Skkn Phương pháp nâng cao kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học

 


1.     Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến “Phương pháp nâng cao kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học”.

2.     Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:

3.     Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục

4.     Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ ngày 5 tháng 9 năm 2020.

5.     Mô tả bản chất của sáng kiến:

 5.1 Tính mới của sáng kiến.

Như chúng ta đã biết ngày nay tiếng Anh là ngôn ngữ được nhiều quốc gia sử dụng nhất, và đã trở thành một trong những phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trên toàn thế giới. Chính vì sự cần thiết, hữu dụng của ngôn ngữ này mà vấn đề nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh ngày càng trở nên quan trọng hơn. Bằng cách nào để học sinh có thể học tiếng Anh một cách chủ động, và sử dụng nó một cách thành thạo đang là vấn đề mà nền giáo dục Việt Nam quan tâm.

Đầu tiên phải công nhận rằng, đa phần các thế hệ học sinh ở nước ta tiếp thu môn ngoại ngữ này rất tốt ở những kỹ năng: nghe, đọc, viết, bằng chứng là các em có thể làm tốt các dạng bài tập trong môn tiếng Anh như là bài tập về kỹ năng đọc, kỹ năng nghe, kỹ năng viết nhưng khi muốn các em “nói” hay còn gọi là “giao tiếp” thì đa phần các em còn chưa làm được, không phải các em chưa giỏi, hay là chưa học đủ kiến thức mà đơn giản là các em chưa quan tâm đúng mức kỹ năng nói trong môn học này cộng thêm tâm lý rụt rè, sợ sai, chưa tự tin. Mà muốn sử dụng thành thạo một ngôn ngữ thì người học phải rèn luyện cả bốn kỹ năng cơ bản là: nghe, nói, đọc, viết.       

Vì vậy tôi đã lập kế hoạch và áp dụng sáng kiến “Phương pháp nâng cao k năng nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học” giúp các em luyện nói và tích lũy vốn từ vựng trợ giúp cho quá trình học tiếng Anh của mình trở nên dễ dàng hơn. Một điều quan trọng hơn để tôi quyết định nghiên cứu đề tài này là, việc luyện kỹ năng nói cũng có ảnh hưởng tích cực đến quá trình hình thành và phát triển tính cách của học sinh, nó giúp học sinh tự tin hơn là điều đầu tiên và rõ nhất mà ta có thể thấy.

5.2 Nội dung sáng kiến.

5.2.1 Nguyên nhân

Qua 5 năm giảng dạy môn tiếng Anh ở trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc - xã Thanh Lương - thị Xã BìnhLong - tỉnh Bình Phước, cũng như quá trình tìm tòi học hỏi kinh nghiệm trên các phương tiện báo đài, cũng như các đồng nghiệp của mình tôi nhận thấy một số điểm khó khăn khi luyện kỹ năng nói trong môn tiếng Anh như sau:

Đa phần các thế hệ giáo viên về trước thường giảng dạy theo phương thức: đọc, dịch và chép, đặc biệt rất chú trọng vào ngữ pháp, dẫn đến tình trạng học sinh làm bài kiểm tra rất “đỉnh”, nhưng yêu cầu học sinh nói thì chỉ số ít “dám nói” chứ chưa nói đến “nói hay, nói chuẩn”.

Đa số học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tiếng Anh trong thời kì hội nhập. Các em còn suy nghĩ đây chỉ là môn học tự chọn nên còn chưa học tập nghiêm túc đúng mực so với tầm quan trọng của môn học này.

Nhiều học sinh chưa quan tâm đúng mức đến knăng nói do suy nghĩ học tiếng Anh chỉ cần viết được, làm được bài tập là đủ.

Khối lượng từ vựng tích lũy của học sinh còn ít, kiến thức nền tảng và sự hiểu biết còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng nhiều đến khả năng phán đoán và phản ứng của học sinh khi đối thoại với thầy/cô hay bạn bè.

Học sinh thường rụt rè và sợ các giờ luyện nói do không tự tin, do sợ đọc sai và ít các hoạt động giao tiếp như các môn khác.

Do đây không phải tiếng mẹ đẻ, nên học sinh thường phát âm tiếng Anh theo xu hướng Việt hóa, một số em còn chưa sửa được giọng địa phương khi phát âm, thêm nữa là các em học sinh ở những lớp nhỏ giọng còn ngọng nên việc phát âm đúng là điều khó khăn.

Không phải em học sinh nào cũng có đủ điều kiện vật chất tinh thần để phục vụ nhu cầu học tiếng Anh. Nhất là các em sinh sống ở miền núi, miền quê điều kiện kinh tế khó khăn.

