1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Đất nước ta đang bước vào thời kì đổi
mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thời
đại mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp “Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá” đất nước
đòi hỏi những con người năng động, sáng tạo, tự chủ, tự tin, có đầy đủ tri
thức, dám nghĩ dám làm để làm chủ đất nước. Chính vì thế, Nghị quyết số
29-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã đặt ra: "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
Giao
tiếp là nhu cầu đặc biệt hằng ngày và rất quan trọng của mỗi con người. Dù bạn ở
trong hoàn cảnh nào, làm việc gì thì để đạt được mục tiêu của mình đòi hỏi bạn
phải có giao tiếp. Khả năng giao tiếp của bạn phụ thuộc vào các kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt của chính bản thân bạn. Ở nước ta, Tiếng Việt là môn học rất quan trọng của bậc Tiểu học, làm nền
móng để học tốt các môn học khác và là tiền đề tạo nên cơ sở vững chắc cho nền giáo dục của
nước nhà. Nhận thức rõ tầm quan trọng của môn Tiếng Việt đối với nền giáo dục của
nước nhà nên môn học Tiếng Việt Một được đổi mới cho phù hợp với xu thế phát
triển của nền giáo dục.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi
mới phương pháp dạy học là trọng tâm trong công tác đổi mới giáo dục. Do vậy, kiểu dạy học thầy giảng - trò ghi nhớ trở nên lạc hậu, không còn
đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất và sự tiến bộ khoa học công nghệ. Giáo dục
đứng trước sức ép phải đổi mới, nhiều phương án dạy học đã ra đời, như: dạy học
chương trình hóa, nêu vấn đề, dạy học tình huống,…Trong đó, công nghệ dạy học
(CNDH) là một chiến lược dạy học đang dần xác định và chiếm ưu thế. Dạy học
theo chương trình Công nghệ giáo dục là kiểu dạy mà trẻ em không phải là đối tượng
chịu sự tác động của giáo dục một cách thụ động, mà là một chủ thể hoạt động để
tự sinh ra mình, trẻ em hoạt động để tự tạo ra sản phẩm giáo dục, để trở thành
cá thể người, một thành viên của xã hội có thể sống và hoạt động có kết quả
trong xã hội hiện đại. Cũng như các năm học trước, năm học 2018 – 2019, việc dạy Tiếng Việt theo Công nghệ
giáo dục được áp dụng trong toàn tỉnh Quảng
Bình. Thực hiện dạy tốt chương
trình TV1 CGD 1 là thực hiện tốt việc đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục-
Đào tạo. Để góp phần nâng cao chất lượng của việc dạy học
TV1 CGD, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy học Tiếng Việt 1 CGD”
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Thực tế có nhiều công trình nghiên cứu về việc
học công nghệ Tiếng Việt 1 của Giáo sư Hồ Ngọc Đại. Tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu điểm giống nhau và khác nhau giữa chương trình Tiếng Việt hiện
hành và chương trình Tiếng Việt Công Nghệ, nghiên cứu ưu thế của việc dạy Tiếng
Việt Công Nghệ chứ chưa đưa ra được biện pháp cụ thể để giúp đỡ học sinh.
Việc nghiên
cứu đề tài này nhằm đưa ra các giải pháp trong dạy học khơi dậy
sự tò mò, sáng tạo, chủ động của học sinh. Từ đó giúp các em từng bước tự điều
chỉnh chính mình trong việc tự tìm tòi khám phá tri thức chứ không ai có thể
làm thay được, khơi dậy lòng yêu thích học Tiếng Việt trong học sinh, giúp các
em mạnh dạn trong học tập và khả năng sáng tạo và học tốt môn CGD 1. Đồng thời sáng
kiến cũng đưa ra một số phương pháp giúp GV và HS vận dụng và thực hiện tốt việc
dạy và học Tiếng Việt CGD.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Nghiên cứu sáng kiến, tôi không có nhiều
tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình để có những
biện pháp hữu hiệu, bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn dạy học
TV1 CGD ở trường nói riêng và giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có
ý nghĩa nếu đề tài thành công, chất lượng dạy học được nâng cao đáp ứng
với định hướng đổi mới giáo dục hiện nay.
Đề tài
này nghiên cứu chương trình và nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt CGD.
Qua đó đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học TV1 CGD theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đây là nội dung mới được đưa vào dạy học
trong năm học này nên tôi chỉ mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng tại lớp 1 nơi tôi
đang công tác.
2.1.
Thực trạng của của dạy học môn Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục
2.1.1 Thuận lợi
Phòng Giáo dục và
đào tạo huyện Quảng Ninh đã triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện chương trình Tiếng Việt 1 - CGD đến các trường tiểu học trong huyện.
Đồng thời tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý và giáo viên về phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 - CGD.
Ban
giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng và giành nhiều thời gian dự
giờ, rút kinh nghiệm, giúp giáo viên tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình dạy
học.
Cơ sở vật chất của
nhà trường ngày một khang trang, đội ngũ giáo viên có năng lực, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng và có tinh thần trách nhiệm cao.
Học sinh chăm ngoan,
lễ phép và có ý thức học tập tốt. Đa số phụ huynh luôn quan tâm đến việc học tập
của con em và đồng thuận với các hoạt động dạy học của nhà trường.
