Skkn Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn tập làm văn

 


1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: cấp Trường năm học 2020-2021

2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:

“ Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn tập làm văn ”

3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Môn Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn

4. Ngày sáng kiến được áp dụng thử:    10/10/2020

          5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1. Tính mới của sáng kiến:

       Trong năm học này tôi được phân công dạy lớp 5, trong quá trình giảng dạy, tôi rất băn khoăn và lo lắng một điều là làm thế nào để giúp học sinh  học tốt phân môn Tập làm văn – một phân môn quan trọng trong môn Tiếng việt, đặc biệt là giúp học sinh có thể làm tốt bài văn tả cảnh trong khi thực trạng việc học phân môn này của học sinh có rất nhiều điều cần suy nghĩ : Câu văn chưa diễn đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa. Cảnh tả thì sơ sài và có nhiều lỗi lặp ý, chưa làm nổi bật nội dung cần miêu tả…

                Để định hướng cho học sinh phát triển khả năng diễn đạt cần phải định hướng cho học sinh học tư duy ngôn ngữ để phát triển, vì ngôn ngữ là sản phẩm cuối cùng của tư duy. Có tư duy ngôn ngữ thì học sinh mới có thể nói viết trọn vẹn câu ý được, ngôn ngữ phải là cái đích để đánh giá học sinh chứ không phải những điểm số một cách chung chung. Vì vậy vấn đề căn bản nhất là giúp học sinh phát triển tư duy ngôn ngữ để học sinh có thể biểu đạt thành câu trọn ý được.

Với tầm quan trọng và thực tế trên, để khắc phục những hạn chế trong quá trình làm văn, đồng thời giúp các em tiến bộ hơn khi viết văn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, tôi tìm ra một số biện pháp rèn cho học sinh những mặt còn hạn chế của lớp mình và tôi quyết định chọn đề tài “ Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn tập làm văn” nhằm đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.

Trong sáng kiến này, tôi mạnh dạn đưa ra điểm mới là chú ý rèn kĩ năng  miêu tả cho học sinh. Từ đó học sinh mới có khả năng diễn đạt tốt , sáng tạo trong làm văn, nói và viết.

  5.2. Nội dung sáng kiến:

    5.2.1.Thực trạng vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết:

        Tập làm văn là một phân môn mang tính trừu tượng cao. Nó khác hoàn toàn với các môn học khác như toán, tự nhiên xã hội ( nội dung học mang tính cụ thể, dễ nhận biết ). Nó đòi hỏi các em phải suy nghĩ, phân tích và cảm nhận. Vì vậy các em rất chán học và ít yêu thích phân môn này .

- Vốn từ của các em quá nghèo nàn nên các em chưa biết sử dụng câu từ cho phù hợp khi miêu tả…

- Các em ít được tiếp xúc trực tiếp với đối tượng miêu tả nên nhiều em đã tả cảnh không đúng với thực tế vốn có của nó.          

-  Các em viết bài văn miêu t chưa đúng theo trình t nht định.

-  Chưa biết cách chuyn ý gia các đon, làm cho các đon văn trong mt bài văn ri rc, chưa logic.

-  Chưa bc l cm xúc ca mình qua bài viết.

      -  Mt s em trên chuẩn thì đa s bài viết ca các em bó hp vào khuôn kh ca nhng bài văn mu. Tuy nhiên nhng t ng, hình nh trong bài văn mu không phù hp vi thc tế cuộc sống.

            Bản thân giáo viên cũng cảm thấy rất ngại khi dạy Tập làm văn vì nó đòi hỏi người giáo viên phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị, nghiên cứu, xây dựng nội dung, phương pháp dạy học thích hợp, trong khi các môn học thì rất nhiều. 

           Qua việc tìm hiểu kết quả làm văn của học sinh các năm học trước,  việc thăm nắm tình hình học văn tả cảnh của các em qua các giáo viên đã dạy lớp 5, cũng như kiểm tra trực tiếp học sinh lớp mình, tôi thấy chất lượng bài làm văn của nhiều em chưa cao: Câu văn chưa diễn đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa. Cảnh tả thì sơ sài và còn nhiều lỗi lặp ý, chưa làm nổi bật nội dung cần miêu tả… Đồng thời, tôi cũng rất ít gặp những hình ảnh nhân hoá, so sánh trong bài văn của các em, có chăng cũng chỉ là những hình ảnh rất khô khan hoặc là liệt kê các hình ảnh, chi tiết của cảnh vật… Chính những điều đó đã làm cho chất lượng học tập môn tiếng việt của các em chưa cao.

     Từ thực tế, tôi nhận thấy để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho giờ học Tập làm văn “Nhẹ nhàng hơn, tự nhiên và chất lượng hơn”. Tôi nhận thấy hiệu quả giờ học có chuyển biến tốt, học sinh hứng thú học Tập làm văn hơn, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi. Đặc biệt mỗi học sinh đều cảm thấy tự tin hơn khi đặt câu diễn đạt rõ được ý của mình, từ đó các em chắc thêm vốn kiến thức làm hành trang với những năm học tiếp theo.

5.2.2.   Các giải pháp thực hiện:

            a. Vị trí, vai trò của giáo viên trong phương pháp dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập

            Giáo viên cần xác định rõ việc đổi mới sao cho phù hợp với tình hình, năng lực của học sinh. Nghĩa là giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp sao cho giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh bằng các câu hỏi gợi ý, gợi mở. Song song đó, học sinh tích cực tham gia hoạt động học tập nhằm tiếp thu bài học một cách chủ động và hiệu quả hơn. Muốn được như vậy, bản thân giáo viên phải nỗ lực nhiều, phải kiên trì vận dụng đổi mới phương pháp nhằm tạo cho học sinh sự hứng thú với phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức từ thấp đến cao.

Việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học mới có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc góp phần nâng cao chất lượng giờ học, một giờ Tập làm văn thường được quy trình hoá theo trình tự: “Hướng dẫn tìm hiểu thông tin – Quan sát và xử lí thông tin – Trao đổi, tranh luận – Tự rút ra kết luận”- Tức là dạy cho học sinh “cách học” chứ không phải là truyền đạt cái kiến thức có sẵn…

         Trong đổi mới phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt động dạy và học thì mới thành công.

Với chất lượng phân môn tập làm văn như trên, bản thân tôi nhận thấy mình cần phải làm gì đó, tìm ra một số biện pháp khả thi nào đó để giúp học sinh lớp mình có được kĩ năng làm văn nhằm nâng cao chất lượng làm văn tả cảnh nói riêng, phân môn Tập làm văn nói chung.

    b. Một số biện pháp.

     b.1. Một số biện pháp đối với giáo viên:

     b.1.1. Thường xuyên tự học trau dồi kiến thức về tập làm văn:

          Trong quá trình đứng lớp, tôi nhận thấy rằng: Để giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh thì bản thân giáo viên phải có vốn kiến thức sâu rộng về Tiếng việt. Vì vậy tôi luôn xây dựng kế hoạch cho mình phải tự học , tự bồi dưỡng kiến thức về Tập làm văn bằng nhiều hình thức như đọc các bài văn tả cảnh mẫu , đọc báo (báo giáo dục và thời đại, tạp chí giáo dục…) , đọc các tài liệu hướng dẫn dạy Tập làm văn, Tiếng việt ...

        b.1.2.  Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học:

           Quan sát trực tiếp với đối tượng miêu tả là biện pháp hữu hiệu để giúp học sinh làm bài văn tả cảnh hay. Nhưng trong thực tế không phải cảnh nào các em cũng được quan sát khi tả. Đặc biệt hơn, mục tiêu của nội dung tả cảnh, là dựa trên những gì các em được học , các em có thể vận dụng vào tả bất cứ một cảnh nào trong thực tế. Ngoài ra, khi thuyết trình về một vấn đề nào đó, nếu có đồ dùng trực quan, ta cảm nhận một cách thực tế, rõ ràng hơn về đối tượng được nói tới. Cho nên trong quá trình dạy văn tả cảnh, tôi thường sử dụng tranh ảnh, video, ..., có liên quan tới bài học và yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu phục vụ cho bài học của mình.

             + Ví dụ : Khi dạy bài luyện tập tả cảnh tiết 2/ tuần 7. Đề bài yêu cầu các em dựa vào dàn ý đã lập ở tiết trước để viết một đoạn văn tả cảnh sông nước. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tôi đã kết hợp dùng tranh, video minh hoạ cảnh sông, suối, biển, hoặc gợi ý cho các em nhớ lại cảnh đã từng gặp giúp học sinh nhớ lại những chi tiết mình đã quan sát được  để xác định đề tài miêu tả cho bài văn của mình và phân biệt với những cảnh khác…(do ở địa phương không có cảnh sông nước hoặc nếu có thì cũng khá xa và một số em cũng chưa có điều kiện tham quan...)

        b.1.3.  Tích hợp trong dạy- học các môn học khác:

           Để giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh, chỉ nội dung, thời gian dành cho những tiết Tập làm văn tả cảnh không là chưa đủ, mà nó đòi hỏi cả một quá trình dạy học, là sự tích hợp của tất cả các môn học khác, nó hỗ trợ cho nhau và không thể thiếu. Đặc biệt phải kể đến phân môn tập đọc và luyện từ và câu sẽ  giúp học sinh sở hữu vốn từ ngữ rất phong phú và đa dạng.

          + Ví dụ : Ngay trong tuần học đầu tiên của lớp 5 với bài tập đọc: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”. Học sinh tích luỹ cho mình rất nhiều kiến thức có liên quan đến bài văn tả cảnh, nhất là với bài “tả cảnh cánh đồng, nương rẫy…” Điều đó thể hiện ở chỗ, học sinh được biết thêm rất nhiều các từ , các hình ảnh miêu tả như : để tả màu vàng, học sinh có thể dùng từ vàng xọng, vàng xuộm, vàng hoe, vàng ối … sao cho phù hợp với đối tượng miêu tả trong bài văn của mình. Cũng với bài tập đọc trên, học sinh còn tìm được ở đó cấu tạo của bài văn tả cảnh gồm 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài .

