Tags: Skkn ngữ văn thpt, Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn lớp 10 mới nhất, skkn ngữ văn lớp 10 mới nhất, skkn ngữ văn lớp 10, skkn ngữ văn.
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Nâng cao hiệu quả dạy học văn bản “Tấm Cám” từ việc khai thác yếu
tố thần kì.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là
chủ đầu tư tạo ra sáng kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo
dục và Đào tạo
4. Ngày sáng kiến được áp dụng thử lần đầu: Ngày 5/10/ 2020.
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới:
Lâu nay, khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản “Tấm Cám”, giáo viên mới chỉ chú trọng đến nội dung tư tưởng mà chưa đi sâu khai thác, chưa làm nổi bật được các yếu tố thi pháp của truyện, trong đó có yếu tố thần kì. Dạy như vậy là chưa đúng với đặc trưng thể loại. Chính vì vậy, đề tài là một hướng đi mới khi tôi đề ra được giải pháp cụ thể để khai thác yếu tố thần kì khi giảng dạy truyện cổ tích này. Bởi đó là yếu tố làm nên nét riêng độc đáo của cổ tích thần kì. Trên cơ sở đó tạo cho các em niềm say mê hứng thú với truyện “Tấm
Cám” nói riêng và truyện cổ tích nói chung.
Từ đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy.
Giải
pháp đề nghị công nhận không trùng hoặc tương tự với giải pháp của tác giả nào
trước đó đã được áp dụng hoặc áp dụng thử.
5.2. Nội dung sáng kiến: Để
áp dụng sáng kiến, tôi đã thực hiện giải pháp như sau:
Thứ nhất: Làm nổi bật yếu tố thần kì thông
qua phương pháp kể sáng tạo.
Lâu nay, khi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm văn học, giáo viên thường yêu cầu học sinh
đọc ở nhà hoặc đọc trên lớp. Con đường đến với tác phẩm văn chương nhất thiết
phải từ đọc, hơn nữa phải gắn với việc đọc. Đọc là một hình thức hoạt động có
tính đặc thù của nhận thức về văn học.
Thế nhưng, trong
giờ dạy truyện cổ tích, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc cho học sinh đọc.
Dạy cổ tích, giáo viên phải hướng dẫn học sinh kể được tác phẩm một cách sáng
tạo. Bởi “kể” là đặc điểm cơ bản tiêu biểu của cổ tích. Nó xuất phát từ đặc
trưng chung của văn học dân gian là tính
truyền miệng, song nó cũng xuất phát từ những đặc điểm riêng của truyện cổ
tích. Đặc điểm truyện cổ tích được xây dựng phù hợp với hình thức kể: tính cách
nhân vật cổ tích khá đơn giản, cốt truyện phát triển theo trình tự thời gian,
sự lặp lại kết cấu và môtíp, nội dung phản ánh gần gũi cuộc sống con người.
Kể sáng tạo
truyện cổ tích được giải quyết ở hai góc độ. Một là, vẫn giữ nguyên nội dung
cốt truyện. Dựa vào thi pháp truyện để kể, căn cứ vào những biến đổi của truyện
để sáng tạo trong hoạt động kể. Hai là, kể sáng tạo truyện cổ tích làm thay đổi
nội dung cốt truyện, sản sinh truyện cổ tích mới. Hoạt động kể sáng tạo của học
sinh chú trọng vào cách thức thứ nhất. Bởi cổ tích là của nhân dân và được sáng
tác tiếp theo thời gian, nên học sinh có quyền tham gia quá trình đó bằng hoạt
động kể sáng tạo của mình. Kể sáng tạo quan tâm đến cử chỉ, động tác, giọng
nói, tác phong, ngôn ngữ, vẻ mặt của người kể sao cho phù hợp,
không thừa thãi, gượng ép.
Cụ thể, khi dạy học
truyện cổ tích “Tấm Cám”, để khai thác được yếu tố thần kì nhằm tạo hứng thú
cho học viên khi học văn bản thì tôi đã làm như sau:
Trước khi học văn
bản, tôi yêu cầu học viên đọc và chuẩn bị trước ở nhà. Lần đọc này chính là
bước làm quen đầu tiên đối với tác phẩm của các em bằng hứng thú tự nhiên.