Sau 3 năm khi thực hiện chương trình
tôi nhận thấy việc dạy học TV1 CGD giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc, viết; học
sinh nắm được luật chính tả, nhận biết và phân tích được cấu tạo của tiếng, từ,
giúp học sinh khắc sâu kiến thức ngữ âm. Bên cạnh đó chương trình còn tạo được
sự chuyển biến khá tích cực đối với giáo viên và học sinh. Với học sinh, các em
nghe – hiểu được lệnh, hiểu được lời nói của giáo viên, giúp học sinh tự tin
hơn trong học tập, nâng cao kĩ năng giao tiếp cho các em. Riêng với giáo viên dạy
TV1 CGD không phải soạn bài nên có nhiều thời gian để quan tâm đến học sinh
hơn, có thời gian nghiên cứu tài liệu để tổ chức thực hiện tốt hơn hoạt động dạy
học.
2.1.2 Khó khăn
Chương trình Tiếng
Việt 1- CGD dạy bản chất ngữ âm tiếng Việt. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt đa dạng về nội dung
nên giáo viên cần nhiều thời gian để nghiên cứu.
Chương trình này còn
nhiều bỡ
ngỡ với học sinh lớp 1. Ngay
bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết chính tả.
Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được các mẫu bài, dạng bài, biết
tiếng có âm đầu, tiếng có âm chính, tiếng có âm đệm, âm cuối… Trước đây, học hết
8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành âm, tiếng. Nay, hết
6 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 50 tiếng. Cụ thể: Khi dạy bài
"Âm /tr/ sách Tiếng Việt CGD tập 1 trang 60, 61 học sinh phải đọc tới 50
tiếng chưa kể đọc 7 phụ âm ở cuối trang. Bài đầu tiên của phần vần có âm đệm và
âm chính sách Tiếng Việt CNGD tập 2 trang 8, 9 học sinh phải đọc tới 65 tiếng.
Chưa nói đến những bài tập đọc ở phần sau tập 3 quá dài, dài hơn những bài tập
đọc lớp 2 chương trình hiện hành….Do đó một số em tiếp thu bài khó, bị đuối sức
khi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Phương
pháp dạy học môn Tiếng Việt 1 - CGD là sự phối hợp giữa phương pháp dạy học hiện
đại và truyền thống, tuy nhiên, trong quá trình dạy, đôi khi giáo viên quá tập
trung đến việc truyền thụ kiến thức mà quên đi việc tổ chức các hoạt động gây hứng
thú, thu hút học sinh.
Trình độ
phát triển tư duy của học sinh không đồng đều, các em chưa mạnh dạn bày tỏ ý kiến
của mình cho người khác nghe, khi trả lời còn lúng túng. Bên cạnh đó một số em
còn quên chữ cái nên gặp khó khăn trong việc đọc và nghe viết. Do ảnh hưởng của
chương trình hiện hành nên học sinh còn nhầm lẫn trong cách phát âm, vần như:
r/d/gi; uông, ua, iêng; của/quả...
Các bộ
phận của bộ máy phát âm chưa hoàn thiện nên học sinh lớp một thường phát âm sai
các âm cơ bản như: p (pờ) phát âm sai là
(bờ), ph (phờ) phát âm sai là (hờ)...; phát âm lẫn lộn giữa các âm: ch- tr, s - x, r - g, v- b,t - c...Đặc điểm
phương ngữ nên nhiều em phát âm sai giữa tiếng có thanh hỏi và thanh ngã.
Do ảnh hưởng của dư
luận trái chiều nên một số phụ huynh còn hoang mang, chưa thật sự tin vào
chương trình Tiếng Việt 1 – CGD. Đa số phụ huynh còn lúng túng trong việc hướng
dẫn con em đánh vần, phát âm nên gây khó khăn cho việc học và dạy trên lớp.
2.1.3. Nguyên
nhân
Từ những nội dung được tìm hiểu trên,
ta có thể thấy nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng dạy học TV1 CGD đó là:
- Một số phụ huynh quan tâm rèn thêm
cho học sinh ở nhà nhưng không đúng với phương pháp của thiết kế, khiến giáo
viên gặp nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn học sinh.
- Sự tham gia học tập không chuyên cần của học sinh trong năm đều gặp
khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và theo kịp chương trình.
2.2. Các biện pháp dạy học TV1 CNGD
2.2.1.
Giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, phương
pháp dạy học Công nghệ giáo dục.
Giáo viên cần nắm được quan điểm, mục
tiêu, biện pháp dạy học cơ bản của chương trình. Dạy Công nghệ giáo dục, giáo
viên không soạn bài nhưng phải dành nhiều thời gian nghiên cứu kĩ thiết kế để
nắm được mục tiêu và từng việc cần phải làm trên lớp, hiểu rõ ý đồ sách thiết
kế, thực hiện đúng quy trình 4 việc của tiết dạy.
Căn
cứ vào khung chương trình quy chuẩn về thời gian, dung lượng kiến thức và mục
tiêu chung của phân môn. TV1 CGD chia làm 37 tuần (10 tiết/tuần), bao gồm:
Phần chuẩn bị: Tuần 0 ( 2 tuần) học
cách làm việc.
Học kỳ I: Tuần 1 đến tuần 17 (học phần
âm và vần)
Học kỳ II: Tuần 18 đến tuần 35 (tiếp tục
học vần, nguyên âm đôi và luyện tập tổng hợp).