      * Vì vậy khi dạy bài Tập đọc trên, trong phần tìm hiểu bài: Ở câu 2: Hãy chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi cho em cảm giác gì ? Trả lời được câu hỏi này tức là học sinh đã nắm được các từ chỉ màu vàng và hiểu được nghĩa của nó khi sử dụng trong bài văn tả cảnh. Vì vậy, tôi hướng dẫn kĩ hơn ở câu hỏi này. Cụ thể như sau:

- Bước 1: Đọc từ và lời giải (vàng xọng – màu vàng gợi cảm giác như có nước)

- Bước 2: Phân tích nghĩa của từ:

+Giúp học sinh hiểu: Tại sao “vàng xọng là màu vàng gợi cảm giác như có nước”bằng các câu hỏi phụ:

Từ vàng xọng trong bài văn miêu tả màu vàng của sự vật nào?(Màu vàng của bụi mía)

 Em nào đã từng được quan sát bụi mía, theo em từ vàng xọng tả cây mía ở thời kì nào (thời kì mới trồng, đang phát triển hay đã đến độ thu hoạch) ?(Tả cây mía khi đã đến độ thu hoạch. Khi đó thân cây có màu vàng bóng, đó là dấu hiệu để chúng ta biết mía đã có nhiều nước ngọt thơm. Từ vàng xọng gợi cảm giác như có nước là vì vậy)

Sau đó tôi cho học sinh trực tiếp quan sát một khúc mía có màu vàng xọng mà tôi đã chuẩn bị.

      - Với các từ ‘vàng xuộm, vàng lịm, vàng tươi, vàng ối..”hướng dẫn tương tự.

           - Các bài mở rộng vốn từ trong phân môn luyện từ và câu là món ăn chính giúp học sinh có nguồn vốn từ dồi dào và sinh động.

            Ngoài ra, nó còn giúp học sinh biết cách liên kết các câu trong bài bằng nhiều hình thức như: lặp từ ngữ, thay thế từ, dùng từ nối... nhằm tạo ra cho học sinh một bài văn trôi chảy, không lủng củng, không rườm rà…

             Cũng chính từ phân môn luyện từ và câu, Học sinh còn được thực hành viết những đoạn văn  tả cảnh có liên quan như: Bài “Luyện tập về từ đồng nghĩa” tuần 3/TV 5 – Tập 1/32, sau khi học sinh nắm được như thế nào về từ đồng nghĩa học sinh được vận dụng kiến thức vừa học để viết đoạn văn miêu tả màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích dựa vào bài tập đọc “Sắc màu em yêu” .

            + Hay trong bài “Mở rộng vốn từ : Thiên nhiên”– tuần 9/Trang 87, ngoài mục đích giúp học sinh nắm được vốn từ về thiên nhiên, tôi còn xoáy sâu vào cách sử dụng hình ảnh so sánh, nhân hoá trong bài từ đó học sinh của tôi cũng vận dụng một cách sáng tạo vào bài văn tả cảnh của mình .

            - Chính vì sự gắn bó chặt chẽ nói trên mà trong quá trình xây dựng kế hoạch giảng dạy ở mỗi bài, mỗi phân môn, tôi thường chú ý tích hợp giữa các bài, các phân môn với nhau nhằm tận dụng triệt để sự gắn bó giữa các môn học này trong dạy học tập làm văn tả cảnh.

         b.1.4.   Khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của học sinh:

         - Qua việc kiểm tra thực tế với 2 nhóm đối tượng học sinh lớp tôi, tôi thấy rằng: Cùng viết một bài văn tả cảnh, một nhóm học sinh đã được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả và một nhóm học sinh không được trực tiếp quan sát đối tượng đó thì chất lượng bài viết, cách miêu tả của 2 bài văn có sự khác biệt rõ rệt. Với bài của học sinh được quan sát đối tượng miêu tả , cách dùng hình ảnh của các em rất phong phú, đa dạng nhưng không làm mất đi nét riêng, chân thực của đối tượng miêu tả. Còn với bài văn của học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, đôi khi cách dùng hình ảnh của các em mang tính chiếu lệ, không đúng với thực tế vốn có của nó…

         + Ví dụ: Có một em khi miêu tả cảnh buổi sáng trong công viên, em viết : “Trong công viên, vào buổi sáng xe cộ đi lại tấp nập…”

          - Vì thế tôi cho rằng muốn học sinh viết được bài văn tả cảnh hay, điều thứ nhất không kém phần quan trọng đó là việc học sinh được quan sát đối tượng miêu tả trực tiếp bằng tất cả các giác quan. Cho nên trong phần hướng dẫn xác định yêu cầu, tôi luôn dẫn dắt để khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của học sinh phù hợp với điều kiện quan sát của các em.

          + Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết một bài văn tả cảnh sông nước, tôi hỏi học sinh đã đươc ngắm cảnh sông nước chưa ? ở đâu ? Em quan sát vào những thời gian nào? Có kỉ niệm nào gắn bó giữa em với cảnh đó không ? ( Do khu vực các em ở không có cảnh sông nước). Từ đó giúp các em tự nhớ lại những gì mà mình đã quan sát được về cảnh sông nước khi miêu tả…

           + Hay với đề bài tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy): Dựa vào thực tế địa phương nơi trường tôi đóng, các em có điều kiện được đi công viên, trên đường phố hoặc đa số nhà các em có vườn cây nên vì vậy tôi đã hướng học sinh chọn đề tài phù hợp với điều kiện quan sát của mình đó là vườn cây, công viên, đường phố – những cảnh gần gũi , quen thuộc và gắn bó với các em.

       b.1.5.  Thường xuyên động viên, khích lệ, sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng cũng như đôn đốc việc học của học sinh:

        - Như chúng ta đã biết, tập làm văn là một phân môn không mấy hứng thú của cả thầy lẫn trò. Đối với thầy, muốn dạy tốt tiết học này cần có kiến thức, kĩ năng, có sự chuẩn bị công phu và tốn nhiều thời gian. Đối với trò, đó là áp lực về tư duy và khả năng diễn đạt. Vậy muốn cho tiết học không nặng nề, nhàm chán, tạo không khí thoải mái khi học, thì những lời động viên, khích lệ của giáo viên là không thể thiếu. Nó là liều thuốc bổ tinh thần quý giá với các em. Chính vì vậy, trong quá trình dạy tập làm văn, tôi thường xuyên động viên, khen ngợi các em.