Những cảm xúc ban đầu sẽ có khả năng gợi liên tưởng, tưởng tượng, giúp học viên
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó các em sẽ trả lời tốt hơn
những câu hỏi ở phần hướng dẫn học bài – đây là tiền đề cần thiết của giờ học
đạt hiệu quả cao ở trên lớp.
Khi tiến hành hướng
dẫn học viên đọc hiểu văn bản thì tôi yêu cầu một học viên kể sáng tạo lại
truyện cổ tích “Tấm Cám” thông qua một
số tình tiết quan trọng có liên quan đến yếu tố thần kì. Khi kể cần chú ý giọng
kể sao cho phù hợp và biểu cảm. Cụ thể như sau:
- Khi kể giọng của Bụt thì kể với giọng hiền từ, nhân hậu: “Con làm sao lại khóc”; “Thôi con nín đi!
Con thử nhìn vào giỏ xem còn gì nữa không?”; ...
- Khi kể giọng của Tấm lúc gọi bống lên ăn cơm thì kể với giọng
dịu dàng, trìu mến, thân thương: Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm
vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm
hẩm cháo hoa nhà người
- Giọng con gà phải kể với giọng rõ ràng, dứt khoát: “Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới
xương cho!”.
- Giọng của Tấm khi sai đàn chim sẻ xuống nhặt thóc phải thể hiện
sự mạnh mẽ, đe dọa: Rặt
rặt xuống nhặt cho tao
Ăn mất hạt nào thì tao
đánh chết
- Lời của Tấm khi hóa thân thì phải kể với âm điệu dứt khoát thể hiện ý đe dọa, cảnh
cáo:
Khi hóa thân thành
vàng anh: “ Phơi áo chồng tao, phơi lao
phơi sào,
chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”.
Khi hóa thân thành
khung cửi:
Cót ca cót
két,
Lấy tranh
chồng chị,
Chị khoét mắt
ra.
- Khi kể lời của nhà Vua nói với chim vàng anh và lời bà cụ bán
hàng với quả thị thì giọng điệu phải tha thiết, dịu dàng, chân thành:
Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào
tay áo.
Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi,
chứ bà không ăn.
Như vậy, kể vừa thích hợp với đặc trưng loại hình truyện cổ tích, vừa có
tác dụng cực kì quan trọng là gợi được không khí diễn xướng vốn là đặc trưng
cho hoạt động thông tin và tiếp nhận của sáng tác dân gian. Qua biện pháp kể
sáng tạo, giáo viên có thể đánh giá được năng lực cảm, hiểu tác phẩm của học
viên. Đồng thời kể sáng tạo làm yếu tố thần kì – một đặc trưng nổi bật của cổ
tích thần kì - được phát huy và giúp khơi gợi, phát triển trí tưởng tượng phong
phú, khích thích hứng thú ở các em trong quá trình học văn bản này.
Thứ hai: Khai thác yếu tố thần kì thông qua những câu hỏi gợi mở
và câu hỏi cảm thụ.
Dạy học văn là một hoạt động gợi mở, dẫn dắt, định hướng học viên để
từng bước chiếm lĩnh nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Trọng tâm của hoạt động
này là việc xây dựng hệ thống câu hỏi có tính gợi mở, kích thích sự tìm tòi
khám phá, tranh luận, làm sống dậy ở mỗi học viên sức liên tưởng, so sánh, suy
luận,…Những câu hỏi được sử dụng là những câu hỏi có ý nghĩa gợi ý, dẫn dắt học
viên tự chiếm lĩnh dần tác phẩm. Muốn vậy giáo viên phải xác định được một hệ
thống câu hỏi từ dễ đến khó, từ tái hiện đến phát hiện, từ tìm tòi đến suy
luận, khái quát.
Khi
dạy học truyện “Tấm Cám”, tôi đã dẫn dắt, gợi mở cho học viên khám phá tác phẩm
thông qua các yếu tố thần kì bằng những câu hỏi sau:
- Khi
nhân vật chính trong truyện cổ tích thần kì gặp khó khăn thì yếu tố gì xuất
hiện?