Phương
pháp thực hiện chương trình
Phương pháp Mẫu: Lập mẫu, sử dụng mẫu
Phương pháp Việc làm là phương pháp dạy
học hoàn toàn mới, xây dựng trên cơ sở sự hợp tác mới giữa thầy và trò. Trong
đó, thầy tổ chức việc học của trò thông qua những việc làm cụ thể và những thao
tác chuẩn xác do các em tự làm lấy.
Công nghệ giáo dục cũng dung nạp một số
phương pháp truyền thống như: Nêu vấn đề, trực quan, vấn đáp...coi đó như những
hình thức, thủ pháp dạy học nằm trong hệ thống của mình.
Quy trình dạy học gồm 3 loại:
Loại 1 : Tiết Lập mẫu: Gồm 4 việc
Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm (chiếm lĩnh
đối tượng)
Việc 2: Viết
Việc 3: Đọc
Việc 4: Viết chính tả
Loại 2: Tiết Dùng mẫu
Quy trình tiết Dùng mẫu giống quy
trình của tiết Lập mẫu. Chủ yếu là tổ chức cho học sinh luyện tập với vật liệu
khác trên cùng một chất liệu với tiết Lập mẫu. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với
giáo viên là phải nắm chắc quy trình tiết Lập mẫu, chủ động, linh hoạt trong
quá trình tổ chức tiết học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Loại 3: Tiết Luyện tập tổng hợp
Quy trình 4 việc ở tiết Luyện tập tổng
hợp được sắp xếp lại nhằm tập trung vào 2 kĩ năng đọc và viết:
Việc 1: Ngữ âm
Việc 2: Đọc
- Bước 1: Chuẩn bị + Đọc nhỏ + Đọc bằng mắt + Đọc to |
- Bước 2: Đọc bài + Đọc mẫu + Đọc nối tiếp + Đọc đồng thanh + Đọc hiểu (tìm hiểu bài) |
Việc 3: Viết
Việc 4: Viết chính tả
Để dạy tốt lớp 1 CGD không có cách nào hơn là
phải thuộc Thiết kế và thành thạo các thao tác, bởi vậy ngay từ đầu, mỗi
giáo viên cần phải tranh thủ đọc thiết kế và tập dạy trong nhóm; tập theo từng
loại mẫu, quan trọng nhất là phải nhớ đúng quy trình của các mẫu.
Ngoài việc tham gia đầy đủ các
lớp tập huấn, chuyên đề của nhà trường và cấp trên tổ chức, tôi đã thường xuyên
tìm đọc các tài liệu, tham khảo qua mạng Internet để nắm chắc chương trình, cấu trúc ngữ âm và quy trình dạy Tiếng Việt
1 - CGD.
Khi
tham gia các chuyên đề, tôi đã mạnh dạn chia sẻ để tháo gỡ những khó khăn gặp
phải trong quá trình dạy học.
2.2.2. Bồi dưỡng vốn kiến thức ngữ âm tiếng Việt
Một trong những yêu cầu quan trọng
hàng đầu đối với giáo viên dạy học Tiếng Việt 1 - CGD là hiểu được các khái niệm
ngữ âm tiếng Việt và luật chính tả được thiết kế trong chương trình. Đó là cơ sở
vững chắc giúp giáo viên làm chủ các hoạt động dạy học. Nhận thức rõ yêu cầu đó
nên ngay từ khi được phân công dạy lớp 1, tôi đã dành nhiều thời gian tập trung
nghiên cứu kĩ kiến thức ngữ âm tiếng Việt để phục vụ tốt cho việc dạy học của
mình.
Trong hệ thống kiến thức ngữ âm,
tôi đã lưu ý đến cấu tạo về cách phát âm, đặc điểm, các vị trí của mô hình của
âm tiết tiếng Việt. Phân loại âm tiết tiếng Việt và sự biến hóa ngữ âm.
Nắm chắc hệ thống ngữ âm tiếng Việt:
Hệ thống phụ âm đầu, hệ thống âm đệm; hệ thống âm chính; hệ thống âm cuối;
thanh điệu, ngữ điệu.
Trong đó mối qua hệ giữa âm và chữ
được đặc biệt chú ý. Từ âm sang chữ gọi là viết, từ chữ sang âm gọi là đọc.
Mỗi một chữ chỉ có một âm. Nhưng một âm có thể có 1/2/3/4 chữ (cách viết).
- Âm
/gờ/ được viết bằng hai cách: g/gh
- Âm
/iê/ được viết bằng bốn cách: iê/yê/ia/ya
- Âm
/ngờ/ được viết bằng hai cách: ng/ngh
- Âm
/uô/ được viết bằng hai cách: uô/ua
- Âm
/cờ/ được viết bằng ba cách: c/k/q
- Âm
/ươ/ được viết bằng hai cách: ươ/ưa
Luật chính tả là một phần kiến thức cơ bản
trong chương Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục, góp phần xử lí triệt để mối quan
hệ giữa âm và chữ. Do vậy, tôi đã đi sâu
nghiên cứu luật chính chính tả e/ê/i; luật chính tả về âm đệm; luật chính tả về
nguyên âm đôi /ia/, /ua/, /ưa/; luật ghi dấu thanh.
2.2.3 Vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học
Chương trình Tiếng Việt 1 - CGD là sự kết hợp giữa
phương pháp dạy học hiện đại và phương pháp dạy học truyền thống. Chương trình
đã tiếp cận cao đến yêu cầu tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh chuyển
từ thiết kế bài học theo 5 bước lên lớp truyền thống sang 4 việc, dưới sự tổ
chức hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện kỹ
năng một cách tối đa nhất.