            - Bên cạnh việc động viên khen ngợi, dựa vào đặc điểm tâm lí hiếu thắng của các em, tôi còn sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng trong dạy – học tập làm văn và cảm thấy nó đem lại kết quả rất tốt.

         + Ví dụ: Khi làm bài tả cảnh kiểm tra viết cũng gần tới ngày Đại hội Liên đội của trường, mỗi lớp được cử 5 em đi dự, trong số đó có một số em sàn sàn nhau không biết chọn em nào, tôi đã khuyến khích các em, nếu em nào làm văn được điểm cao sẽ được đi dự, và kết quả thật bất ngờ, mặc dù không có nhiều bài xuất sắc, nhưng tôi thấy ở bài văn của tất cả các em đều có sự cố gắng và tiến bộ hơn hẳn so với trước.

      Tiếp tục biện pháp trên, trong đợt thi giữa kì 1, trong khi ôn tập chuẩn bị thi, tôi và tập thể lớp đã đề ra chỉ tiêu là : nếu bạn nào làm văn được điểm tốt trong đợt thi này sẽ được nhận phần thưởng của cả lớp. Và không ngoài tầm dự đoán của tôi, kết quả đợt kiểm tra của các em đạt chất lượng khá cao. Điều đó chứng tỏ rằng, việc động viên  khen ngợi hay dùng hình thức thi đua khen thưởng có ý nghĩa quan trọng đối trong dạy học nói chung và dạy tập làm văn nói riêng. Nó kích thích hứng thú , tạo niềm say mê học tập ở các em .

      b.1.6.   Kết hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã hội.

             Để đảm bảo chất lượng học tập và giáo dục toàn diện cho học sinh việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội là hết sức quan trọng. Trong đó chất lượng bài văn tả cảnh của học sinh cũng cần rất nhiều đến việc quan tâm của các tập thể trên.

           - Đối với gia đình, cha mẹ luôn là nguồn an ủi động viên các em trong quá trình học tập, là nơi tạo điều kiện về vật chất cũng như thời gian cho các em. Việc cho các em đi nghỉ mát , tắm biển, tham quan những khu du lịch, danh lam, thắng cảnh … tạo cơ hội cho các em tiếp xúc trực tiếp với đối tượng miêu tả trong bài văn của các em, giúp các em được mở mang kiến thức và hứng khởi khi học tập. Cha mẹ còn là người thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc học và chuẩn bị bài ở nhà của các em.

           - Đối với nhà trường, đặc biệt là Liên đội, không chỉ là nơi các em được trau dồi kiến thức Đội mà việc tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ, đi tham quan, du lịch về nguồn cũng góp phần tạo nên thành công trong học tập ở các em.

          - Đối với thư viện trường, việc mua những quyển sách báo, tài liệu tham khảo phù hợp giúp các em có thêm cơ hội để học hỏi, trau dồi kiến thức, kĩ năng (Đặc biệt là với những em có hoàn cảnh khó khăn, không có tiền để mua chúng). Việc tổ chức các hội thi cũng tạo cho các em một sân chơi bổ ích …

 b.2. Biện pháp tổ chức giảng dạy, hướng dẫn cho học sinh học văn tả cảnh:

           Đối vi hc sinh tôi trc tiếp ging dy, vn ngôn ng ca các em còn rt nhiu hn chế, đặc bit là các em chưa biết cách trau chut, gt giũa li văn, câu văn được bóng by, mang tính “Ngh thut”, mà đa s các em “nghĩ sao thì viết vy”; cng vi vic ít đọc sách báo, ít tham kho các bài văn hay, câu chuyn hay, b ích sách báo, làm cho các em gp nhiu khó khăn khi làm bài văn miêu t. Cho nên vic trước tiên là giáo viên cn kết hp vi các phân môn trong môn Tiếng Vit – nhất là phân môn luyện từ và câu - cung cp vn t ng cho hc sinh, un nn cho các em cách dùng t, đặt câu, hướng cho các em t “ngôn ng t nhiên” thành “ngôn ng ngh thut”. Kết qu cui cùng ca vic dy Tp làm văn là hiu qu ca nhng bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tt các yêu cu v ni dung, ngh thut và cm xúc. Vì vy, trong mi gi Tp làm văn giáo viên cn thc hin tt các yêu cu này. Đối với phân môn tập làm văn ở lớp 5, để viết bài văn miêu t, hc sinh thường tri qua các khâu cơ bn là:

          - Tìm hiu cu to ca bài văn.

          - Phân tích các văn bn mu.

          - Quan sát, lp dàn ý chi tiết.

          - Viết thành bài văn hoàn chnh.

          - Hc tp, rút kinh nghim qua gi tr bài.

          Để tiến hành mi hot động trong tng tiết hc có hiu qu, giáo viên và hc sinh ln lượt gii quyết các yêu cu nói trên.

  b.2.1. Tìm hiu cu to bài văn t cnh:

     - Cho hc sinh đọc văn bn mu sách giáo khoa, hướng dn hc sinh xác định phn m bài, thân bài, kết bài.