5.2.2. Thực trạng tại trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc

v Về phía học sinh

Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc là trường ở vùng nông thôn, nên các em học sinh ít có cơ hội được tiếp xúc với tiếng Anh, và môn học này cũng là môn học mới triển khai vừa tròn 5 năm.

Hầu hết các em chưa thể tự chuẩn bị trước bài ở nhà vì đặc thù của môn học là ngôn ngữ mới không phải tiếng Việt, và không phải phụ huynh nào cũng có thể tự kèm cho con em ở nhà được.

Các em rất ngại nói, hay nói đúng hơn là sợ nói, vì ngại vì xấu hổ nên vì vậy mà giờ luyện nói có rất ít học sinh tham gia năng nổ.

v Về phía giáo viên

Bản thân tôi luôn được các cấp lãnh đạo, đồng nghiệp, phụ huynh quan tâm hỗ trợ trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên do đa phần giáo viên dạy Tiểu học hiện nay đều được đào tạo từ trình độ Cao đẳng hoặc Đại học, nên vẫn còn một số khó khăn khi tiếp cận đối tượng học sinh cấp tiểu học.

Môn tiếng Anh còn ít thời lượng giảng dạy, đồ dùng thiết bị dạy học còn hạn chế nên dẫn đến chất lượng môn học chưa cao.

5.2.3. Biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề

Từ những khó khăn thực tế nêu trên trong quá trình giảng dạy, tôi đã tìm ra những giải pháp khác nhau nhằm khắc phục tình trạng này, các biện pháp được dùng để minh họa có nội dung liên quan đến bài học sẽ giúp học sinh nhớ lại phần kiến thức đã được học, các em sẽ tiếp thu kiến thức một cách chủ động, nhẹ nhàng và sẽ nhớ rất lâu.

Những biện pháp này tôi triển khai trước với 2 lớp: 1.1 và 5.2 ở trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc. Đây là 2 lớp đa số các em ngoan, năng động có ý thức học tập tốt. Dưới đây là bảng phân loại học sinh trước khi tiến hành áp dụng các biện pháp:

                    

Lớp

Tổng số HS

HS phát âm chính xác

Tỉ lệ %

HS biết sử dụngngữ điệu

Tỉ lệ %

HS phát âm chưa chính xác

Tỉ lệ %

5.2

23

14

60,8

9

39

9

39

1.1

37

24

65

18

48,6

13

35

 

 

Biện pháp 1: Sử dụng những bài hát tiếng Anh có nội dung ngắn gọn, dễ nhớ dễ thuộc.

Đối tượng tôi áp dụng chính của biện pháp này là học sinh khối lớp 1, vì chương trình tiếng Anh lớp 1 là chương trình mới nên các em còn bỡ ngỡ nên tôi chọn những bài hát cho các em dễ tiếp thu. Tôi soạn ra những bài hát ngắn có giọng điệu vui tươi, rộn ràng, giai điệu quen thuộc, dễ nghe và hát theo để dạy cho các em, đặc biệt là nội dung có liên quan đến bài học.

Ví dụ 1: Khi dạy bài Unit 4: My body có các từ vựng như: head, leg, arm tôi sẽ cho các em nghe và hát theo bài: Head, shouders, knees and toes. So với việc nghe và nói theo đĩa CD kèm theo của sách, việc lồng ghép nhạc vào sẽ làm các em hứng thú hơn nhiều từ đó nói tốt hơn, song song đó khả năng nghe cũng cải thiện hơn. Tôi thường dùng biện pháp này ở đầu tiết học vừa khuấy động học sinh mà vừa dẫn dắt vào bài một cách nhẹ nhàng không khô khan.

 (Hình ảnh bài Unit 4: My body, trang 26, 27 SGK tiếng Anh 1- nguồn Youtube)

               (Hình ảnh bài hát Head, shouders, knees and toes - nguồn Youtube)

Thêm vào đó tôi cũng lồng ghép để mở rộng thêm vốn từ theo chủ điểm Body (cơ thể) cho học sinh: shoulders (vai), knees (đầu gối), toes (ngón chân), eyes (mắt), ears (tai), nose (mũi)……………

Ví dụ 2: Khi dạy bài bảng chữ cái (The alphabet) cho học sinh, tôi sẽ cho các em nghe bài ABC song, một bài hát rất quen thuộc nên là các em rất dễ dàng nói được các chữ cái trong tiếng Anh một cách dễ dàng, so với việc dạy “chay” cô nói trước – trò nói sau, các em phải tập đọc, tập nhớ rất máy móc thuần thục sau đó mới “nói” được các chữ cái trên thì học qua bài hát rất hiệu quả.