Bởi vậy trong quá trình dạy học, tôi đã vận dụng
những ưu điểm của phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới, đồng thời kết
hợp với quy trình 4 việc theo các dạng bài. Trong các tiết học, tôi thường vận dụng các phương
pháp: phương pháp làm mẫu, phương pháp phân tích mẫu, phương pháp hỏi đáp,
phương pháp trực quan. Đồng thời kết hợp các hình thức dạy học như học theo lớp,
theo tổ, theo nhóm, theo cá nhân.
Câu
lệnh của giáo viên cần phải dứt khoát, rõ ràng. Học sinh
thực hiện theo đúng yêu cầu của giáo viên hoạt động giữa giáo viên - học sinh cần
diễn ra nhịp nhàng. Các hoạt động của lớp cần phải thực hiện theo “ký hiệu” trên bảng hoặc
ký hiệu bằng tay của giáo viên. Giáo viên không phải nói nhiều mà phải ưu tiên
các hoạt động cho học sinh. Quy trình 4 việc cần
phải thực hiện theo trình tự.
Giáo viên cần phải thuộc các việc cơ
bản ở mỗi bài. Cần phải nhẹ nhàng, thân thiện và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động ở
từng việc. Quan tâm tới các em học sinh
có nhận thức chậm trong lớp. Tác phong lời nói, cử chỉ, điệu bộ của giáo viên cần
phải chuẩn mực, thân thiện.
Tiết học buổi 2 giáo viên
cần phải xác định được nội dung cần ôn tập chú ý về các kỹ năng cần củng cố phù
hợp với từng đối tượng học sinh nhằm giúp các em nắm được bài tốt hơn. Dạy đâu
chắc đó, học sinh phải nắm được bài, không để học sinh ngoài lề lớp học.
Để giúp học sinh lớp 1 nắm vững được hệ thống âm
trong tiếng Việt 1, trước hết giáo viên cần giúp học sinh nắm vững được từng âm, giáo viên cần chú ý 2 vấn đề
then chốt:
- Yêu cầu đối với học sinh thuộc bảng chữ cái một cách
thành thạo.
- Nắm được kĩ năng về phát âm trong tiếng Việt 1, biết
phân biệt nguyên âm và phụ âm, biết cách lập mẫu và dùng mẫu, phân tích âm, tiếng,
đọc được theo các mức độ to - nhỏ - nhẩm - thầm theo lệnh và ký hiệu của giáo
viên. Biết phân biệt đâu là âm đệm, âm chính và đâu là âm cuối, học về luật
chính tả.
Tình trạng các em đọc vẹt
nhiều, muốn khắc phục những hạn chế này giáo viên nên tận dụng đồ dùng dạy học
của chương trình hiện hành, làm thêm đồ dùng dạy học và chủ động sắp xếp thời
gian rèn luyện kỹ năng nói, đọc cho học sinh.
Để giải quyết được hai vấn đề nêu trên, giáo viên phải
nắm vững vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu dạy âm... trong môn Tiếng Việt 1. Giáo viên
phải hiểu rõ khả năng nhận thức cũng như các đặc điểm của quá trình nhận thức của
trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức của học sinh Tiểu học đang hình thành và phát
triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng, người giáo viên tiểu học cần phải
hiểu trẻ em với đầy đủ nghĩa của nó, mới có
thể tiến hành dạy phần âm đạt hiệu quả được.
Để đạt được mục đích của việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học
sinh cần có sự vào cuộc, phối hợp của người dạy và chính bản thân người học. Bởi
vậy trong quá trình dạy học tôi luôn chú ý tăng cường các hình thức tự học, dạy
học nhóm, nhằm giúp học sinh trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của
mình... luôn kích thích khơi gợi hứng thú học tập cho các em thông qua tất cả các
giai đoạn của tiết lên lớp như đặt vấn đề vào bài, tổ chức lĩnh hội tri
thức mới, củng cố hướng dẫn hoạt động nối tiếp. Ngoài ra tôi thường tổ chức các hoạt động vui chơi lồng ghép
trong quá trình dạy học. Qua hoạt động vừa chơi vừa học các em biết chia
sẻ với nhau kinh nghiệm học tập, các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của
mình và giúp nhau cùng tiến bộ. Các em không những ham thích đến trường mà còn
dần yêu thích môn học này.
Ví dụ: Khi dạy bài: Âm / x/, tôi sử dụng trò chơi “ Chèo thuyền”
để giúp học sinh tìm thêm tiếng mới với các nguyên âm đã học như: xa, xe, xê,
xi, xo, xô, xơ, xu, xư.
Học sinh hào hứng khi khởi động tiết học
2.2.4. Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh
Chương trình TV1 CGD có thiết kế 2 tuần
0 để giáo viên dạy học sinh làm quen với môi trường học tập mới, hướng dẫn học
sinh biết cách nhận lệnh, thực hiện và báo cáo kết quả (sản phẩm). Hai tuần này
dù học sinh không được học một chữ nào nhưng được đánh giá là có giá trị định
hướng cho mọi việc về sau. Làm tốt tuần 0 thì sẽ dễ làm tốt các tiết học về
sau. Song, không phải giáo viên nào cũng nhận ra vai trò của tuần 0. Trong phần
tự nhận xét của mình, nhiều giáo viên thừa nhận chưa thực hiện tốt việc rèn nề
nếp học tập cho học sinh. Nề nếp học tập không tốt ảnh hưởng không ít đến quá
trình tổ chức tiết học (giáo viên mất nhiều thời gian hơn trong điều khiển, tổ
chức lớp học; phải nói nhiều vì lặp lại hiệu lệnh; khó kiểm soát kết quả việc
làm của học sinh...) và nó gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học
sinh. Vì thế, xây dựng tốt nề nếp học tập cho học sinh là điều cần phải thực hiện
để góp phần nâng cao chất lượng dạy học TV1 CGD.