     - Cho hc sinh rút ra ghi nh v cu to ca bài văn t cnh.

   b.2.2. Phân tích các văn bn mu:

       bước này, giáo viên hướng dn hc sinh đọc, phân tích để hiu và thy được ngh thut quan sát và miêu t, đồng thi thy được cách chn lc chi tiết, cách s dng nhng hình nh đẹp trong bài văn miêu t.

          Ví d:

1/ Bài:  “Luyn tp t cnh”- Sách Tiếng Vit 5 tp 1 trang 14.

    - Cho hc sinh đọc bài văn “Bui sm trên cánh đồng”.

    - Giáo viên hướng dn hc sinh phân tích bài văn bng các câu hi:

          + Tác gi t nhng s vt gì trong bui sm mùa thu ?

          + Tác gi quan sát s vt bng nhng giác quan nào ?

          + Tìm mt chi tiết th hin s quan sát tinh tế ca tác gi.

  * Đối với bài này, tôi cho các em xem 1 vài đoạn video cảnh mùa thu, nêu vài đặc điểm tiêu biểu của mùa thu vì ở địa phương tôi chỉ đặc trưng 2 mùa mưa và nắng.

     - Sau khi tìm hiu xong bài văn, Giáo viên cn nhn mnh cho hc sinh thy ngh thut quan sát và chn lc chi tiết t cnh ca tác gi bài văn.

          2/ Bài: “Luyn tp t cnh”- sách Tiếng Vit 5 tp 1 trang 21.

          - Yêu cu ca bài này là hc sinh phân tích 2 văn bn “Rng trưa” và “Chiu ti” để thy được nhng hình nh đẹp trong mi bài văn.

          - Cách tiến hành bài này là:

          + Cho hc sinh đọc ln lượt tng bài văn.

          + Giáo viên gii thiu tranh, nh v rng tràm cho hc sinh quan sát.

          + Cho hc sinh nêu ý kiến v hình nh mà các em thích trong mi bài văn ? Có th yêu cu các em nêu lí do vì sao mình thích hình nh đó.

          - Giáo viên cn tôn trng ý kiến ca hc sinh, đặt bit khen ngi nhng em tìm được nhng hình nh đẹp và gii thích được lí do vì sao mình thích hình nh đó ( yêu cu không bt buc ).

* Tôi lưu ý HS :  Sự khác biệt về thời gian ( sáng, trưa, chiều, tối ... ) cũng làm thay đổi cảnh vật dù là trực tiếp hay gián tiếp.

          + Sau cùng, giáo viên cht li các hình nh đẹp tng bài văn và hướng cho hc sinh nên đưa các hình nh đẹp vào bài văn miêu t.

  b.2.3. Quan sát, lp dàn ý chi tiết:

       a/  Quan sát:       

        Để làm tt được bài văn miêu t, giáo viên cn yêu cu hc sinh có s chun b bài trước khi đến lp – đó là nhc các em quan sát kĩ cnh vt, s vt hoc mt người nào đó trước khi vào hc bài mi, điu này giáo viên  nhc nh các em trong phn dn dò cui bui hc. Bi hc sinh hay nghĩ rng vi cnh vt quen thuc hng ngày thì không cn phi quan sát li, điu này là hoàn toàn sai lm. S tiếp xúc hng ngày ch cho ta nhng nhn biết hi ht, chung chung, chưa toàn din. Có quan sát kĩ nhiu mt, nhiu lượt, bng nhiu giác quan thì mi có nhng hiu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trc tiếp còn cho ta nhng cm xúc “nóng hi” để đưa vào bài viết, tránh được s t nht. Giáo viên cần rèn kĩ năng quan sát cho HS:

+ Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi,…để nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm, …nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi vị…

+ Quan sát nhằm nhận ra những nét độc đáo đặc biệt của đối tượng chứ không phải thống kê tỉ mỉ trung thực mọi chi tiết về sự vật.

+ Trong khi quan sát còn luôn gắn với cảm xúc, với kỉ niệm, với cuộc sống cá nhân của người quan sát. Từ đó gắn chặt với các hoạt động liên tưởng so sánh, tưởng tượng , hồi tưởng…của từng cá nhân.

+ Từ việc quan sát HS tìm được từ ngữ diễn tả đúng và sinh động những điều quan sát được .

+ Hướng dẫn HS lựa chọn trình tự quan sát:

    * Trình tự không gian: quan sát toàn bộ đến quan sát từng phần, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới,ngoài vào trong hoặc ngược lại.

    * Trình tự tâm lí: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân hứng thú thì quan sát trước, các phần khác quan sát sau. Phần trọng tâm bài thì quan sát kĩ lưỡng hơn.

+Tổ chức quan sát và tìm ý:

    *  Học sinh phải được quan sát trực tiếp cảnh vật và người.

    *  HS phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.

    *  Sự quan sát của HS phải được hướng dẫn cụ thể bằng hệ thống câu hỏi gợi ý.

         Ví dụ: Trong bài “ Tả cơn mưa”, để phát huy sự quan sát và khả năng sáng tạo của HS, tôi yêu cầu các em tả cơn mưa đang diễn ra trên sân trường qua cửa sổ lớp học. Kết quả ngoài mong đợi, các em đều tả được cơn mưa với những nét chung nhưng mỗi em đều mang sắc thái biểu cảm riêng, kể cả những em vốn rất ngại môn Tập làm văn cũng có được bài văn cho riêng mình dù lời văn chưa bay bổng nhưng dùng từ chính xác, trọng tâm nổi bật, đặc biệt có cảm xúc và quan trọng hơn là các em có sự tự tin như thấy được “ làm văn không khó”.

     b/  Lập dàn ý:

          - Khi vào hc bài mi, giáo viên luôn nhc hc sinh nh: Mi bài văn cn có b cc 3 phn: M bài, thân bài, kết bài. Vi mi bài văn, công vic đầu tiên ca tôi là yêu cu hc sinh tìm hiu đề bài.