(Hình ảnh bài hát ABC song- nguồn Youtube)

 Một điểm mà tôi luôn lưu ý khi áp dụng các bài hát trong quá trình giảng dạy kỹ năng nói tiếng Anh của mình đó là, tôi luôn sử dụng các bài hát quen thuộc hay như bây giờ mọi người vẫn hay nói vui là ‘những bài hát quốc dân’, gọi vậy là do những bài hát này hết sức quen thuộc nên hầu như học sinh nào cũng từng nghe qua cả, ngay từ khi các em còn chưa biết nói, viết hay đọc.

Biện pháp 2: Sử dụng truyện tranh song ngữ cho các em học sinh luyện nói.

Đối tượng được áp dụng thử nghiệm ban đầu là học sinh khối lớp 5. Vì chương trình tiếng Anh lớp 5 có rất nhiều từ vựng, nên các em cần biết càng nhiều thì nó càng giúp các em học tốt hơn. Tôi lựa chọn một vài quyển truyện tranh giao cho các nhóm, đó chủ yếu cũng là truyện dân gian Việt Nam nên các em cũng có thêm kiến thức về nền văn học dân gian của nước nhà. Trong khi phân nhóm tôi cũng đặt tên cho các nhóm tương ứng với tên của các loại động vật đáng yêu, điều này giúp các em ghi nhớ được vốn từ về chủ đề động vật. Biện pháp này tương đối phức tạp và cần rất nhiều thời gian nên tôi chia ra từng bước nhỏ như sau:

Bước 1: Chia lớp làm 4 nhóm nhỏ (Mỗi nhóm 5-6 em) và đặt tên cho các nhóm theo tên các loại động vật dễ thương:

  + Nhóm 1: Little Bear ( Gấu nhỏ)

+ Nhóm 2: Little Rabbit ( Thỏ con)

+ Nhóm 3: Little Turtle ( Rùa Con)

+ Nhóm 4: Little Monkey ( Khỉ Con)

Bước 2: Giao cho mỗi nhóm 1 quyển truyện tranh và yêu cầu nhóm về cùng nhau đọc và hiểu sơ lược được các câu trong quyển truyện. Tôi lựa chọn 4 quyển cho 4 nhóm:

 Nhóm 1: Dê trắng và dê đen

 Nhóm 2: Thỏ và rùa

 Nhóm 3: Chú bé chăn cừu

 Nhóm 4: Cóc kiện trời

          (Hình ảnh trang bìa quyển truyện tranh song ngữ Chú bé chăn cừu – nguồn trang web tiki.vn)

Bước 3: Tổ chức các buổi học nhóm ở trên lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, hướng dẫn học sinh đọc những câu khó, từ khó, cách luyến láy cho học sinh tự tin hơn khi kể truyện (nói trước lớp).

Bước 4: Tổ chức cho mỗi nhóm kể lại bằng tiếng Anh những câu truyện giáo viên đã giao cho nhóm theo hình thức song ngữ ANH -VIỆT (một học sinh nói tiếng Anh - một học sinh nói tiếng Việt, và ngược lại đổi vai cho nhau). Với những học sinh yếu cho phép các em cầm sách và kể được các câu tiếng Anh ngắn, phát âm đúng các từ trong các câu đó là được.

Cũng như việc dùng các bài hát để rèn kỹ năng nói, thì đọc truyện tranh song ngữ còn giúp học sinh rèn được kỹ năng đọc là điều đầu tiên bởi vì phải đọc được đã thì mới nói – kể truyện được. Như mục tiêu ban đầu rèn kỹ năng nói để giúp các em tự tin hơn nên tôi mạnh dạn nghĩ ra phương pháp này để các em thêm tự tin và tập thói quen đứng trước đám đông có thể nói được tiếng Anh.

Biện pháp 3: Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh bằng những mẫu câu có sẵn.

Vì học sinh của tôi ở vùng nông thôn nên các em chưa có nhiều vốn từ vựng, nếu có thì rất hạn chế dù vậy tôi vẫn tăng cường nói tiếng Anh trên lớp, thường là các câu mệnh lệnh đơn giản, hoặc những câu hỏi theo bài học kết hợp với động tác, điệu bộ.

