1. Là tác giả đề nghị
xét công nhận sáng kiến : “Phương pháp giúp học sinh yêu thích môn Khoa học lớp 4.”
2. Chủ đầu tư
tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư sáng kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng
kiến: Dạy - học môn khoa học lớp 4
4. Ngày sáng kiến được áp
dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 20
/4/ 2020
5. Mô tả bản chất của sáng
kiến:
5.1 Tính mới của sáng kiến:
Như
chúng ta đã biết, đối tượng HS lớp Bốn là những học sinh 10 tuổi, độ tuổi mà
ngày xưa ông bà ta thường nói “ Ăn chưa no, lo chưa tới”. Tâm lí của các em cũng rất đặc biệt: Nhận thức thường là cảm tính, lí
tính chưa thực sự phát triển. Tư duy trực quan chiếm ưu thế. Năng lực tập trung
không lưu.Trí nhớ theo kiểu máy móc tốt. Đặc biệt là những biểu hiện tâm lí của
các em dễ bị dao động theo tác động của môi trường sống.
Các em
rất thích tìm hiểu về khoa học và có một lượng tri thức khoa học nhất
định về nhiều lĩnh vực tuy chưa có hệ thống. Các em rất thích đọc các loại sách
về khoa học, thích làm thí nghiệm dù các hiện tượng khoa học đó các em đã gặp
trong đời sống nhưng tôi biết các em hứng thú vì các em đã hiểu được “Vì sao?”
và gọi đúng tên khoa học của nó. Đó là ham thích khám phá khoa học. Hiện tại,
để có thể đáp ứng được những ham thích của các em, tôi đã thực hiện một số hoạt
động trên lớp về bộ môn này. Thực sự các em cũng chính là nguồn cảm hứng để tôi
có thể chọn lựa hoặc thay đổi phương pháp, linh hoạt trong từng điều kiện và
hoàn cảnh cũng như nội dung bài dạy. Mối quan hệ thầy và trò đã là niềm say mê của
tôi trong việc hướng dẫn các em tìm tòi, khám phá các tri thức khoa học.
Hiểu được sự cần thiết của khoa học
trong đời sống và đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học, để thực hiện
tốt những giờ Khoa học có hiệu qủa tôi đã nghiên cứu và viết ra đề tài: “Phương pháp giúp học sinh yêu thích môn
Khoa học lớp 4.” Tính mới của sáng kiến do tôi
thực hiện đã khắc phục được nhược điểm học sinh tiếp thu kiến thức
một cách thụ động do giáo viên truyền đạt có sẵn trong sách giáo khoa. Áp dụng
giải pháp này tạo cho học sinh chủ động sáng tạo, lĩnh hội tri thức mới, ham học hỏi, ham nghiên cứu khoa học
giúp các em tự tin khắc sâu kiến thức.Vật làm thí nghiệm đơn giản dễ làm gắn
liền với đời sống thực của các em.
5.2 Nội dung sáng kiến:
a. Khai thác vốn hiểu biết của học sinh trước khi truyền đạt
kiến thức mới.
Mỗi em học sinh
từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên, ít nhiều các em cũng đã tiếp cận với những
vấn đề khoa học. Kiến thức khoa học đã tiềm ẩn trong các em. Vậy người thầy làm
thế nào để có thể khơi gợi những năng lực tiềm ẩn ấy ở các em? Khơi gợi như thế
nào để hiệu quả nhất, phù hợp nhất? Để lí giải câu hỏi này đòi hỏi người thầy
phải có định hướng trước khi tổ chức các hoạt động học tập. Một số biện pháp
nhằm khơi gợi khả năng của các em như:
Giáo viên nêu một hiện tượng có trong
đời sống hàng ngày mà các em đã từng gặp để các em suy đoán, trả lời. Từ đó,
người thầy sẽ dắt các em đi tiếp cuộc hành trình cho đến khi phát hiện chân lí
của vấn đề.
Ví dụ: Mở đầu bài “ Không khí cần cho sự sống” , giáo viên
nêu câu hỏi: “Nếu lấy tay bịt mũi và ngậm
miệng lại, em cảm thấy thế nào?” Học sinh sẽ có nhiều cách trả lời như:
-
Ngạt
thở
-
Khó
chịu
-
Tức
ngực
Tiếp đó
giáo viên yêu cầu học sinh giải thích hiện tượng ấy bằng những điều đã biết trong
thực tế, các em sẽ giải thích theo kiểu của mình… Lúc ấy các em đã chủ động
bước vào bài học mới.