Trong
2 Tuần 0, học sinh được hướng dẫn và thực hành theo các nội dung:
Làm quen (giữa giáo viên - học sinh,
giữa học sinh - học sinh)
Đồ dùng học tập và cách sử dụng (cách
dùng và tư thế sử dụng bảng con, phấn, khăn lau; cách dùng và tư thế sử dụng
bút chì, vở; hướng dẫn viết các nét cơ bản)
Xác định vị trí trên/ dưới; trái/ phải;
trước/ sau; trong/ ngoài (kết hợp chấm điểm
tọa độ và viết các nét cơ bản), làm quen với kí hiệu, luyện tập - củng cố kĩ
năng.
Qua “Tiết học chuẩn bị”, học sinh được
làm quen và chuẩn bị những điều cơ bản, cần thiết nhất cho các hoạt động học tập
chính thức. Với những nội dung trên, việc học sinh chưa qua mẫu giáo hay học
sinh vùng khó đều không phải là trở ngại.
Nhưng khi tổ chức thực hiện các tiết này, đòi hỏi giáo viên phải giao việc rõ
ràng ngay từ đầu để đưa học sinh vào nề nếp, làm nghiêm túc, kỉ luật nghiêm;
khuyến khích học sinh nhiệt tình tham gia, rèn luyện tinh thần tập thể. Giáo
viên phải tuân thủ quy trình làm việc, làm việc nào chắc việc ấy. Khen học sinh
làm tốt, không chê em làm kém trước lớp.
Ngoài
những nội dung được hướng dẫn trong thiết kế, giáo viên nên dùng các kí hiệu,
tín hiệu để quy ước với học sinh trong hoạt động học tập. Những kí hiệu, tín hiệu
quy ước sẽ giúp giáo viên hạn chế việc nói nhiều (việc sử dụng câu lệnh hay lời
hướng dẫn dài dòng sẽ mất thời gian và dễ gây nhiễu thông tin đối với học sinh,
đồng thời nó giúp các hoạt động của lớp học diễn ra nhịp nhàng, trật tự và
nhanh gọn hơn. Ví dụ:
- Hiệu lệnh chuẩn bị - hiệu
lệnh bắt đầu thực hiện - hiệu lệnh kết thúc:
1 tiếng gõ thước nhẹ - 2 tiếng gõ thước nhẹ - 1 tiếng gõ thước nhẹ hoặc tiếng
gõ thứ nhất - tiếng gõ thứ 2 - tiếng gõ thứ 3.
- Các kí hiệu sử dụng đồ
dùng học tập: S/16 (sách giáo khoa, trang 16); B (bảng con); V (vở trắng - viết
chính tả); TV/24 (tập viết, trang 24),… Khi viết các kí hiệu ấy vào một góc
riêng trên bảng lớp, học sinh nhìn thấy sẽ tự động thực hiện yêu cầu (lấy sách
giáo khoa - mở ra trang 16; chuẩn bị bảng con - phấn - giẻ lau hay lấy vở tập
viết - mở ra trang 24,…), khi xóa kí hiệu ấy đi thì học sinh sẽ tự biết là kết
thúc hoạt động và cất những vật dụng đó vào.
Giáo viên giữ vai trò
chủ chốt trong việc chọn lựa những kí hiệu, hiệu lệnh quy ước với học sinh, sao
cho những kí hiệu phải đơn giản, dễ nhận biết. Sau khi đã thống nhất, giáo viên
dành thời gian tổ chức huấn luyện cho học sinh thực hiện theo những kí hiệu đã
được quy ước ấy (kết hợp hướng dẫn thực hiện trong các tiết chuẩn bị của tuần
0).
2.2.5.
Rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh
Hướng dẫn học sinh
phát âm là việc làm quan trọng hàng đầu, đòi hỏi giáo viên phải có những hiểu
biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời
nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối
với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, tôi thường so sánh, phân tích cụ thể cách
phát âm (môi, răng, lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi) Với những học sinh vẫn chưa phát âm
được, giáo viên đến cần đến gần, phát âm mẫu để các em nhìn thấy được vị trí cụ
thể của các bộ phận phát âm. Sau đó yêu cầu các em phát âm lại.
*Ví dụ:
Học sinh sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc thành “at”
giáo viên hướng dẫn:
+
ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+
at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi.
Với
trường hợp học sinh sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ thống bộ máy
phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên hướng dẫn:
+ Tiếng
có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm, hơi luyến
giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên
trên.
+ Tiếng
có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát
âm có thể làm động tác gật đầu.
+ Những
tiếng có thanh ngã đọc nhấn giọng, hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng.
+ Những
tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh,
không kéo dài
Bằng
cách hướng dẫn như trên học sinh lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong việc phát
phát âm chuẩn.
Ở lứa
tuổi học sinh Tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là chuẩn mực.
Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Do
đó, khi sử dụng phương pháp làm mẫu, đòi hỏi giảo viên phải phát âm thật chuẩn
xác. Người giáo viên khi đọc mẫu,
không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác
hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không
đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1 – CGD việc quan sát môi cô phát âm
là quan trọng nhất.
Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu
không khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nêm nhàm chán và không
phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử
dụng phương pháp này khi thấy thật sự cần thiết.
Để
làm tốt việc rèn chữ viết cho học sinh, ngay từ đầu năm học giáo viên phải chú
ý đến nhiều khâu quan trọng sau:
- Giáo viên phải nắm
chắc kiến thức, viết đúng, viết đẹp mẫu chữ quy định để dạy học
sinh. Khi hướng dẫn phải cụ thể, tỉ mỉ, ngôn ngữ phải rõ ràng, dễ
hiểu. Mặt khác, cần tìm hiểu kỹ đặc điểm của từng HS để nắm
được năng lực của các em để có biện pháp cụ thể, phù hợp.
- Hướng dẫn học sinh có
được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi
các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách
viết các chữ viết thường, dấu thanh, thao tác đưa bút đúng quy trình.
- Để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh
cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu:
Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau, bút, vở...
Giáo viên cũng cần
chú ý đến tư thế ngồi viết; cách cầm và điều khiển viên phấn; cách cầm bút;
cách để vở, xê dịch vở khi viết; cách trình bày bài. Tư thế đứng phát biểu: đứng
thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô giáo hoặc người cần trả lời (tuyệt đối không vòng
tay trước ngực khi trả lời). Khoảng cách và kĩ thuật cầm bút: Cầm bút cao từ 2 - 2,5 cm; cầm
bút bằng 3 ngón tay; dứt khoát phải kiểm soát được kĩ thuật và khoảng cách cầm
bút của học sinh trước và trong khi các em viết chữ (điều này cần có thủ thuật).
Để học sinh có thói quen cầm bút đúng khoảng cách và viết nhẹ tay, giai đoạn đầu
dứt khoát phải yêu cầu học sinh sử
dụng bút chì do chính cô giáo gọt.
Khi đọc chính tả, trong quá trình học sinh viết giáo viên
có thể hỏi học sinh xem viết đúng chưa? Nếu sai bạn bên cạnh nhắc và viết lại,
không tẩy xóa chỉ gạch chữ sai ở dưới chân và viết ra bên cạnh, giáo viên cần
quan sát học sinh liên tục. Khi học sinh không viết được thì giáo viên cho học
sinh phân tích lại để viết, yêu cầu tùy theo đối tượng học sinh trong lớp để
giáo viên giao bài viết cho phù hợp.
Ví dụ: khi dạy chữ thì cần chú ý bộ nét, cơ bản là dạy đặt
bút, chấm tọa độ, kéo viết, kết thúc, tên nét phải nắm và thuộc, học sinh quên
giáo viên cho học sinh nhắc lại để nhớ, củng cố cho học sinh viết các nét và
thuộc các nét.
Nếu học sinh không biết phân tích, không biết viết giáo
viên phải hướng dẫn yêu cầu học sinh học thuộc bảng chữ cái và viết hết bảng chữ
cái cho nhớ, sau đó sẽ hướng dẫn ghép các chữ với nhau.
Dạy Tiểu học nói chung và đặc biệt là dạy lớp 1 rất cần phải rèn luyện
chữ viết, nhất là chữ viết bảng cần viết ít, đủ nhưng đúng và đẹp (chú ý cả về kĩ thuật viết
các nét chữ, kích thước, khoảng cách… và luật chính tả trong khi viết, trình
bày bảng và cả trong chấm chữa, ghi lời phê của cô giáo).
Giáo
viên chỉ giao việc 01 lần; câu lệnh hoặc kí hiệu phải rõ ràng, đảm bảo
100% học sinh nghe và hiểu. Khi giao việc và làm mẫu giáo viên phải đứng ở vị
trí thích hợp để tất cả học sinh đều nghe và quan sát được ( trung tâm trước bục
giảng). Khi giao việc xong giáo viên phải đi xuống lớp để kiểm soát việc
làm của tất cả học sinh, giúp đỡ, hướng dẫn học sinh; phải đảm bảo 100% học
sinh hoàn thành 1 việc mới giao việc khác. Nhận xét, đánh giá phải trên cơ sở động
viên, khích lệ học sinh để lấy việc phát huy ưu điểm mà khắc phục nhược điểm
qua 4 mức độ: làm được, làm đúng, làm đẹp, làm nhanh.
Phải thường xuyên có ý thức để ý theo dõi học
sinh để biết được các nhu cầu, nguyện vọng…ở giai đoạn đầu nhiều học sinh không
dám trình bày với bạn, với cô các nhu cầu cần sự giúp đỡ cho phép (cả về sức
khỏe và học tập).
2.1.6 Thực hiện tốt việc đánh giá học sinh theo Thông tư
22/2016/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú
trọng và nâng cao hiệu quả đánh giá thường xuyên, đánh giá trực tiếp để kịp thời
động viên, khuyến khích học sinh trong quá trình tham gia hoạt động học tập. Tôi luôn quan tâm
đến sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng
trong học tập, rèn luyện của các em, giúp các em phát huy nhiều nhất khả năng của
mình.
Tôi luôn động viên,
khích lệ học sinh bằng nhiều hình thức, tạo cơ hội để các em được chủ động tham
gia vào các hoạt động học. Bên cạnh đó thường xuyên kiểm
soát quá trình làm việc của học sinh.
Gần gũi những em hay mắc lỗi,
kịp thời hỗ trợ không để các em chán nản, mất hứng thú trong học tập.