Ví dụ 1: Khi vào lớp sẽ là những đoạn hội thoại nhỏ, có thể đối với học sinh khá giỏi hay ở thành thị, những mẫu câu này thật quá quen thuộc và nhàm chán, nhưng chính những mẫu câu này đã giúp cho học sinh của tôi nói tiếng Anh ngày một tự nhiên và nhiều hơn.Từ ban đầu bỡ ngỡ, sau dần các em hầu như đã quen thuộc và không còn để giáo viên chủ động mà qua một thời gian các em dần nắm quyền chủ động, biết chào hỏi bằng nhiều cách khác nhau: Good morning/afternoon Ms Ninh chẳng hạn.

                     Cô: Good morning class! -Trò: Good morning teacher!

                     Cô: How are you today? - Trò: I’m fine, thank you - And you?

                    (Mẫu câu quen thuộc dùng để chào hỏi khi vào lớp)

Ví dụ 2: Trong tiết học tôi luôn cố gắng dùng những câu hỏi ngắn để giúp khả năng phản xạ của các em tăng lên. Chẳng hạn như khi giới thiệu bài mới tôi hay hỏi những mẫu câu sau đây, những câu hỏi này tuy ngắn nhưng lâu dần làm cho các em phản xạ rất tốt mà không khô khan, vì mỗi bài lại là một nội dung khác nhau không lặp lại chẳng hạn:

                      Can you guess the content of the dialogue?

                      (Em có thể dự đoán nội dung của đoạn hội thoại không?)

                      How many people are there in this picture?

                      (Có bao nhiêu người trong bức tranh này?)

                      Who are they? (Họ là những ai vậy?)

                      What are they talking about?

                      (Họ đang nói chuyện gì vậy?)

Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn bỡ ngỡ nhưng dần dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và phản xạ ngày một nhanh. Biện pháp này không chỉ khối 1 và 5 mà hầu như khối lớp nào cũng áp dụng được.

 

(Hình ảnh bài Unit 2: lesson 1 SGK tiếng Anh 5 tập 1 – nguồn google)

Biện pháp 4: Sử dụng trò chơi trong giờ học để khuyến khích học sinh chủ động nói tiếng Anh nhiều hơn.

Vì đây là phương pháp gây hứng thú bậc nhất nên tôi đã áp dụng cho toàn bộ học sinh khối 1 đến khối 5. Tôi thường sử dụng các trò chơi (games) đầu giờ hoặc cuối giờ để củng cố bài học. Tôi thường chọn những trò chơi quen thuộc dễ chơi, kết hợp với giáo cụ là các đồ dùng nhiều hình thù ngộ nghĩnh bắt mắt, tranh ảnh để học sinh hứng thú và phát huy được kỹ năng nói.

Ví dụ 1: Khi dạy khối 3, Unit 8: This is my pen – lesson 2, để ôn lại lesson 1 của bài này, tôi sẽ cho học sinh chơi trò chơi “ chatting” – trò chơi hỏi đáp, các từ vựng và mẫu câu sẽ được chiếu lên, giáo viên sẽ hỏi – học sinh trả lời hoặc học sinh sẽ hỏi và trả lời tương tác cùng nhau. Nội dung câu hỏi thì dĩ nhiên là liên quan bài học, như vậy thay vì gọi học sinh lên kiểm tra bài cũ máy móc, tôi tổ chức trò chơi để giúp học sinh luyện kỹ năng nói. (thường áp dụng vào đầu giờ học )

(Hình ảnh bài Unit 8: lesson 1 SGK tiếng Anh 5 tập 1 – nguồn google)

                       Giáo viên: What’s this?

                       Học sinh: This’s my pencil.

                                                 Hoặc:

                       Học sinh 1: What’s that?

                       Học sinh 2: That’s my notebook.

Ví dụ 2: Tôi tổ chức trò chơi “guessing game?” – trò chơi đoán chữ, tôi sẽ cho các em vẽ một vài bức tranh bất kì hoặc cũng có thể là một vài kí tự liên quan tới bài học ngày hôm đó, em nào nói nhanh và đúng nhất từ khóa đó thì sẽ được điểm (thường áp dụng vào cuối giờ học). Thay vì cô trò ôn lại theo cách truyền thống (cô hỏi-trò đáp) thì tôi sẽ tổ chức trò chơi cho các em hứng thú hơn, và không nhàm chán.

Một điểm tôi đặc biệt tâm đắc khi sử dụng biện pháp này đó là các giáo cụ đi kèm, sẽ không chỉ là bảng đen phấn trắng quen thuộc tôi chủ động đầu tư cho các em học sinh nhiều hơn, và quả thật là cũng là trò chơi đó nhưng khi hỗ trợ thêm giáo cụ các em hăng say nói rất nhiều, kể cả các em trầm nhất cũng hăng hái “muốn được nói” để được cô khen.