Giáo viên nêu kết luận sai về một
hiện tượng liên quan đến bài cần dạy, bằng vốn hiểu biết của mình, các em sẽ lý
giải để phủ định ý đó.
Ví dụ: Dạy bài “ Nước có tính chất gì?, giáo viên yêu cầu học sinh :
Quan sát vật thật theo nhóm để rút ra tính chất không
màu, không mùi, không vị của nước.
Làm thí nghiệm chứng minh nước không có hình dạng nhất
định: chảy lan ra mọi phía, chảy từ cao xuống thấp, thấm qua một số vật và hòa
tan một số chất.
Học sinh còn được thảo luận các câu hỏi gợi ý các em
tìm tòi , phát hiện ra cách tiến hành thí nghiệm chứ không đơn thuần làm thí
nghiệm một cách máy móc theo yêu cầu của GV. Ví dụ:
+ Làm thế nào
để biết được một vật cho nước thấm qua hoặc không?
+ Làm thế nào
để biết được một chất có hòa tan hay không hòa tan trong nước?
Việc
phối hợp nhiều PPDH như trên đã làm cho các hoạt động của HS đa dạng, phong
phú, lôi cuốn mọi học sinh cùng tích cực tham gia.
Ví dụ: Dạy bài “Ánh sáng cần
cho sự sống”, giáo viên nêu: “Có một
ý kiến cho rằng ánh sáng không cần thiết đối với người bị mù bẩm sinh.” Theo em
điều đó đúng hay sai? Vì sao?
- Học
sinh sẽ có các đáp án cho câu hỏi này tuỳ theo khía cạnh các em xét. Chắc chắn
sẽ có em biết liên hệ với bài học hôm trước để có thể cho rằng ý kiến ấy sai…
Giáo viên sẽ tuỳ theo tình huống mà dẫn dắt nhận định vấn đề cho đúng đắn.
b. Kích thích tư
duy quan sát, kĩ năng sáng tạo của học sinh khi thực hiện các thao tác.
* Đây là mục tiêu giáo viên đặt ra khi tổ chức
hoạt động thực hành, thí nghiệm. Những thao tác các em thường làm như: sưu tầm
mẫu vật và trình bày, thực hành thí nghiệm và ghi lại các nhận xét trên phiếu
của nhóm rồi trình bày, làm đồ dùng thí nghiệm đơn giản… Trong tác phẩm “ Bàn
tay nặn bột”của Geoger Charpak, ông đã viết: “Thao tác là để hiểu biết”. Vâng, chỉ có thao tác mới làm tăng sức
thuyết phục các em khi tiếp thu kiến thức. Để đạt hiệu quả cao trong thao tác,
các em không chỉ thực hiện mà còn phải ghi nhận lại tất cả những điều quan sát
được khi thao tác, nhận xét và kết luận. Một số biện pháp cụ thể tôi đã thực
hiện để đạt mục tiêu này đó là tổ chức cho các em:
- Thao tác
trong nhóm: Đối với các thí nghiệm phức tạp như bài “Không khí cần cho sự cháy”; “Tại
sao có gió?”; “Không khí gồm những
thành thành phần nào?”
- Thao tác
cá nhân: Đối với các thí nghiệm đơn giản như bài “Nóng, lạnh và nhiệt độ”; “Vật
dẫn nhiệt và vật cách nhiệt”; “Bóng
tối”; “Ánh sáng”
- Giáo viên
chỉ nêu hiện tượng, không định hướng kết quả mà chỉ yêu cầu học sinh tự nghĩ ra
một thí nghiệm nhỏ để tìm ra vật liệu rồi từ đó đối chiếu kết quả. Các em sẽ có
cuộc tranh luận nho nhỏ để khám phá.
Ví dụ: Dạy bài “Ba thể của
nước”, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh nêu “Làm sao để nhận biết nước có thể chuyển từ thể này sang thể khác? Làm
điều đó với những vật liệu nào?” Học sinh trình bày rất tự nhiên và hợp lí.
*Sự hiểu
biết về thế giới xung quanh không thể đến với các em như một trò ảo thuật mà
phải để nó đến bằng chính những điều các em khám phá được. Phải giúp các em xây
dựng kiến thức từ phát minh của mình qua các thao tác. Để giúp cho các em có
thể thao tác được, bản thân người thầy phải tạo cho các em một môi trường thuận
lợi và chuẩn bị những điều có thể khích lệ các em. Người thầy luôn đứng ở vị
trí hướng dẫn tận tình, không bỏ mặc các em trong hoàn cảnh ấy và theo hướng
xác định với hệ thống câu hỏi dẫn dắt như: “Em
sẽ làm gì đây? Điều gì sẽ xảy ra? Tại sao làm như thế? Còn cách nào khác nữa
không? Em có đồng ý không? Theo em, giải thích như vậy đã hợp lý chưa?...”
c. Tận dụng thực
tế xung quanh khi tìm hiểu bài.
*Việc
tận dụng thực tế xung quanh cũng là một điều hết sức cần thiết để dạy – học.
Nhờ đó mà kiến thức của các em không tách rời thực tế mà nó có được từ thực tế
khách quan sinh động, từ trong nhịp sống hằng ngày của con người, từ trong
những điều con người phải làm để tồn tại.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh?” Giáo viên yêu cầu học sinh trả
lời cá nhân các câu hỏi:
+ Nêu cảm giác của em lúc khoẻ.
+ Em đã từng mắc bênh gì? Khi bị bệnh
đó, em cảm thấy trong người như thế nào?
+ Em đã làm gì khi bị bệnh?
d. Hệ thống kiến thức.
* Từ trước đến giờ, điều mà học sinh Tiểu học
sợ nhất là học thuộc lòng những con chữ khô khan trong sách giáo khoa như một
con vẹt và rất ít học sinh có thể nhớ nằm lòng các kiến thức cần ghi nhớ trong
quyển sách Khoa học. Đó là điều mà tôi luôn băn khoăn cứ sau khi học sinh học
xong một chương hay trước khi các em kiểm tra học kì. Sau một số năm thực
nghiệm với những đối tượng khác nhau và nhiều cách khác nhau, tôi đã dùng một
số biện pháp cụ thể sau:
- Dùng sơ đồ
để hệ thống kiến thức sau mỗi bài dạy. Người sáng tạo sơ đồ có thể là giáo viên
hoặc học sinh.
- Học sinh
dựa vào sơ đồ để trình bày lại những kiến thức cần ghi nhớ.
- Dùng sơ đồ
câm, bài tập trắc nghiệm dưới nhiều hình thức để kiểm tra kiến thức.
- Hệ thống
cả chương bằng sơ đồ hay biểu bảng.
* Muốn các
biện pháp trên đạt hiệu quả, bản thân người thầy phải nắm thật vững hệ thống
kiến thức và các mối liên quan giữa một chuỗi các sự vật hiện tượng để kết nối
bằng sơ đồ, dẫn dắt học sinh đi từng bước để xây dựng và hoàn tất sơ đồ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Không khí cần cho sự cháy” Giáo viên chỉ cần ghi bảng như sau:
* Vai trò của ôxi với sự cháy:
-
Khí ôxi " sự cháy
-
Càng nhiều không khí " càng nhiều ôxi " sự cháy lâu
* Cách duy
trì sự cháy và ứng dụng:
- Muốn duy trì sự cháy " liên tục cung cấp không khí có chứa
ôxi
e. Chia nhóm học
tập một cách linh hoạt để các em trao đổi thông tin, chủ động trong việc chuẩn
bị bài, tự tin khi tiếp thu kiến thức.
*Giáo
viên ai cũng rất quen thuộc với công việc này tôi nhắc lại nhằm xem như đây là
một hoạt động bổ trợ cho việc tạo nên sự hứng thú và đồng tâm giữa các thành
viên trong nhóm và không mang tính áp đặt đối với các em.
g. Phối hợp một
cách linh hoạt các phương pháp khác.
*Thật
vậy, không có một phương pháp nào là vạn năng mà luôn luôn là sự kết hợp thật
hài hoà giữa các phương pháp trên cơ sở một số phương pháp đặc trưng của từng
môn học. Tuy nhiên, một điều chúng ta cần lưu ý là chú trọng đến phương pháp
đàm thoại. Phương pháp này hầu như được kết hợp trong các phương pháp đặc trưng
hay bổ trợ cho một môn nào đó.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Âm thanh”
Hoạt
động 2: Các cách làm vật phát ra âm thanh
* Bước 1:
Hoạt động nhóm
- GV tổ chức cho HS hoạt động trong nhóm, mỗi nhóm 4
học sinh.