Sau khi học viên trả lời, giáo viên định
hướng: Trong truyện cổ tích thần kì, khi nhân vật chính gặp khó khăn thì yếu tố
thần kì xuất hiện .
Tiếp theo đó, giáo viên đặt câu hỏi: Em hiểu thế nào là yếu tố thần kì và biểu
hiện của nó? Bằng câu hỏi này, giáo viên đã dẫn dắt học viên đi sâu khai
thác, tìm hiểu về yếu tố thần kì.
Sau
học viên trả lời, giáo viên định hướng: Yếu tố thần kì là những yếu tố siêu
nhiên do trí tưởng tượng của con người sáng tạo nên. Yếu tố thần kì bao gồm: nhân vật thần kì như
Tiên, Bụt,..; con vật thần kì như ngựa thần, chim thần, con gà biết nói,..; đồ
vật thần kì: khăn thần, mâm thần,...và sự hóa thân của nhân vật.
Tương tự, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Trong truyện “Tấm Cám” có những yếu tố thần
kì nào? Tại sao con đường đến với hạnh phúc của nhân vật Tấm phải có sự giúp đỡ
của yếu tố thần kì? Ở vế thứ 2 của câu hỏi, giáo viên có thể hỏi sau khi
học viên hoàn thành xong vế thứ nhất.
Sau khi học viên
trả lời, giáo viên định hướng: Các yếu tố thần kì trong truyện “Tấm cám” bao
gồm: Ông Bụt, con gà, đàn chim sẻ và sự hóa thân của nhân vật Tấm. Con đường
đến với hạnh phúc của nhân vật Tấm nhất thiết phải có sự giúp đỡ của yếu tố
thần kì. Bởi lẽ, con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu
hướng giải quyết mâu thuẫn đặc biệt của truyện cổ tích. Trong xã hội xưa, khi
sự áp bức bất công vẫn còn là phổ biến, khi những đau khổ của con người mồ côi
là có thực thì hạnh phúc mà họ được hưởng thường hiếm hoi và phần lớn chỉ là mơ
ước. Để tạo nên một hiện thực như mơ ước ấy không thể không sử dụng yếu tố thần
kì.
Không chỉ sử dụng
câu hỏi gợi mở, giáo viên có thể kết hợp với câu hỏi
cảm thụ ở từng mức độ khác nhau. Câu hỏi cảm thụ góp phần rất quan
trọng trong việc hình thành khả năng tự chiếm lĩnh tri thức của học viên, giúp
các em cảm nhận được những cái hay, cái đẹp trong tác phẩm. Với truyện “Tấm
Cám”, trong qua trình dạy học, giáo viên muốn khơi gợi được những cảm xúc của
học viên, phát huy được năng lực tư duy của các em cần phải đặt ra những câu
hỏi cảm thụ. Trên cơ sở những câu hỏi cảm thụ này, yếu tố thần kì sẽ được khai
thác, và do đó những giá trị độc đáo về nội dung và nghệ thuật sẽ được bộc lộ
rõ ràng.
Khi
hướng dẫn học viên tìm hiểu về thân phận bất hạnh và con đường đến với hạnh
phúc của Tấm, tôi đã sử dụng câu hỏi:
Theo em, yếu tố thần kì có vai trò
như thế nào đối với con đường đến với hạnh phúc của Tấm?