                 (Hình ảnh các kí tự chữ cái bằng nhựa plastic, tranh học sinh tự vẽ để phục vụ việc tổ chức chơi trò chơi – nguồn google)

5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến.

      Đề tài có thể triển khai và áp dụng được trong tất cả các trường Tiểu học trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

6. Những thông tin cần được bảo mật: Không có

7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

Điều đầu tiên và quan trọng nhất là giáo viên phải luôn luôn động viên, khuyến khích các em học sinh nói thật nhiều, luôn cổ động cho các em để các em thôi rụt rè, để tự tin bước vào kỹ năng nói.

Ngay từ đầu năm học, giáo viên phải có kế hoạch phân loại chất lượng học kỹ năng nói của học sinh trong lớp để từ đó có biện pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh.

Giáo viên cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học sinh. Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học sinh học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè.

Luôn đi từ dễ đến khó: Từ cách nói câu đơn giản đến những câu dài, phức tạp hơn và dần tiến đến nói cả đoạn.

Khuyến khích học sinh tham khảo thêm tài liệu có trên In-tơ-net: xem phim, nghe nhạc, để giúp các em vững vàng kiến thức hơn.

Nên chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng trực quan (nếu cần thiết) để kích thích sự hứng thú của học sinh: các đồ dùng bắt mắt, dễ dàng chơi trò chơi cho các em hứng thú.

Luôn coi học sinh là nhân vật trung tâm của mọi hoạt động, giáo viên chỉ là người điều khiển, tổ chức, hướng dẫn học sinh phát hiện ra kiến thức mới..

Mỗi người giáo viên không ngừng học tập, xem thêm các video giảng dạy của giáo viên nước ngoài, đọc thêm tài liệu, sách báo, sưu tầm thêm tư liệu, trao đổi thường xuyên với đồng nghiệp.

8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

8.1. Kết quả đạt được.

    Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào dạy môn Tiếng Anh ở lớp 5.2 và 1.1 tại Trường TH Nguyễn Bá Ngọc, kỹ năng nói của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt và thu được kết quả như sau:

 Kiểm tra sau 03 tháng

Lớp

Tổng số HS

HS phát âm chính xác

Tỉ lệ %

HS biết sử dụng ngữ điệu

Tỉ lệ %

HS phát âm chưa chính xác

Tỉ lệ %

5.2

23

16

69,5

11

47,8

7

30,4

1.1

37

27

72,9

20

54

10

27

 

Kiểm tra sau 05 tháng

Lớp

Tổng số HS

HS phát âm chính xác

Tỉ lệ %

HS biết sử dụng ngữ điệu

Tỉ lệ %

HS phát âm chưa chính xác

Tỉ lệ %

5.2

23

19

82,6

15

65,2

4

17,4

1.1

37

30

81

24

64,8

7

19

Dựa vào bảng kiểm tra ta thấy lần đầu tiên số học sinh tiến bộ khá ít, nhưng kiên trì luyện tập thêm thì số lượng học sinh tiến bộ đã tăng lên rõ rệt. Thái độ học tập của các em sôi nổi hơn, vui vẻ hơn trong mỗi giờ luyện nói, kể cả những em rụt rè nhất nay cũng xung phong phát biểu.

Còn về phía giáo viên là tôi cũng có sự thay đổi rõ rệt, thay vì chỉ đủ thời gian chỉnh sửa phát âm để học sinh phát âm đúng, nay tôi đã có thêm thời gian hướng dẫn các em cách nhấn nhá khi nói, cả cô và trò đều vui vẻ nhẹ nhàng hơn nhiều trong giờ học tiếng Anh.

8.2. Bài học kinh nghiệm.

Để hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục giáo viên phải đổi mới tư duy từ phương pháp giảng dạy đến cách thức tổ chức giờ dạy cho có hiệu quả, đồng thời phải đáp ứng đúng mục tiêu giảng dạy theo phương pháp giao tiếp.

Giáo viên không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nên để học sinh nói tự do để phát huy khả năng sáng tạo của các em.

Để rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh có hiệu quả thì mỗi giáo viên trước khi lên lớp nên đầu tư chuẩn bị bài dạy thật kỹ, bên cạnh đó cũng phải chú trọng vào đồ dùng dạy học để cho học sinh hứng thú, tránh tư tưởng dạy cho qua loa, dạy cho xong là được, nhận định này đã có từ lâu nhưng vẫn luôn luôn đúng cho đến hiện tại.

Nguồn: ST

Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC