớp 2A. Hỏi lớp 2B trồng được bao nhiêu cây?”
Tôi
thay bằng bài tập:
“Lớp 2A trồng được 48 cây, lớp 2A trồng
được gấp 6 lần lớp 2B. Hỏi
lớp 2B trồng được bao nhiêu cây?”
Khi
tôi hỏi: Bài toán này giải bằng phép tính gì? Quá nửa số học sinh trong lớp trả
lời: “Bài toán giải bằng phép tính nhân”. (48 x 6 = 288 (cây)) Vì các em thấy
trong đề bài xuất hiện từ chỉ quan hệ “Gấp”
mà từ trước tới giờ, trong các bài toán đơn các em đều thấy trong đề bài có từ
chỉ quan hệ “Gấp” đều làm
phép tính nhân đều cho kết quả đúng.
Tôi
yêu cầu: Các em hãy đọc kĩ lại đề bài và chú ý từ “Gấp” trong câu “lớp 2A trồng được “Gấp” lớp 2B” có ý nghĩa như thế nào? Tóm tắt lại đề toán
bằng sơ đồ đoạn thẳng và tìm phép tính giải cho bài toán. Lúc này các em mới
biết mình đã mắc sai lầm (lớp 2A trồng “Gấp”
lớp 2B có nghĩa là: Lớp 2B trồng được Kém
hơn lớp 2A) và xác định phép tính giải đúng cho bài toán.
48 Cây
Tóm
tắt bài toán:
Số cây lớp 2A trồng:
Số cây lớp 2B
trồng:
? Cây
Giải
Số
cây lớp 2B trồng được là:
48
: 6 = 8 (Cây)
Đáp số: 8
cây
5.3. Khả năng áp dụng
của sáng kiến: Đề
tài cung cấp cho giáo viên các phương pháp, biện pháp giúp cho học sinh hình
thành và phát triển các kĩ năng tìm hiểu và phân tích đề bài toán có lời văn ở
Tiểu học theo hướng tư duy tích cực.
Sáng kiến này tôi đã áp dụng cho tất cả 35 học sinh trong lớp
và được sử dụng rộng rãi trong khối 3
của trường.
6. Những thông
tin cần được bảo mật: Không có
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng
kiến:
Trong quá trình giúp học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài toán có lời
văn, giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Giáo viên cần vận dụng các biện pháp, phương pháp một cách linh động,
sáng tạo, phù hợp với đối tượng học sinh nhằm giúp cho học sinh chủ động và
tích cực hơn khi giải toán; tránh rập khuôn, máy móc.
- Giáo viên phải nắm vững toàn bộ mạch kiến thức trong chương trình một
cách hệ thống, logic làm cơ sở cho các biện pháp tác động phù hợp giúp cho các
em khôi phục kiến thức, kĩ năng cũng như vận dụng các kiến thức kĩ năng đã được
học vào quá trình tư duy giải toán.
- Giáo viên phải chú ý và sâu sát tới học sinh hơn, phát hiện và sửa
chữa những sai lầm học sinh hay mắc phải; đồng thời tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc cho học sinh trong quá trình giải toán.
8. Đánh giá
lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến
của tác giả:
8.1. Kết quả đạt
được:
Sau thời gian áp dụng biện pháp trên tại lớp 3 tôi chủ nhiệm, tôi nhận
thấy chất lượng dạy các bài toán giải có lời vă đã được nâng lên, cụ thể như
sau:
Tổng
số học sinh |
Phân loại học sinh |
Đầu năm |
Cuối học kì I |
|||
SL |
Tỉ lệ % |
SL |
Tỉ lệ % |
|||
35 |
Chưa
giải được bài toán |
18 |
51,4 |
06 |
17,1 |
|
Giải
được nhưng còn sai phép tính |
7 |
20 |
11 |
31,4 |
||
Giải
đúng bài toán |
8 |
22,9 |
20 |
57,1 |
||
Đề
tài chỉ ra những sai lầm cần khắc phục trong quá trình tìm hiểu, phân tích đề
bài toán có lời văn của học sinh đã dẫn đến cách tìm hiểu đề bài và giải toán
máy móc, rập khuôn, thiếu khoa học.
Đề tài củng cố, hệ thống và mở rộng các biện
pháp, phương pháp giúp học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài toán có lời văn
theo hướng phát huy tích tích cực, chủ động.
Muốn
đạt kết qủa như trên giáo viên phải có lòng say mê nghề nghiệp, luôn có ý thức tìm tòi, nghiên
cứu, sáng tạo. Nắm được mục đích, nội dung, phương pháp, yêu cầu của môn Toán,
sử dụng linh hoạt, sáng tạo, đổi mới các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học, tạo phong trào thi đua giữa các học sinh trong lớp với nhau.
Ngoài ra giáo viên cần tìm hiểu hoàn cảnh của
các em, giáo viên chủ động giúp đỡ các em khi cần thiết, đặc biệt là học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Học sinh luôn có ý thức tự
học, học bài trước ở nhà, suy nghĩ về nội dung bài học, tự tìm cách giải đúng
và hay. Trong các tiết học cần tích cực chủ động tham gia các hoạt động để tiếp
thu bài sao cho ngày càng đọc tốt hơn.
8.2. Bài học kinh
nghiệm:
Qua quá trình thực hiện đề tài tôi đã rút ra bài học sau:
- Giúp cho học sinh rèn luyện và phát triển kĩ
năng tìm hiểu, phân tích đề toán khoa học, tích cực; phát triển và rèn luyện
những kĩ năng tư duy giải toán; rèn luyện phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn
đề; góp phần phát triển trí thông minh; đóng góp vào việc hình thành các phẩm
chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: Cần cù, cẩn thận, có ý chí
vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và khoa học cho các em.
- Khắc phục được thói quen giải toán máy móc, rập khuôn hay phỏng đoán
cách giải thiếu căn cứ của học sinh.
- Nhờ sử dụng linh hoạt các giải pháp
trên vào các tiết toán, chắc chắn chất lượng giải toán bằng hai phép tính của
các em sẽ nâng lên rõ rệt. Từ chỗ HS chưa chịu khó đọc kĩ đề, chưa biết phân
tích, tóm tắt đề … đến chỗ các em biết tóm tắt đề, suy luận và giải được bài
toán. Nhiều em giỏi còn tìm ra được cách giải nhanh gọn, hay hơn
Đổi mới phương
pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Toán nói riêng là
công việc phức tạp, đòi hỏi thời gian và tính kiên trì của giáo viên.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/