Sau khi học viên trả lời, giáo viên định hướng: Các yếu tố thần kì có
vai trò hết sức quan trọng trên con đường đến với hạnh phúc của Tấm. Ông Bụt,
con gà, đàn chim sẻ là những yếu tố thần kì đã giúp Tấm đến được hạnh phúc của
mình. Ông Bụt là nhân vật tôn giáo đã được dân gian hóa trở thành ông lão hiền
lành, tốt bụng, xuất hiện đúng lúc để thực hiện mơ ước của nhân dân. Ông là
nhân vật phù trợ, xuất hiện giúp nhân vật chính giải quyết khó khăn, thúc đẩy
cốt truyện phát triển. Về ý nghĩa xã hội thì Bụt đền bù những thiệt thòi mà Tấm
phải chịu, đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm đi đến thắng lợi sau này. Còn
con gà thì giúp Tấm tìm thấy xương cá bống. Đàn chim sẻ giúp Tấm nhặt thóc ra
khỏi gạo trộn. Có thể nói, tất cả các yếu tố thần kì đã giúp Tấm và đưa Tấm đạt
tới đỉnh cao của hạnh phúc. Đồng thời nó cũng tạo ra một kết thúc có hậu, thể
hiện triết lí sống “ở hiền gặp lành” trong tư tưởng nhân dân.
Khi hướng dẫn học viên tìm hiểu về cuộc đấu
tranh gian nan, quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm, tôi đã sử dụng
các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Theo em,
vai trò của yếu tố thần kì đối với con đường giành và giữ hạnh phúc của Tấm có
gì khác trước?
Sau khi học viên trả lời, giáo viên định
hướng:
Nếu ở chặng đầu, khi Tấm chưa trở thành hoàng hậu thì mỗi lần Tấm
khóc, Bụt lại hiện lên giúp đỡ, ban tặng những vật thần kì. Còn từ sau khi Tấm
trở thành hoàn hậu và chết thì Bụt không xuất hiện nữa. Tấm cũng không khóc mà
đấu tranh quyết liệt. Yếu tố thần kì đã được hóa thân vào sự bất tử của Tấm.
Tấm chết biến thành vàng anh để mắng Cám, hóa cây xoan đào, khung cửi để rủa và
tuyên chiến với Cám, hóa ra cây thị (quả thị) để trở về với cuộc đời. Như vậy
yếu tố thần kì không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hóa thân
để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.
Câu hỏi 2: Từ yếu tố thần kì, em có nhận thức như thế nào về triết lí nhân sinh,
quan niệm và mơ ước của nhân dân gửi gắm trong truyện?
Sau khi học viên trả lời, giáo viên định
hướng: Sau nhiều lần hóa thân, Tấm trở về với cuộc đời, trở thành hoàng hậu và
càng xinh đẹp hơn xưa. Còn mẹ con Cám thì bị tiêu diệt. Điều này phản ánh sâu
sắc tư tưởng của nhân dân: cái thiện phải chiến thắng và cái ác phải bị trừng
trị thích đáng, thể hiện triết lí sống “ở hiền gặp lành”. Đồng thời nó cũng cho
thấy mơ ước của nhân dân về một xã hội công bằng: người lương thiện phải được
hưởng hạnh phúc, kẻ ác nhất định phải bị trừng phạt.
Khi sử dụng câu hỏi
cảm thụ, giáo viên cần lưu ý: Có thể kết hợp sử dụng câu hỏi cảm thụ với câu
hỏi gợi mở để quá trình chiếm lĩnh tri thức của học viên được thực hiện từ dễ
đến khó. Trên cơ sở đó phát huy được năng lực tư duy và hứng thú cho các em.
Thứ ba: Sử dụng phương pháp so sánh.
Trong nghiên cứu phê bình văn học hay khi dạy học tác phẩm văn
chương,
so sánh là một phương pháp được dùng khá phổ biến. So sánh sẽ giúp
học viên mở rộng khắc sâu kiến thức văn học cho chính bản thân mình, thấy được
những nét chung, nét riêng, sự kế thừa phát triển, đặc biệt là những dấu ấn
sáng tạo của từng tác giả trong mỗi tác phẩm. Việc hướng dẫn và rèn luyện cho
học viên so sánh khi dạy học tác phẩm văn chương cũng góp phần phát triển tư
duy cho các em, làm cho sự đánh giá tác phẩm của các em ngày càng trở nên tinh
tế, nhạy bén.
Khi dạy truyện “Tấm Cám”, để làm nổi bật yếu
tố thần kì, giáo viên thể
tiến hành so sánh hoặc gợi dẫn cho học viên so sánh rồi nhận xét.