          + Đề bài thuc th loi gì ? Đề bài yêu cu t gì ?

- Giáo viên hướng dẫn xác định trong tâm để tập trung sự chú ý của HS,  tránh tình trạng quan sát một cách mờ nhạt, chung chung dẫn đến miêu tả không nổi bật trọng tâm bài.

          - Nếu đối tượng miêu t không thc tế và gn gũi vi hc sinh thì giáo viên cn gii thiu mt s tranh nh, video minh ha cho hc sinh quan sát.

          - Hướng dn hc sinh lp dàn ý t nhng điu đã quan sát được.

          Ví d:

          * Quan sát trường em. T nhng điu đã quan sát được, lp dàn ý cho bài văn miêu t ngôi trường ( sách Tiếng Vit 5 tp 1 trang 43 ).

      - Trước khi hướng dn hc sinh lp dàn ý, nhc hc sinh mt s đim lưu ý:

          + Có th t ngôi trường vào mt thi đim nht định ( sáng – trưa - chiu; mùa đông - mùa hè…); Cũng có th t ngôi trường vi cnh sc thay đổi theo thi gian ( T sáng đến chiu; t mùa xuân đến mùa hè…).

          + Nên t theo trình t quan sát sát t xa đến gn, t ngoài vào trong…hoc ngược li, t gn đến xa, t trong ra ngoài…

          + Ngôi trường nào cũng gn vi các hot động ca thy và trò. Tuy nhiên ch nên t lướt qua hot động này để không biến bài văn t cnh thành bài văn t cnh sinh hot.

          Sau khi nêu mt s đim lưu ý để hc sinh nh, giáo viên hướng dn hc sinh cách lp dàn bài.

       - Giúp hc sinh nm yêu cu ca bài: Miêu t ngôi trường.

       - Nhc hc sinh: Dàn ý cũng cn có đủ 3 phn: M bài, thân bài, kết bài.

       - Phn m bài cn gii thiu bao quát:

          + V trí ca ngôi trường: Ngôi trường nm đâu ? Quay mt v hướng nào?

          + Đặc đim ni bt ca ngôi trường.

       - Phn thân bài gm các ý:

          + T tng phn ca cnh trường:

          Cng trường ( cng như thế nào ? bn tên trường ra sao ? ).

          Sân trường ( sân trường ra sao ? ct c, cây ci như thế nào? ).

          Lp hc ( các tòa nhà như thế nào? Các lp hc được trang trí ra sao?...).

          Trường em có điểm gì nổi bật ?

       -  Phn kết bài cn nêu cm nghĩ ca em v ngôi trường.

          Như vy, mi em mi ý, mi v khác nhau nhưng đều bo đảm đủ ý chính.

    b.2.4. Chuyn mt phn dàn ý thành đon văn:

Để hc sinh din đạt được bài văn ca mình mt cách sinh động, có ngh thut, các em thường được trau di qua tiết hc “ Chuyn mt phn dàn ý thành đon văn”, “Mt phn ca dàn ý” có th là m bài, kết bài, cũng có th là mt phn ca thân bài.

     a/  Phn m bài:

          Các em có th m bài trc tiếp hoc gián tiếp; có em m bài ch bng mt câu nhưng cũng có em m bài bng c mt đon văn. Nhưng không ai được tách ri ni dung đã xây dng được. đây, tùy ngh thut vào bài ca mi em mà giáo viên góp ý, không nên gò bó, áp đặt.

          Ví d:

          Đề bài: “…..Miêu t mt cnh sông nước ( mt vùng bin, mt con sông, mt con sui hay mt h nước ) ( TV 5 tp 1/62)

          - Có em m bài thng luôn vào đề: “Làng em  có mt con sui rt đẹp”.

          - Có em m bài rt sinh động: “Con sui chy qua làng em, sui chy ven theo chân đồi, men theo cánh đồng lúa xanh mượt. Nhìn t xa, con sui như mt con trăn un mình trên tm tm thm màu xanh biếc ca cánh đồng làng. Con sui này gn lin vi tui thơ ca chúng em và con sui đã tr nên thân thiết”.

          Nh khuyến khích hc sinh din đạt phn m bài bng nhng cách khác nhau mà vn đảm bo ni dung chính, các em đã viết được nhiu bài văn hay, có tính ngh thut.

     b/  Phn thân bài:      

- Một số em hc sinh chưa biết cách s dng t ng cho đúng trong văn viết cũng như văn nói. Ví d khi t v hình nh ca nhng ô ca kính lp hc, các em hay viết: “Các lp hc có nhng ô ca kính sáng long lanh”; Hoc khi t hình dáng mt người thân trong gia đình, các em viết: “B em có dáng người cao chót vót”…

- Đôi khi các em hay viết “ rp khuôn, máy móc” theo nhng câu văn, đon văn mà giáo viên s dng để hướng dn mu. Ví d khi hướng dn cách t v hình dáng ca người, tôi đưa ra ví d mu:

          + “ Ch em có hàm răng trng đều như ht bp”.