Tự đánh giá là một
khâu rất quan trọng trong đánh đánh giá thường xuyên. Một tiết học
diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở
nên đơn điệu, không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời
bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; Nên trong quá trình dạy
học, tôi luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học
sinh. Tạo cơ hội cho các em có kĩ năng nghe - chia sẻ ý kiến - sửa sai giúp bạn
và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết
học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận
xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng
thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi,
trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách toàn diện. Thực hiện thường
xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực.
2.2.7. Xây dựng môi
trường học tập thân thiện
Phần
lớn học sinh ở vùng khó thường có đặc tính rụt rè, nhút nhát, các em thường ít
chủ động tham gia vào các hoạt động học tập. Sự rụt rè, nhút nhát ấy cũng do một
phần các em chưa có sự chuẩn bị cho một môi trường mới, nơi có bạn bè, thầy cô
và các hoạt động học tập đặc trưng.
Trong môi trường học tập thân thiện,
tích cực học sinh sẽ được phát huy năng lực học tập của mình ở trạng thái tốt
nhất. Do vậy, việc tạo một môi trường học tập thân thiện là rất cần thiết để
giúp các em mạnh dạn, tự tin, hứng thú tham gia các hoạt động học tập, yêu
thích đến lớp, đến trường.
Giáo viên cần nắm được hoàn cảnh gia
đình và đặc điểm tâm sinh lí của mỗi học sinh, mặt mạnh và mặt còn hạn chế của
các em, nên ghi nhận những thông tin ấy vào trong sổ tay riêng. Để biết được
tính cách học sinh, giáo viên có thể tìm hiểu thông qua trò chuyện với các em,
quan sát các em trong học tập và vui chơi,…giáo viên nên dành một ít thời gian
đến thăm gia đình những học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong lớp của mình. Có
hiểu học sinh thì người giáo viên mới có thể gần gũi và tạo niềm tin nơi các
em, giúp các em phát huy ưu điểm và khắc phục phần còn hạn chế.
Trong quá trình dạy học, giáo
viên cần quan tâm, hỗ trợ học sinh kịp thời. Gợi ý, hướng dẫn khi các em gặp
khó khăn, tuyên dương, khen thưởng khi các em thực hiện đúng yêu cầu; phải tạo
cơ hội cho tất cả các em đều được tham gia đầy đủ các hoạt động học tập, nhất
là với học sinh yếu.
Giáo viên phải hiểu và nắm vững thiết
kế, có như vậy mới có thể điều khiển, tổ chức các hoạt động dạy học linh hoạt
và nhẹ nhàng, giáo viên có thời gian để quan sát, giúp đỡ học sinh hoàn thành
nhiệm vụ học tập.
Giáo viên cần chú ý về giọng nói và
ngôn ngữ sử dụng khi đánh giá, nhận xét học sinh, phải thể hiện sự tôn trọng, động
viên và khuyến khích các em, tránh những lời lẽ chê bai, xúc phạm học sinh.
Ngoài ra, đối với học sinh có hoàn cảnh
khó khăn, sự quan tâm còn thể hiện ở việc hỗ trợ các em có đầy đủ dụng cụ học tập
cần thiết. Nguồn hỗ trợ được vận động từ các mạnh thường quân hoặc trích từ nguồn
xã hội hóa giáo dục của nhà trường.
Giúp học sinh nhận ra mỗi bạn
đều có mặt mạnh, mặt yếu, có thể bạn giỏi trong hoạt động này nhưng lại làm
chưa tốt trong học động khác. Vì thế, cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ. Giáo viên cần rèn được cho học sinh có sự chủ động trong việc giúp đỡ bạn,
ví dụ, khi phân tích tiếng hay luyện đọc, những bạn làm tốt sẽ hướng dẫn, làm mẫu
cho bạn làm chưa tốt.
Tổ chức đôi bạn cùng tiến, giúp học
sinh xây dựng mối quan hệ bạn bè trong học tập và vui chơi. Giáo viên nên bố
trí một học sinh khá giỏi cùng một học sinh
trung bình, yếu để em học sinh giỏi có thể hỗ trợ học sinh yếu trong học tập.
Cha
mẹ học sinh là một trong những lực lượng gián tiếp tác động đến chất lượng học
tập TV1 CGD. Cha mẹ cần quan tâm, nhắc nhở con em trong học tập. Không bắt các em nghỉ học phụ việc gia đình, cho
các em học trước chương trình hay dạy không đúng cách đều có tác động xấu đến
các em. Vì vậy, nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh cần tăng cường sự hợp
tác chặt chẽ với nhau.
Bởi
vậy, Ngay từ lần họp phụ huynh đầu năm học tôi đã chia sẻ, giải
thích về phương pháp dạy học mới, về điểm
ưu việt cái hay, cái khoa học của
Tiếng Việt 1 - CGD để phụ huynh học sinh hiểu và yên tâm về chương trình
nhằm tạo được sự
đồng thuận trong quá trình thực hiện. Tuyên truyền trong phụ huynh và
các lực lượng xã hội làm cho phụ huynh vững tin vào CGD, không nóng vội. Yêu
cầu phụ huynh tuyệt đối không tự
dạy đọc viết ở nhà khi không có sự kiểm soát hoặc yêu cầu của giáo viên.
Tôi đã tư vấn cho phụ huynh một số kĩ thuật dạy học Công nghệ giáo dục, cách
phát âm, cách đọc và cách hướng dẫn con em học tập ở nhà.
Ngoài ra, tôi đã mời phụ huynh vào dự giờ xem cách dạy của giáo
viên để biết được phương pháp dạy Tiếng Việt
1 - CGD và hiệu quả của chương trình này.
Phụ huynh tham gia dự giờ tiết học tiếng
Việt 1 CGD
2.3. Kết quả đạt được:
Từ quá trình thực hiện những giải pháp trên đã đem lại những
kết quả đáng khích lệ sau:
- Phụ huynh đồng thuận, nhất trí cao
về việc thực hiện chương trình TV1- CGD. Qua các tiết dự giờ phụ huynh đã hiểu
được tính ưu việt và hiệu quả cũng như phương pháp, kĩ thuật hướng dẫn con em.
- Bản thân tôi đã nắm được các kiến
thức ngữ âm, nội dung chương trình, phương pháp dạy học Công nghệ
giáo dục, giờ dạy
trở nên chủ động, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
- Nề nếp lớp ổn định ngay từ tuần đầu. Trong tiết học, các em
thực hiện các thao tác một cách thành thạo, nhuần nhuyễn đảm bảo cho việc dạy học
diễn ra thuận lợi, hiệu quả.
- Kĩ
năng đọc: Các em đọc to rõ ràng, lưu loát
hơn. Các em nắm chắc về ngữ âm; biết phân biệt cấu tạo của
tiếng.
- Kĩ năng viết: Các em nắm
chắc luật chính tả nên khi viết các em không bị sai chính tả. Tốc độ viết của
các em cũng đảm bảo nhanh hơn.
Kết
quả khảo sát cuối năm năm học 2017 – 2018 tại lớp 1 khi đã thực hiện chương
trình Tiếng Việt 1 CGD:
Số HS |
Điểm 10 |
Điểm
9 |
Điểm 8 |
Điểm 7 |
Điểm 6 |
Điểm 5 |
Dưới 5 |
24 |
3 |
9 |
6 |
4 |
1 |
1 |
0 |
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của
sáng kiến:
Như vậy, dạy Tiếng Việt 1 theo CGD là
một yêu cầu cấp thiết trong hoạt động giáo dục. Việc dạy tốt Tiếng Việt CGD là
góp phần thực hiện tốt công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục- Đào tạo.
Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD” đã chỉ ra được thực trạng về việc dạy TV1 CGD
và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học TV1 CGD. Đề tài này
giúp cho người đọc nói chung và những người trực tiếp giảng dạy TV1 CGD hiểu rõ
hơn về mục tiêu và nội dung của môn TV1 CGD và đưa ra được các giải pháp để họ
có thể tham khảo và vận dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình nhằm nâng cao hiệu
quả của việc giảng dạy. Góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục
đòi hỏi mỗi người giáo viên phải nghiên cứu kĩ các giải pháp và áp dụng thực hiện
tốt các giải pháp đó. Trước hết cần xác định rõ mục tiêu, nội dung dạy học TV1 CGD.
Xác định rõ mục tiêu sẽ là cơ sở để chúng ta thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra. Đồng
thời đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cự hóa hoạt động của học sinh.Giải pháp này không chỉ cho học sinh mà còn có giá trị như một giải
pháp đổi mới phương pháp giáo dục và phương pháp quản lý cho giáo viên. Với học
sinh, kết quả học tập không chỉ là Tiếng Việt, mà còn là phương pháp tư duy
ngôn ngữ và các quan hệ học tập hiện đại. Ngoài ra, để dạy học TV1 CGD có hiệu
quả chúng ta cần chú ý đến nhóm biện pháp hỗ trợ. Nếu thực hiện tốt nhóm hỗ trợ
xem như chúng ta đã thành công được một nửa trong dạy học TV1 CGD.
Mỗi biện pháp có ý nghĩa và chức
năng khác nhau nhưng giữa chúng có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.Vì thế,
cần phải thực hiện các biện pháp trên một cách đồng bộ. Đồng thời, để thực hiện
được các biện pháp này cần có sự chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp; sự nỗ
lực của bản thân giáo viên các trường tham gia dạy học TV1 CGD nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn học này.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Về phía Phòng Giáo dục
và Đào tạo tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và giáo viên dạy Công
nghệ giáo dục vào dịp bồi dưỡng hè, đảm bảo 100% giáo viên tham gia giảng dạy
và 100% các trường áp dụng có cán bộ quản lý và giáo viên được tập huấn phương
pháp dạy học Công nghệ giáo dục.
Về phía nhà trường: Tiếp tục thực hiện tốt việc bố trí giáo viên
giảng dạy lớp 1 là những giáo viên vừa có kiến thức, kinh nghiệm, vừa nhiệt
tình trong công việc. Bố trí phòng học cho lớp học công nghệ giáo dục là những
phòng có đủ: diện tích, bàn ghế, bảng chống
lóa, đảm bảo ánh sáng và các điều kiện để dạy công nghệ giáo dục.
Trên
đây là một số kinh nghiệm tôi vận dụng trong quá trình dạy học thực tế của lớp
mình. Trong quá trình thực hiện do những yếu tố khách quan và khả năng lí luận
có hạn, thời gian nghiên cứu còn eo hẹp. Vì thế sáng kiến sẽ không tránh khỏi
những sai sót nhất định. Rất mong sự đóng góp của Hội đồng khoa học để đề tài
được hoàn thiện hơn.