Giáo viên có thể lồng vào quá trình tìm hiểu tác phẩm hoặc đặt ra cho học viên
tìm hiểu ở nhà. So sánh phải làm sao để khắc sâu kiến thức, mở rộng hiểu biết
cho học viên. Cụ thể, tôi đã sử dụng hai cách so sánh như sau:
Cách thứ nhất: So sánh với những
truyện cổ tích thần kì khác. Tôi hướng dẫn học viên so sánh sự biến hóa của Tấm
với sự biến hóa của Sọ Dừa trong truyện “Sọ dừa” và nàng Cóc trong truyện “Nàng
tiên cóc”. Cùng giống nhau ở sự biến hóa thần kì nhưng sự biến hóa ở Sọ Dừa,
nàng Cóc khác hẳn sự biến hóa của Tấm. Sọ Dừa biến thành một chàng trai khôi
ngô tuấn tú, nàng Cóc thì trở thành một cô gái xinh đẹp. Cả hai biến hóa để
hưởng hạnh phúc ở đời. Còn Tấm biến hóa để đấu tranh giành lại hạnh phúc ở cuộc
đời.
Cách thứ hai: So sánh trong cùng tác
phẩm. Tôi hướng dẫn học viên so sánh vai trò của yếu tố thần kì ở trước và sau
khi Tấm bị chết. Trước khi Tấm bị dì ghẻ hãm hại, yếu tố thần kì đã giúp và đưa
Tấm đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc. Mỗi khi Tấm gặp khó khăn thì yếu tố thần kì
lại xuất hiện kịp thời, trợ giúp. Còn từ sau khi Tấm chết, yếu tố thần kì đã
được hóa thân vào sự bất tử của Tấm. Yếu tố thần kì không thay Tấm trong cuộc
chiến đấu mà chỉ là nới Tấm hóa thân để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt
hơn.
Như vậy, khi sử dụng phương pháp so sánh
thì yếu tố thần kì được làm nổi bật. Các em rất say mê, hứng thú trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức. Tiết học vì thế cũng trở nên rất sinh động.
5.3. Về khả năng áp dụng
của sáng kiến:
Giải
pháp nêu trên đã được tôi áp dụng và mang lại hiệu quả thiết thực tại đơn vị.
Nhờ cách khai thác yếu tố thần kì mà khi dạy truyện “Tấm Cám”, tôi nhận thấy:
- Học viên rất hứng thú và chủ động trong quá trình tìm hiểu và
chiếm lĩnh tác phẩm; các em hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài; không khí
học tập sôi nổi; giờ học sinh động.
- Khai thác yếu tố thần kì khi dạy truyện “Tấm Cám” giúp học viên
khắc sâu kiến thức và nâng cao hiểu biết của mình.
- Từ đó, các em yêu thích truyện cổ tích nói riêng và bộ môn Ngữ
văn nói chung.
Ngoài ra, từ việc tìm ra những phương pháp
thích hợp để dạy học truyện “Tấm Cám” thành
công, sáng kiến còn mở ra những hướng tiếp cận, những phương pháp có tính khả
thi trong việc vận dụng vào dạy học các tác phẩm khác có ảnh hưởng của yếu tố
thần kì trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT.
6. Những thông tin cần bảo
mật: Không có.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Về phía giáo viên: Phải chuẩn bị bài chu đáo; biết sử dụng máy
chiếu và phần mềm Powerpoint.
- Về phía học viên: Đọc bài và chuẩn bị bài trước ở nhà; sẵn sàng
đón nhận những phương pháp mà giáo viên áp dụng.
- Về phía nhà trường: Tạo điều kiện ưu tiên giáo viên sử dụng
phòng máy.
8. Đánh giá lợi ích thu được
do áp dụng sáng kiến:
Năm học 2020 –
2021, khi áp dụng sáng kiến để dạy văn bản “Tấm Cám”, tôi đã chọn lớp 10A là
lớp thực nghiệm, lớp 10E là lớp đối chứng. Khảo sát mức độ hứng thú của học
viên hai lớp, tôi thu được kết quả như sau:
Lớp |
Số HV khảo sát |
Mức độ |
|||||||
Rất hứng thú |
Hứng thú |
Ít hứng thú |
Không hứng thú |
||||||
Số HV |
Tỉ lệ |
Số HV |
Tỉ lệ |
Số HV |
Tỉ lệ |
Số HV |
Tỉ lệ |
||
10E |
43 |
10 |
23,3% |
17 |
39,5% |
9 |
20,9% |
7 |
16,3% |
10A |
51 |
20 |
39,2% |
23 |
45,1% |
5 |
9,8% |
3 |
5,9% |
Tổng hợp |
Tăng 10HV |
Tăng 15,9% |
Tăng 6 HV |
Tăng 5,6% |
Giảm 4 HV |
Giảm 11,1% |
Giảm 4HV |
Giảm 10,4% |
Như
vậy, so sánh bảng số liệu có thể thấy khi áp dụng sáng kiến thì số học viên
hứng thú và rất hứng thú chiếm tỉ lệ rất cao (84,3%), tăng 21,5% so với không
áp dụng; còn tỉ lệ học viên ít hứng thú và không hứng thú chiếm tỉ lệ rất ít
(15,7%), giảm 21,5% so với không áp dụng.
Từ sự hứng thú khi học truyện “Tấm Cám”,
học viên trở nên yêu thích truyện cổ tích hơn. Khảo sát tình cảm của học viên
với truyện cổ tích, tôi thu được kết quả sau:
Lớp |
Số HV khảo sát |
Yêu thích truyện cổ tích |
Không yêu thích truyện cổ
tích |
10E |
43 HV |
24 HV (55,8%) |
19 HV (44,2%) |
10A |
51 HV |
46 HV (90,2%) |
5 HV (9,8%) |
Tổng hợp |
Tăng 22 HV (34,4%) |
Giảm 14 HV (34,4%) |
Bảng số liệu trên cho thấy số học viên yêu
thích truyện cổ tích chiếm tỉ lệ cao (90,2%), tăng 34,4%; còn số học viên không
thích chỉ có 9,8%, giảm 34,4%.
Khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, mức độ
hiểu bài của học viên cũng tăng lên. Để đánh giá mức độ hiểu bài của học viên,
tôi dùng đề kiểm tra khảo sát dưới hình thức trắc nghiệm trong thời gian 5
phút. So sánh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, tôi thu được kết quả sau:
Đối tượng Xếp loại |
Lớp 10 E 43 bài |
Lớp 10A 51 bài |
Kết quả so sánh |
||||
Số lượng |
Tỉ lệ |
Số lượng |
Tỉ lệ |
Tăng > Giảm < |
Số lượng |
Tỉ lệ |
|
Giỏi |
1 |
2,3% |
4 |
7,8% |
> |
3 |
5,5% |
Khá |
5 |
11,6% |
7 |
13,7% |
> |
2 |
2,1% |
TB |
20 |
46,5% |
29 |
56,9% |
> |
9 |
10,4% |
Yếu |
14 |
32,6% |
10 |
19,6% |
< |
4 |
13% |
Kém |
3 |
7% |
1 |
2% |
< |
2 |
5% |
Qua bảng số liệu, có thể thấy rõ: Đối
với lớp áp dụng sáng kiến thì tỉ lệ điểm giỏi, khá, trung bình đều tăng còn
điểm yếu, kém thì giảm xuống rõ rệt. Nhất là khi tôi thống kê điểm kiểm tra cuối
kì (đề ra trong văn bản “Tấm Cám”) thì kết quả cũng tương tự. Đặc biệt, không
còn học viên có điểm kém.
Đối tượng Xếp loại |
Lớp 10 E 43 bài |
Lớp 10A 51 bài |
||
Số lượng |
Tỉ lệ |
Số lượng |
Tỉ lệ |
|
Giỏi |
0 |
0% |
1 |
2 % |
Khá |
7 |
16,3% |
11 |
21,6% |
TB |
23 |
53,5% |
32 |
62,7% |
Yếu |
12 |
27,9% |
7 |
13,7% |
Kém |
1 |
2,3% |
0 |
0% |
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/