- GV giao việc cho các nhóm: Hãy tìm cách để các vật
dụng mà các em chuẩn bị như ống bơ, thước kẻ, sỏi, kéo, lược, … phát ra âm
thanh.
- HS hoạt động trong nhóm theo yêu cầu. Mỗi học sinh
nêu ra một cách và các thành viên thực hiện.
- Đại diện các nhóm trình bày cách làm để tạo ra âm
thanh của nhóm mình (HS vừa làm vừa thuyết minh cách làm):
+ Cho hòn sỏi
vào ống bơ rồi dùng tay lắc mạnh.
+ Dùng thước gõ
vào thành ống bơ.
+ Dùng hai hòn
sỏi gõ vào nhau.
+ Dùng bút để
mạnh lên bàn.
+ Cho bút vào
hộp rồi cầm hộp lắc mạnh, …
- HS, GV nhận xét các cách mà học sinh trình bày.
* Bước 2:
Đàm thoại
- GV hỏi: Theo
em, tại sao vật lại phát ra âm thanh?
- HS trả lời:
+ Vật có thể phát ra âm thanh khi con người tác động
vào chúng.
+ Vật có thể phát ra âm thanh khi chúng có sự
va chạm với nhau.
- GV kết luận, chuyển hoạt động 3.
5.3 Khả
năng áp dụng của sáng kiến:
Phương
pháp nêu trên đã được áp dụng tại Trường Tiểu học An Lộc A với sự tham gia của tất cả học sinh trong
khối. Kết quả cho thấy đã không những khắc
phục được nhược điểm tìm hiểu nội
dung bài học một cách thụ động, chỉ dựa vào sự truyền thụ kiến thức của giáo
viên có trong sách giáo khoa mà còn phù hợp với phương pháp dạy học mới; giúp học sinh tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động tập, ham tìm hiểu khoa học và tự tin hơn trong việc lĩnh hội kiến thức mới. Sáng kiến này có khả năng áp
dụng đại trà trong giảng dạy môn khoa học lớp 4 ở các trường Tiểu học.
6. Những
thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
7. Các
điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Áp
dụng cho dạy- học môn khoa học: Các vật liệu làm thí nghiệm đơn giản, dễ kiếm,
dễ làm, gắn liền với đời sống thực tế của học sinh.
- Có sự chấp thuận của Ban Giám hiệu nhà trường.
8. Đánh
giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý
kiến của tác giả:
*Sau một quá
trình nghiên cứu và thử nghiệm trên chính đối tượng học sinh của mình, kết quả
đạt được như một sự động viên khích lệ cho tôi tiếp tục tìm tòi và rút kinh nghiệm
để việc dạy – học Khoa học của thầy và trò đạt được hiệu quả cao, huy động vốn
kiến thức và kinh nghiệm sống của HS để xây dựng bài; khuyến khích HS nêu câu
hỏi, ý kiến cá nhân, nêu thắc mắc về vấn đề đang học; khuyến khích HS nhận xét,
bổ sung câu hỏi của bạn. Đặt câu hỏi tạo
cho HS tính tỉ mỉ, ham hiểu biết và tự làm thí nghiệm chuẩn bị cho bài học sau.
- Chất lượng:
Bên cạnh những kiến thức cơ bản cần nắm, các em còn được bổ sung và mở rộng
thêm một số kiến thức phổ thông khá lí thú.
-
Kết quả trên thực tế bằng điểm số: Các em đều đạt điểm cao trong những lần kiểm tra định kì Cuối kì I và và cuối năm học
kết quả cụ thể như sau:
Kết quả học
tập của HS cuối năm học 2019 - 2020
SS lớp
42 em
Môn |
Điểm 10 |
Điểm 9 |
Điểm 8 |
Điểm 7 |
Điểm 6 |
Điểm 5 |
Điểm dưới 5 |
HTT |
HT |
CHT |
Khoa học |
33 |
4 |
5 |
0 |
0 |
0 |
0 |
37 |
5 |
0 |
Học kì I
năm học 2020 – 2021, kết quả học tập môn Khoa
học của lớp đạt được như sau :
SS lớp : 44 em
Môn |
Điểm 10 |
Điểm 9 |
Điểm 8 |
Điểm 7 |
Điểm 6 |
Điểm 5 |
Điểm dưới 5 |
HTT |
HT |
CHT |
Khoa học |
40 |
3 |
1 |
0 |
0 |
0 |
0 |
43 |
1 |
0 |
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/