          + “ Đôi mt ca cu Tí tròn như hai hòn bi ve”.

          Đến khi làm bài, có em viết: “ Em trai ca em năm nay va tròn mt tui. Mt ca nó tròn như hai hòn bi ve, răng ca nó trng đều như ht bp”.

          Hoc “Đôi mt ca bà em tròn như hai hòn bi ve”…(!)

          - Bên cnh, giáo viên cn hướng cho hc sinh t mt cách chân thc, không “bt chước” theo nhng hình nh trong các bài văn mu vì vy, trong các tiết hc, giáo viên cn tăng cường cung cp vn t ng cho các em, hướng cho các em biết cách s dng t ng cho phù hp vi đối tượng miêu t, phù hp vi văn cnh c th và phù hp vi thc tế cuc sng.

         - Hoặc chỉ với 1 một chi tiết, yêu cầu học sinh tả lại theo ý của mình, dùng lời văn của mình, từ đó giúp các em chỉnh sửa để có câu văn sinh động, giàu cảm xúc và quan trọng là ý tả có cái riêng, cái mới, thu hút nguời đọc

          Ví d:  “ vườn cây vui vẻ lao xao trong gió sớm.”  Hay “ vườn cây im ắng, tư lự trong buổi trưa hè, có lẽ nó nhớ tiếng chim....”  Hay tả bác nông dân cày ruộng, cảnh các cô gặt lúa, làng quê với mái nhà tranh .... có phù hợp với tình hình đất nước ta hiện nay ?

      c/  Phn kết bài:

          Có nhiu cách kết bài khác nhau: Kết bài m rng, kết bài không m rng, nhưng tt c đều phi xut phát t ni dung chính.

Vì vy, giáo viên cn giúp các em nêu cm xúc hoc thâu tóm li vn đề như thế nào cho hay.

          Có th ch lit kê s vic, cm xúc như:

          “Em rt thích cnh công viên”.

Tôi yêu cu các em nêu kết lun khác, có hc sinh đã nêu:

“ Công viên làm cho tâm hn em thoi mái và thư thái sau nhng gi hc căng thng. Em rt thích cnh công viên”.

          Tương t như vy, dưới s hướng dn ca tôi, hc sinh có rt nhiu kết bài khác nhau khi t v quang cảnh trường mình:

+ “  Ngôi trường như mái nhà thứ hai của em, hình ảnh về ngôi trường tiểu học thân yêu sẽ theo mãi trong tâm trí em trong những năm tháng tới đây”.

          + “ Sau này, dù không còn được học dưới mái trường thân yêu này, em vẫn giữ mãi hình ảnh ngôi trường, nơi đã dạy em những bài học đầu tiên”.

          Trong vic hướng dn hc sinh din đạt thì bin pháp duy nht là chia thành câu, ý nh cho nhiu em phát biu, sau đó cht lc, hướng dn hc sinh thy cách nào được, cách nào chưa được để phát huy hay sa cha.

     b.2.5:  Viết thành bài văn hoàn chnh:

          Để giúp hc sinh viết mt bài văn hoàn chnh, tôi tiến hành các bước:

        a/  Tp din đạt và s dng mt s bin pháp ngh thut đã hc.

          - Để tiến hành, tôi gi  ý cho các em nhng câu hi d hiu, d nh.

          - Tôi luôn hướng dn các em biết la chn chi tiết, din đạt bng câu văn có hình nh và s dng mt s bin pháp tu t đã hc như: so sánh, nhân hóa… trong các kiu bài tp làm văn.

          Tuy nhiên khi vn dng nhng hình nh so sánh, nhân hóa- đôi khi hc sinh dùng nhng hình nh chưa chính xác.

          - Ngoài ra, giáo viên nên kết hp nhng câu hi gi ý để giúp hc sinh b sung, sa cha các câu văn, đon văn chưa s dng bin pháp ngh thut.

      b/  Bc l cm xúc trong bài văn :

- Ngoài vic giúp HS s dng các bin pháp ngh thut trong các câu văn, giáo viên cn giúp hc sinh biết bc l cm xúc trong bài văn. Bi mt bài văn hay không th thiếu được cm xúc ca người viết. Cm xúc không ch bc l phn kết bài mà còn cn th hin trong tng câu, tng đon ca bài văn. Điu này chúng ta cn gi ý cho các em mt cách c th trong tng bài.

Ví d:

- Mỗi buổi sáng tới trường, em thy con đường như thế nào ?

( Con đường như là một người bạn cùng em đến trường).

+ Được tham gia cùng các bạn trồng cây trước lớp em nghĩ gì ?

(Em thấy thân yêu thêm ngôi trường và lớp học này. Bản thân em phải có trách nhiệm là cho trường lớp của mình ngày càng đẹp hơn) …

Tương t như vy, tôi yêu cu hc sinh đưa ra nhng suy nghĩ, cm xúc nhn xét trước mt s vt hay hin tượng bt k. Bài văn ca hc sinh tránh được nhược đim khô khan, lit kê s vic mà thm đượm cm xúc ca người viết.

     b.2.6: Trả bài viết:

          Để có thể làm tốt một bài tập làm văn ngoài những kỹ năng quan sát lập dàn ý, HS còn được  sửa chữa, rút kinh nghiệm, nhằm đạt kết quả ngày một cao hơn. Tập nhận xét bạn trong giờ tập làm văn trước, tự rà soát và sửa chữa bài viết chính thức ở lớp, rút kinh nghiệm và tự sửa chữa trong giờ trả bài, tất cả điều giúp học sinh luyện tập hình thành kỹ năng và thói quen “ tự điều chỉnh”, tự học tập để luôn tiến bộ. Tiết “ trả bài viết” có ý nghĩa quan trọng đối với rèn kỹ năng làm bài tập làm văn. So với các tiết khác ( lập dàn bài, viết đoạn văn, làm đơn, làm biên bản, …) tiết trả bài cần được giáo viên chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài, thống kê lỗi, nhận xét khái quát về bài làm, chuẩn bị dẫn chứng minh hoạ … đến khi soạn giáo án cụ thể cho tiết trả bài. Việc hướng đẫn học sinh chuẩn bị trên lớp cũng như đòi hỏi sự gợi mở, dẫn dắt và ứng xử linh hoạt của giáo viên nhằm giúp các em nhận thức được ưu, khuyết điểm trong bài viết của mình. Qua đó, HS có ý thức viết bài ngày càng tiến bộ và có kết quả cao hơn.

          Sau các tiết này, tôi thường nhắc HS về làm lại và tôi xem lại cẩn thận cho các em. Cách làm này làm cho HS tăng thêm hứng thú khi học môn này.         

5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:

       Sáng kiến này có khả năng áp dụng cho việc dạy Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn ở khối lớp 5 ở trường Tiểu học An Lộc A và học sinh khối 5 trong toàn địa bàn thị xã Bình Long.

            6. Những thông tin cần được bảo mật :  Không

            7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:  Không

           8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

             a. Kết quả đạt được:

  Qua quá trình áp dng ging dy theo phương pháp trên, đến nay tôi nhn thy các em có nhiu tiến b so vi đầu năm hc. Nhng hc sinh yếu v kĩ năng viết văn miêu t nay đã mnh dn, t tin và có hng thú hơn trong gi hc Tp làm văn. Tuy nhng bài văn, đon văn đó có th chưa hay, chưa sinh động nhưng các em đã t viết bng chính tư duy ca mình:  Không còn những bài văn chưa biết cách trình bày. Không còn những câu văn rườm rà và chưa diễn đạt trọn vẹn một ý. Các em đã biết sử dụng những từ ngữ (gợi tả hình dáng, âm thanh..), hình ảnh (so sánh, đối lập, nhân hoá…) thích hợp để làm rõ đặc điểm của cảnh. Ngoài ra, các em còn biết thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của mình trong mỗi cảnh đó. Tôi thấy kết quả có nhiều khả quan, đặc biệt nhiều học sinh hứng thú học tập hơn trước. Do vậy kết quả thu được cũng cao hơn. Điều đó thể hiện rõ qua bảng so sánh sau ( HKI năm học 2020 – 2021) :

 

 

TSHS

Trước khi áp dụng phương pháp

Sau khi áp dụng phương pháp

HTT

HT

CHT

HTT

HT

CHT

 

33

 

 

6

 

18,2%

 

25

 

75,8%

 

2

 

6%

 

12

 

36,4%

 

21

 

63,6%

 

0

 

0%

 

Kết qu đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phn nào đánh du bước thành công là làm cho hc sinh có kĩ năng làm văn miêu t tt hơn, giúp các em t tin hơn trong phân môn Tập làm văn nói riêng, môn Tiếng Vit nói chung. Do vy, t nay đến cui năm hc tôi luôn c gng phát huy, tìm tòi và vn dng phương pháp tt nht để hc sinh lp tôi đạt cht lượng tt hơn.

        b. Bài học kinh nghiệm:

Để có được kết quả cao trong học tập của học sinh thì sự giảng dạy nhiệt tình của giáo viên thôi chưa đủ. Mỗi một môn học, mỗi một bài học, mỗi một tiết học đều có một sắc thái, một đặc điểm riêng, đòi hỏi một phương pháp riêng phù hợp với nó. Vì vậy, ngoài những phương pháp chung, mỗi giáo viên cần xây dựng cho mình một phương pháp dạy học riêng với những kiến thức đã có và những kiến thức, những kinh nghiệm được đúc kết qua những năm tháng giảng dạy. Vì vậy, hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp cũng là một công việc không thể thiếu nhằm thúc đẩy và nâng cao kết quả học tập của học sinh.

- Giáo viên cũng cần quan tâm đến nhu cầu tiếp thu của học sinh. Mỗi học sinh có một khả năng nhận thức khác nhau. Vì vậy, chúng ta phải dựa vào tình hình thực tế để điều chỉnh cách dạy sao cho phù hợp nhất. Chỉ có như vậy, công sức lao động của chúng ta bỏ ra mới không bị uổng phí. Kết quả thu được mới thể hiện đúng giá trị đích thực của nó. Bằng những kinh nghiệm của bản thân, bằng những nỗ lực và đam mê với nghề, chúng ta hãy tạo ra những con đường bằng phẳng nhất để các em dễ dàng tiếp nhận, phát huy kiến thức.

              Trên đây là một số ý giúp học sinh khắc phục những khó khăn khi viết bài Tp làm văn miêu t mà tôi đã áp dng vào thc tế t năm hc trước, đến nay có b sung hàng năm cho hoàn chỉnh. Tuy nhiên đề tài của tôi không thể tránh những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quí cấp lãnh đạo, các thầy cô đồng nghiệp để đề tài này của tôi được hoàn thiện hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.


Nguồn: ST

Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC