1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Sự nghiệp
giáo dục - đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con người, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: “Nguồn tài nguyên và sự giàu có của
một quốc gia không phải nằm trong lòng đất mà chính là nằm trong bản thân con
người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng
lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trò
quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng như xây dựng nền văn
hoá. Xác định tầm quan trọng đó tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới
lần này là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học,
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt
đời.
Để thực hiện mục tiêu đó, ngay từ cấp Tiểu
học cần phải có định hướng đúng đắn về phương pháp học tập cho các
em. Trong quá trình
lên lớp, giáo viên không chỉ cung cấp kiến thức mà hơn hết phải dạy cho các em
cách tự học để từng bước rèn kĩ năng tự học và giúp các em có
thể tự học suốt cả cuộc đời. Chính vì thế việc tổ chức dạy học
theo nhóm là hết sức cần thiết. Thông qua việc dạy học hợp tác theo nhóm giúp học sinh có cơ hội được
sử dụng kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm mà các em đã có. Đồng thời cho phép
học sinh diễn đạt những ý tưởng, những khám phá của mình; rèn luyện và phát
triển kĩ năng làm việc chung, kĩ năng giao tiếp; tăng cường tính tích cực trong
học tập và phát triển sự sáng tạo của học sinh.
Trong năm học 2017 - 2018, theo định hướng về việc đổi mới phương
pháp dạy học (PPDH), trường
tôi tiếp tục thực hiện dạy học theo mô hình
trường học mới VNEN. Tuy nhiên
trong quá trình áp dụng hình thức dạy học này, việc
tổ chức dạy học theo nhóm với một số giáo viên còn mang tính hình
thức nên đạt hiệu quả chưa cao. Vậy làm thế nào để tổ chức hoạt động
nhóm hiệu quả? Để trả lời câu hỏi này tôi mạnh dạn chọn đề tài "Một
số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm cho
học sinh lớp 2" với mong muốn chia sẻ chút thành công cho đồng
nghiệp. Tuy nhiên, với
phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ sẽ không tránh khỏi những ý kiến chủ
quan và những thiếu sót, rất mong được các bạn đồng nghiệp đóng góp, xây dựng,
bản thân sẽ nghiêm túc tiếp thu và nghiên cứu để đề tài được hoàn thiện hơn.
1.2 Điểm
mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Đã có nhiều người sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy
nhưng ở sáng kiến này có hai điểm mới sau:
-
Hướng học sinh đến hoạt động tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự tổ chức,
điều hành của nhóm trưởng và sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên.
- Bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ nhóm
trưởng.
2. NỘI DUNG:
2.1 Thực trạng trước khi viết sáng kiến:
2.1.1
Thực trạng của giáo viên:
Một số
giáo viên tổ chức hoạt động theo nhóm còn mang tính hình thức mà chưa chú trọng đến hiệu quả.
Khi
tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ, giáo viên chủ yếu hướng học sinh nhằm
vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà chưa chú trọng giáo dục
cho học sinh những kĩ năng xã hội quan trọng như kĩ năng hợp tác, kĩ năng
giao tiếp....
Giáo viên chưa
chú trọng đến việc bồi dưỡng các đối tượng học sinh có năng khiếu.
Cụ thể là trong một nhóm có nhiều trình độ nên các em có năng khiếu
làm xong nhiệm vụ rồi ngồi chơi mà giáo viên chưa chú ý để giao thêm
nhiệm vụ cho các em.
*Nguyên nhân của những tồn tại trên đó là:
Theo một số giáo viên thì học hợp tác nhóm là
xếp các em vào một nhóm để cùng giải quyết một câu hỏi khó mà một em học sinh
bình thường không thể giải quyết được. Hơn nữa PPDH
truyền thống đã ăn sâu vào mỗi giáo viên nên một số giáo viên chưa thực sự chú
tâm và hào hứng với cách thức tổ chức lớp học mới.
Nhiều giáo viên ngại sử dụng phương pháp này
vì đòi hỏi phải chuẩn bị công phu như phiếu học tập, đồ dùng học tập…; quản lí khó khi tổ chức
thực hiện trên lớp.
Việc chuẩn bị
mọi điều kiện cho tiết dạy của
một số giáo viên chưa chu đáo vì vậy không có những bài tập hoặc câu hỏi để dành cho những học sinh có
năng khiếu khi các em đã hoàn thành nhiệm vụ chung.
2.1.2 Thực trạng của học sinh:
Đa
số nhóm trưởng còn thiếu kỹ năng trong điều hành và quản lý hoạt động của nhóm.
Những kỹ năng và phương pháp
hoạt động theo nhóm của học sinh còn hạn chế. Các em chỉ biết nhận nhiệm vụ là hoàn thành bài tập
bằng cách làm việc nhóm mà chưa biết phải làm việc nhóm như thế nào để hoàn
thành bài tập một cách tốt nhất.
Một số học sinh còn rụt rè, nhút nhát
trong thảo luận nhóm; ngại giao tiếp với giáo viên và các bạn.
Một
số nhóm chưa có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng hoàn thành
nhiệm vụ học tập.
Mô hình học
nhóm suốt trong buổi học, tạo cho một bộ phận học sinh có cơ hội nói chuyện
riêng và ỷ lại vào người khác.
* Nguyên nhân của những tồn tại trên đó là:
Học sinh lớp 2 mới bước đầu tiếp cận với mô hình trường học mới và
phương pháp học tập theo nhóm nên việc tổ chức các hoạt động của lớp học còn
hạn chế.
Các nhóm trưởng chưa được tập huấn thường xuyên
nên chưa có kĩ năng điều hành hoạt động
của nhóm. Nhóm trưởng chưa thực sự phát huy được vai trò của mình.
Chưa thật sự có sự gắn kết, hỗ trợ giữa các thành viên trong một nhóm. Không khí làm việc
trong nhóm chưa thân thiện, cởi mở, ít tạo cơ hội cho các thành viên phát huy
năng lực, khiến các thành viên không muốn tham gia hoặc tham gia một cách rất
hình thức.
Học sinh vùng nông thôn giao tiếp
còn nhiều hạn chế nên các em thường nhút nhát, thiếu tự tin.
Một số học sinh còn có tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm.
Giáo viên thỉnh thoảng thiếu bao quát tất cả
các nhóm; lớp học có số học sinh đông ( 29 em), trình độ nhận thức không đồng
đều nên dẫn đến các em có thời gian trống để nói chuyện riêng.
Từ
thực tế trên, vấn đề đặt ra là phải làm sao để chính các em cảm thấy hứng thú
với việc học để từ đó, hướng các em đến sự đam mê học tập, có ý thức tự học và
đạt kết quả cao trong học tập. Tôi luôn trăn trở làm thế nào để tìm ra một số giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm cho học sinh lớp 2. Tôi tự hứa
với lòng mình phải cố gắng thật nhiều trong công tác giảng dạy và phải đặc biệt
quan tâm, gần gũi hơn với tất cả học sinh trong lớp.
2.2 Một số biện
pháp nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm cho học sinh
lớp 2:
2.2.1 Nhận thức đúng tầm quan trọng của việc dạy học theo nhóm:
Sự
thành công của việc giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào PPDH được giáo viên lựa
chọn. Cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào phương pháp sử dụng thì sẽ có những
kết quả khác nhau. Trong dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, PPDH theo
nhóm phát huy được tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học.
Chính vì vậy mà giáo viên và học sinh phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng
của việc học theo nhóm.
Phương
pháp học tập theo nhóm có rất nhiều ích lợi nhưng sau đây là một số ích lợi cơ
bản:
Thứ nhất: Hoạt động nhóm giúp học
sinh tích cực và tham gia học tập nhiều hơn.
Thứ hai: Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được
phát triển.
Thứ ba: Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời và
chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ
năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau.
Thứ tư: Thông qua hoạt động nhóm, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng
học sinh theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin
trong quá trình giao tiếp.
Dựa trên việc xác định đúng đắn những lợi ích mà phương pháp học tập theo
nhóm mang lại thì điều quan trọng nhất là giáo viên có thể chuyển hóa những lí
thuyết trên thành các hoạt động cụ thể, có tính thường xuyên để góp phần nâng
cao chất lượng dạy học.
2.2.2 Phân biệt sự khác nhau giữa cách tổ chức
dạy học theo nhóm truyền thống và cách tổ chức hoạt động nhóm theo
mô hình trường
học mới VNEN:
Trên thực
tế không phải khi áp dụng mô hình trường học mới VNEN mới tổ chức dạy học theo nhóm mà từ
trước đến nay trong quá trình dạy học đã tổ chức học sinh hoạt động
theo nhóm. Tuy nhiên việc tổ chức hoạt động nhóm theo mô hình trường học mới VNEN có sự khác
biệt rõ rệt. Cụ thể:
Tổ chức dạy học theo nhóm truyền thống |
Tổ chức hoạt động nhóm theo mô hình trường học mới VNEN |
Chỉ tổ chức hoạt động theo nhóm khi có
những nội dung khó cần phải tập trung trí tuệ của cả nhóm, hoặc
khi giáo viên đưa ra một vấn đề có
nhiều cách trả lời khác nhau. |
Tổ chức học sinh hoạt động theo nhóm xuyên
suốt cả quá trình học tập. |
Nhóm trưởng nêu vấn đề, các thành viên
trong nhóm suy nghĩ rồi mỗi thành viên trả lời một ý kiến, thư kí
tập hợp các
ý kiến thảo luận rồi từng nhóm lần lượt trình bày kết quả thảo
luận trước lớp. |
Nhóm trưởng nêu vấn đề hoặc giao nhiệm vụ,
cá nhân suy nghĩ và tự hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau đó nhóm
trưởng yêu cầu các thành viên trong nhóm trình bày kết quả làm
việc của mình, các thành viên khác bổ sung để hoàn thiện kiến
thức. Như vậy dù học theo nhóm nhưng học cá nhân vẫn là chủ yếu,
nhóm chỉ giúp cá nhân hoàn thiện kiến thức. Giáo viên theo dõi,
kiểm tra việc hoàn thành nhiệm vụ của nhóm để trợ giúp khi học
sinh gặp khó khăn. |
Nhóm trưởng cố định |
Nhóm trưởng có sự luân phiên |
Giáo viên chốt kiến thức sau khi các nhóm
trình bày. |
Các thành viên trong nhóm tương tác với nhau
để hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ tổ chức hoạt động theo lớp khi giáo
viên quan sát thấy các nhóm đều sai những lỗi giống nhau hoặc đều
lúng túng trước nhiệm vụ nào đó. |
Giáo viên thiết kế phiếu học tập cho những
nội dung cần thảo luận. |
Giáo viên chủ yếu thiết kế phiếu chỉ dẫn
học tập cho những bài
có sự điều chỉnh. |
2.2.3 Giáo viên và
học sinh làm tốt công tác chuẩn bị:
Hiện nay, theo mô hình trường học mới, vai trò
của giáo viên đã được thay đổi thực sự. Giáo viên không còn là người truyền
thụ, giảng giải mà chuyển sang là người hướng dẫn, trợ giúp học sinh khi cần
thiết. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là vai trò quan trọng của người thầy
bị giảm sút, mà ngược lại vai trò của giáo viên thực sự “nặng nề” hơn rất
nhiều. Xác định được điều đó tôi dành nhiều thời gian để tìm hiểu hoàn
cảnh, đặc điểm, tâm lí, trình độ của các em học sinh trong lớp; nghiên cứu,
điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học; xác định mục tiêu, yêu cầu cần đạt trong
từng hoạt động, từng bài để từ đó xây dựng kế hoạch bài học hợp lí. Trước khi
lên lớp, tôi chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm tư liệu như tranh, ảnh, vật thực giúp
học sinh gắn kiến thức với thực tiễn.
VD : Bài 29 C: CÂY CÓ NHỮNG BỘ PHẬN NÀO? (Tiết 3)
- Sách Hướng
dẫn học Tiếng Việt lớp 2 - tập 2B, trang 26.
Sau khi
nghiên cứu kĩ tài liệu tôi có một số điều chỉnh. Cụ thể như sau:
* Mục tiêu:
Ngoài 2 mục
tiêu như ở trong SGK ( Nghe - kể lại câu chuyện; mở rộng vốn từ về các bộ phận
của cây) tôi đã bổ sung thêm mục tiêu thứ ba: Giáo dục các em biết yêu quý và
bảo vệ các loài hoa.
* HĐ 3: Bổ
sung thêm yêu cầu:
Kể câu chuyện “ Sự tích hoa dạ lan hương”.
Câu hỏi: Câu chuyện “Sự tích hoa dạ lan hương”
nói lên điều gì?
Tôi chuẩn bị
phiếu chỉ dẫn học tập cụ thể. Đồng thời sưu tầm tranh, ảnh về hoa dạ lan hương
để học sinh dễ dàng quan sát; chuẩn bị băng hình để cho học sinh nghe mẫu câu
chuyện.
Học sinh: cần chuẩn bị
đầy đủ phương tiện học tập như sách, vở, bút mực, thước kẻ,
bút dạ và các đồ dùng khác phục vụ cho việc thảo luận nội dung học tập như: sưu
tầm tranh ảnh, vật thực, giấy A0…
Tùy
theo nội dung, yêu cầu của từng bài học để giáo viên nhắc nhở học sinh chuẩn bị
cho phù hợp.
* Bài
28 C: BẠN THÍCH CÂY GÌ? (Tiết 3)
- Sách Hướng
dẫn học Tiếng Việt lớp 2 - tập 2B, trang 12.
HĐ 6: (
HĐ thực hành)
Viết
một đoạn văn về loại quả em thích theo gợi ý sau:
- Đó là
quả gì?
- Màu
sắc, hình dáng như thế nào?
- Quả
có mùi vị gì?
Để học
sinh có thể viết được một đoạn văn hay thì giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn
bị tranh, ảnh hoặc các quả thật. Từ việc quan sát và biết được đặc điểm của mỗi
loài quả các em có thể viết đoạn văn dễ hơn.
2.2.4 Chia nhóm và tổ chức quản lí hoạt động nhóm
hiệu quả:
a. Chia nhóm:
Có nhiều cách chia nhóm. Tùy theo bài học hoặc tùy
theo đặc điểm của lớp, ta có thể chia nhóm theo các cách sau đây:
* Cho HS tự
chọn nhóm:
Đây là hoạt động mà học sinh rất hứng thú. Các nhóm nhỏ (4 - 6 học sinh) được hình thành dựa theo sở thích, thói quen của nhau. Học sinh tự
hình thành nhóm trên cơ sở nguyện vọng.
* Chia nhóm một cách ngẫu nhiên:
Đây là dạng tổ chức nhóm ngẫu nhiên, một hình thức chia nhóm công bằng
cho tất cả HS.
Cách làm như sau:
Người quản trò
hô“ đoàn kết - đoàn
kết”; Học
sinh đáp “ kết mấy - kết mấy” kết thành vòng tròn, từ đó ta chia nhóm tiếp.
Lớp tôi có 28 học sinh, tôi muốn chia lớp thành 7 nhóm thì ta hô
“ đoàn kết đoàn kết” “ kết mấy kết mấy” : “ kết 4 - kết 4” …
* Giáo viên là người
chọn nhóm:
- Nhóm khả năng đa dạng: Giáo viên sẽ phân chia để trong nhóm có cả học
sinh khá lẫn học sinh yếu nhằm hỗ trợ lẫn nhau.
- Nhóm học sinh theo đối tượng: Cách phân chia nhóm như thế này
được áp dụng trong các tiết ôn luyện buổi chiều. Bằng cách này giúp
giáo viên dạy sát đối tượng hơn.
Trong
nhóm, các em tham gia thực hiện các nhiệm vụ học tập một cách cộng hưởng và bổ
trợ cho nhau. Bởi vậy, trong một năm học sẽ có nhiều lần chia nhóm thì lần đầu
tiên chia nhóm trong năm học là do tôi chủ động chia, các lần sau mới vận dụng
cách chia ngẫu nhiên hay cho học sinh tự chọn nhóm…
Lí
do: Tôi muốn ngay đầu năm nhóm học tập có đủ các đối tượng học sinh để
nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm làm quen, xử lí các tình huống liên
quan đến mọi đối tượng học sinh có thể xảy ra trong quá trình học tập.
Sau khi học sinh được tập huấn và làm
quen với nhóm có đủ mọi đối tượng học sinh thì những lần sau dù giáo viên chia
nhóm theo hình thức nào học sinh cũng không có gì khó khăn, bỡ ngỡ.
b. Tổ
chức quản lí hoạt động nhóm:
* Phân công vị trí cá nhân và công việc của từng
thành viên trong nhóm.
Việc xếp chỗ ngồi cũng là vấn đề
mà tôi phải cân nhắc, làm sao để lựa chọn bạn ngồi chung bàn không gây mất trật
tự, hỗ trợ nhau trong việc học và làm việc theo nhóm thuận tiện, xếp chỗ dàn
đều số học sinh nổi trội, học sinh hạn chế giữa các nhóm để tạo sự cân bằng
trong thi đua và cùng nhau phấn đấu tốt hơn.
Tôi thường xuyên thay đổi chỗ ngồi nếu thấy tình hình thực tế chưa hợp
lí. Những em
chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi lên bàn đầu, đồng thời giao nhiệm vụ cho em
nổi trội kèm cặp, hỗ trợ bạn học tập qua từng tiết học, bài học và trong mọi
hoạt động. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo dõi hướng dẫn học sinh học
tập và theo dõi kết quả học tập của các em qua từng bài học. Đặc biệt, cần chú
ý phát triển tư duy, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng học sinh nổi trội, học sinh
có năng lực đặt biệt.
VD : Sơ đồ lớp học 22
Bàn GV:
Cá Vàng Họa Mi Sóc Nâu
Gấu Trúc Vịt Con Nai Con
Thỏ Trắng
Trong mỗi nhóm tôi xây dựng phong trào “Đôi bạn cùng tiến”… Đôi bạn ấy
phải tâm đầu ý hợp, biết yêu thương, giúp đỡ nhau, tạo điều kiện phát huy vai
trò tự quản của học sinh và các em thấy được sự quan tâm của cô giáo với các
em.
Tôi phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong nhóm. Cụ thể như
sau:
Nhóm trưởng:
Quản lí, chỉ đạo, điều khiển các thành viên trong nhóm hoạt động.
Thư kí: Ghi
chép kết quả công việc của nhóm sau khi được sự đồng tình của cả nhóm.
Báo cáo viên
trình bày trước lớp kết quả thảo luận của cả nhóm.
Các thành
viên khác có nhiệm vụ tham gia tích cực, đóng góp ý kiến vào hoạt động của
nhóm.
* Các cách thức làm việc
trong nhóm:
Chấp hành sự chỉ đạo của nhóm trưởng.
Làm việc cá nhân.
Báo cáo kết quả học tập trước nhóm.
Nhận xét kết quả, bài làm của bạn.
Chủ động tìm trợ giúp khi gặp khó khăn.
Sẵn sàng chia sẻ với bạn khi cần thiết.
Tôn trọng và lắng nghe người khác.
Giáo viên cần giúp học sinh thấy được: mỗi thành
viên đều phải cố gắng hết sức mình không phải vì thành tích cá nhân, mà thành
công của từng người tạo nên
niềm vui của cả nhóm. Các em gắn kết với nhau theo phương thức mỗi người cũng
như toàn nhóm không thể thành công nếu mỗi người không cố gắng hoàn thành trách
nhiệm của mình.
2.2.5
Tập huấn, bồi dưỡng kĩ năng điều hành, quản lí cho các nhóm trưởng:
*
Định hướng và lựa chọn nhóm trưởng:
Để
hoạt động nhóm đạt kết quả cao thì vai trò của người nhóm trưởng là rất quan
trọng. Nhóm trưởng như là “người giáo viên nhỏ” để điều hành hoạt động nhóm.
Trong các tiết học, nhóm trưởng sẽ thay giáo viên điều hành các hoạt động
nhóm; xác định mục tiêu của hoạt động nhóm; phân công nhiệm vụ cho các thành
viên trong nhóm; quan sát, hướng dẫn các bạn đánh giá bài học; báo cáo kết quả
học tập… Nhóm trưởng huy động sự tham gia ý kiến của mọi thành viên để giải quyết nhiệm vụ nhóm. Đồng thời hướng
dẫn các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết một số khó khăn khi gặp
phải; biết tổ chức, quản lí công việc…
Một trong những ưu điểm lớn nhất của phương
pháp học nhóm là tất cả học sinh trong nhóm đều luân phiên nhau làm nhóm
trưởng, hướng dẫn, điều hành các bạn trong nhóm hoạt động. Để có thể chọn lựa
các nhóm trưởng làm việc có hiệu quả tôi đã
tìm hiểu kĩ về từng học sinh của lớp mình (năng lực, hạn chế..) và coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu
năm học. Tùy theo giai đoạn của quá trình học tập mà
tôi có thể chỉ định học sinh làm nhóm trưởng hoặc tổ chức cho học sinh bình bầu một cách khách quan và dân chủ nhất. Trong quá
trình bình bầu, giáo viên cần nêu ra các tiêu chí cụ thể để học sinh dựa vào đó
tiến hành chính xác nhất. Đồng thời, học sinh cũng sẽ lấy những tiêu chí đó làm
hướng phấn đấu
trong quá trình học tập để trở thành nhóm
trưởng.
Đối với từng môn học, từng thời điểm
và năng lực của học sinh mà giáo viên cần lựa chọn các thành viên làm nhóm trưởng cho phù hợp. Giáo viên
nên hạn chế việc để một học sinh đảm nhận vai trò
nhóm trưởng xuyên
suốt một năm học, hoặc làm nhóm trưởng tất cả các môn học trong chương trình. Có thể một học sinh học chưa học
tốt môn Toán,
nhưng em lại vẽ rất đẹp thì tôi để học sinh đó
làm nhóm trưởng HĐGD Mỹ thuật, từ đó có cơ sở khuyến khích các em phấn đấu ngày càng nhiều hơn
để hoàn thiện bản thân mình
* Tập huấn, bồi dưỡng kĩ năng điều hành, quản lí cho
các nhóm trưởng.
Sau
khi đã bầu được nhóm trưởng, tôi hướng dẫn để các
nhóm trưởng như em Trần Lê Như
Nguyệt, Võ Thị Thu, Nguyễn Đức Quân
…biết cách điều hành nhóm, hiểu các bước của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi
thành viên trong nhóm đều tích cực, tự giác thực hiện các hoạt động học. Các học
sinh yếu cần được quan tâm nhiều hơn để theo kịp nhóm; những học sinh học yếu,
nhút nhát chưa nên bầu làm nhóm trưởng.
VD: Trong tổ
chức hoạt động nhóm, tôi hướng dẫn học sinh phải tuân thủ theo 5 bước hoạt động
nhóm, đó là:
B1: Cá nhân
đọc yêu cầu bài
B2: Nhóm
trưởng kiểm tra các thành viên trong nhóm đã nắm được yêu cầu bài chưa? (chỉ
khi nào tất cả thành viên trong nhóm nắm được yêu cầu bài mới chuyển sang bước
tiếp theo);
B3: Hoạt
động cá nhân; hoạt động nhóm
B4: Nhóm
trưởng tổ chức cho nhóm kiểm tra, thống nhất kết quả.
B5: Báo cáo
kết quả hoạt động với giáo viên.
Tôi đã bồi dưỡng năng lực điều hành cho
các nhóm trưởng bằng
các cách sau:
- Cách 1: Vào đầu buổi hoặc giờ ra chơi, tôi thường
mời các nhóm trưởng ngồi lại tạo thành một vòng và hướng dẫn các em từng bước
một.
VD: Bài 1. ÔN TẬP CÁC SỐ ĐẾN 100 ( HDH Toán
tập 1A – trang 3 )
Sau khi học sinh ghi xong tên bài học, nhóm
trưởng điều khiển các bạn đọc cá nhân mục tiêu. Nhóm trưởng nói to, đủ cho cả
nhóm nghe: “ Mời các bạn đọc mục tiêu”. Nhóm trưởng mời bạn A chia sẻ mục tiêu,
nhận xét; có thể mời bạn B nhắc lại. Sau đó đưa thẻ tín hiệu báo hoàn thành.
- Cách 2: Đối với các nhóm còn hạn chế, nhóm trưởng
còn lúng túng trong việc điều hành hoạt động nhóm thì tôi làm mẫu. Từ đó học sinh
dễ dàng quan sát và thực hiện.
- Cách 3: Tôi cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một
hoạt động nào đó và các nhóm còn lại chú ý để học tập theo. Tôi động viên,
tuyên dương kịp thời các nhóm làm tốt.
VD: Bài 19 A. CHUYỆN BỐN MÙA ( HDH Tiếng Việt
- 2A - trang 3 )
HĐ 5 : Đọc theo nhóm
- Việc 1: Nhóm trưởng yêu cầu các bạn đọc cá nhân
bài văn “ Chuyện bốn mùa”
- Việc 2: Phân công nhiệm vụ đọc nối tiếp đoạn: Mỗi
bạn đọc một đoạn, nối tiếp nhau đến hết bài. Bạn A đọc “từ đầu đến được nghỉ
hè”. Bạn B đọc “tiếp theo đến sao lại có người không thích em được?” Bạn C đọc
đoạn còn lại.
- Việc 3: Nhóm trưởng tổ chức cho các bạn chia sẻ,
nhận xét. Sau đó, đưa thẻ tín hiệu báo hoàn thành.
- Cách 4: Tôi chọn ra một số
học sinh có năng lực, nhanh nhẹn và nhiệt tình trong học tập xếp các em vào một
nhóm ngay từ những tuần đầu của năm học để huấn luyện, bồi dưỡng. Khi các em
biết việc tôi chia các em này đến làm nhóm trưởng ở các nhóm.
2.2.6. Cách hướng dẫn các nhóm trong lớp tương tác lẫn nhau và trình bày, đánh giá kết quả:
* Cách hướng dẫn các nhóm trong lớp tương tác lẫn nhau
Trong một lớp học bao giờ cũng có các
đối tượng học tập ở các mức độ khác nhau. Dạy học theo mô hình trường học mới đòi hỏi phát huy được năng lực của từng học sinh, cá thể hóa
các đối tượng học sinh. Vì vậy, tôi cũng luôn quan tâm đến tiến độ học tập của
các nhóm và tổ chức cho các nhóm tương tác lẫn nhau.
Để việc tương tác giữa các nhóm đạt
hiệu quả tôi đã làm như sau:
Nhóm nào có tiến độ học tập tốt, hoàn
thành nhiệm vụ trước, tôi đến kiểm tra kết quả.
Chỉ dẫn cho các thành viên của nhóm đó
đến tương tác với các nhóm còn lại. Mục đích xem các nhóm đó có vướng mắc gì
không để hỗ trợ hoặc đối chiếu kết quả của mình với nhóm bạn để giúp nhóm bạn
sửa sai nếu có.
Đặt ra một số câu hỏi xoay quanh nội dung
của hoạt động đang tương tác để giao lưu, trao đổi.
Sau khi tương tác với nhóm bạn phải báo cáo lại
với giáo viên.
* Cách hướng dẫn
nhóm trình bày,
đánh giá kết quả
Sau khi hết thời gian thảo luận, dưới sự hướng dẫn của giáo viên
các nhóm tiến hành trình bày, chia sẻ kết quả
trước lớp. Chia
sẻ trước lớp cũng là một hình thức tự học sinh
trao đổi lại nội dung học tập một lần nữa nhằm mục đích khái quát lại kiến
thức, củng cố khắc sâu. Thông qua hoạt động trình bày, chia sẻ toàn lớp
của học sinh mà tôi nhận định các em nắm kiến thức, kĩ năng ở mức độ nào để
chia sẻ tiếp.
Để việc chia sẻ trước lớp của học sinh
đạt hiệu quả tôi thường hướng dẫn học sinh chủ trì việc chia sẻ thực hiện như sau:
Yêu cầu một bạn nêu lại kết quả hoặc
cách làm của hoạt động học tập.
Đặt các câu hỏi phỏng vấn bạn như: Vì
sao bạn làm như
vậy? Bạn đã làm thế nào để tìm ra, tính ra…? Hoặc dựa vào đâu bạn
khẳng định như vậy? Hoạt động này bạn rút ra điều gì? Tiết học này giúp bạn
hiểu thêm điều gì?
Yêu cầu các bạn trong lớp nhận xét, bổ
sung.
Học sinh chủ trì đó chốt lại theo ý
hiểu của bản thân và các bạn trong lớp.
Xin ý kiến, giáo viên nhận xét bổ
sung.
Giáo viên cần khen ngợi những học sinh
biết lắng nghe và đưa ra những câu hỏi thắc mắc phù hợp.
2.2.7. Rèn các kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong
quá trình hoạt động nhóm:
a. Kỹ năng giao tiếp, tương
tác giữa trẻ với trẻ.
+ Biết lắng nghe và trình bày ý kiến một cách rõ ràng.
+ Biết lắng nghe và biết thừa nhận ý kiến của người khác.
+ Biết ngắt lời một
cách hợp lí.
+ Biết phản đối một cách lịch sự và đáp lại lời phản đối.
+ Biết thuyết phục người khác và đáp lại sự thuyết phục.
b. Kỹ
năng tạo môi trường hợp tác.
Đây là sự ảnh
hưởng qua lại, sự gắn kết giữa các thành viên.
c. Kỹ
năng xây dựng niềm tin.
Đây là kỹ năng
tránh đi sự mặc cảm nhất là đối tượng học sinh có khó khăn về học tập.
d. Kỹ
năng giải quyết mâu thuẫn.
Đây là kỹ năng giúp học sinh tránh những từ ngữ
dễ gây mất lòng nhau .Vì thế, trong thảo luận cần tránh những từ ngữ như đúng,
sai mà cần thay vào đó những cụm từ như: thế này sẽ tốt hơn, tìm một giải pháp
hợp lý hơn…
2.2.8 Nâng cao vai trò của giáo viên trong dạy học theo nhóm:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Quả thật người thầy có vai trò rất quan trọng không
những trong việc truyền thụ kiến thức mà còn giúp các em hình thành nhân cách,
cách sống, cách đối nhân xử thế, cách làm người. Hiện nay, theo mô hình trường
học mới, vai trò của giáo viên đã được thay đổi thực sự. Giáo viên không còn
là người truyền thụ, giảng giải mà chuyển sang là người hướng dẫn, trợ giúp học
sinh khi cần thiết. Ở mô hình trường học mới này, giáo viên phải biết khuyến
khích mọi cố gắng , nỗ lực và những tiến
bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để các em tự trải nghiệm, khám phá tri thức, để
những em vốn rụt rè, nhút nhát dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn.
* Giáo viên
tăng
cường việc sử
dụng, phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ thuật dạy học để phát huy tính
tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy học với các tình huống thực
tiễn. Trao đổi với đồng nghiệp, chuyên môn để tùy theo từng môn, từng bài, từng lớp, tuỳ theo
từng hoạt động để vận dụng phương pháp dạy học nào, kỹ thuật dạy học nào cho
phù hợp đặc biệt gắn bài học với thực tế cuộc sống để học sinh nhớ lâu, không
bị gò ép.
* Sử dụng
tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp, khắc phục dạy học theo
lối đọc, chép:
Khi thực hiện dạy học theo mô hình VNEN việc
sử dụng tài liệu hướng dẫn học làm phương tiện dạy học là hết sức cần thiết.
Giáo viên chú trọng khai thác đầy đủ nội dung tài liệu hướng dẫn học và cập
nhật thêm kiến thức các nội dung tích hợp như giáo dục môi trường, giáo dục môi
trường biển đảo, giáo dục kỹ năng sống...
Tôi thiết kế câu hỏi,
bài tập, nhiệm vụ học tập đa dạng, đòi hỏi phát triển tư duy học sinh và tổ chức
thực hiện cho phù hợp. Không nhất thiết phải thực hiện máy móc theo những quy định,
quy trình; chủ động về thời gian và tiến độ hoàn thành bài học trong chương
trình. Vận dụng linh
hoạt các hình thức tổ chức phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng học sinh,
đánh giá hiệu quả đạt được sau mỗi tiết dạy để có biện pháp cụ thể khắc phục
những tồn tại ở tiết học sau.
VD: * Bài 24 C: VOI NHÀ (HDH Tiếng Việt - 2A - trang 83 )
Để
tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái trước khi vào học, Trưởng ban văn nghệ
tổ chức cho lớp hát và vận động theo lời bài hát “ Chú voi con ở bản Đôn”. Sau
khi hát xong bạn Trưởng ban văn nghệ hỏi: Bài hát “ Chú voi con ở bản Đôn” vừa
nhắc đến con vật nào? Các bạn trong lớp trả lời.
Giáo
viên liên kết với bài học: Bài hát “ Chú voi con ở bản Đôn” của nhạc sĩ Phạm
Tuyên nhắc đến chú voi con thật ngộ nghĩnh, đáng yêu. Bài hát cũng phần nào nói
đến chủ điểm mà chúng ta sẽ học hôm nay: “ Voi nhà”.
* Bài 31 A: BÁC ĐỂ
LẠI MUÔN VÀN TÌNH THƯƠNG YÊU ( Tiết 2)
(HDH Tiếng Việt lớp 2 -
2B - trang 48 )
HĐ 1: Tìm những từ ngữ ca ngợi Bác Hồ
Tôi đã tổ chức cho các nhóm thi tìm
những từ ngữ ca ngợi Bác Hồ vào bảng nhóm. Trong thời gian 5 phút nhóm nào tìm
được nhiều từ đúng thì nhóm đó thắng cuộc. Qua thực tế giảng dạy ở lớp, tôi
thấy học sinh rất thích thú, hào hứng với cách học này tiêu biểu có nhóm Vịt
Con, Thỏ Trắng, Sóc Nâu.
Trong
các tiết học, tôi hướng dẫn học sinh làm
việc với tài liệu HDH qua hình thức hoạt động nhóm có sự hỗ trợ của đồ dùng học
tập. Khi tổ chức, hướng dẫn tôi chọn vị trí đứng thích hợp quan sát tốt các
tình huống xảy ra để phát hiện và giúp đỡ kịp thời cho cá nhân, nhóm học sinh
nếu các em có tín hiệu yêu cầu hoặc khi các em đã hoàn thành yêu cầu bài học. Nếu thấy học sinh, nhóm nào còn lúng túng tôi hỗ trợ kịp thời bằng
các hình thức khác nhau như đặt câu hỏi gợi mở.
VD: Bài
21A: CHIM SƠN CA VÀ BÔNG CÚC TRẮNG ( Tiết 2)
(HDH Tiếng
Việt - 2A - trang 32)
HĐ thực hành:
HĐ 1: Thảo luận để trả lời câu hỏi:
Câu 1: Trước khi bỏ vào lồng, chim và hoa sống thế
nào?
Nếu quan sát thấy cá nhân học sinh lúng túng thì tôi
yêu cầu các bạn khác trong nhóm hỗ trợ. Trường hợp các bạn trong nhóm khó khăn
trong việc trả lời tôi sẽ đặt ra một số câu hỏi để gợi mở và hỏi thêm một số
câu hỏi để củng cố kiến thức cơ bản.
1.
Chim sơn ca nói về bông cúc như thế
nào? ( Chim sơn ca nói: Cúc ơi! Cúc mới xinh xắn làm sao!)
2.
Khi được sơn ca khen ngợi cúc cảm
thấy thế nào? ( Cúc cảm thấy sung sướng khôn tả).
3.
Tác giả đã dùng từ ngữ nào để miêu tả tiếng hót của
sơn ca ? ( Chim sơn ca hót véo von)
Từ các câu hỏi gợi ý trên học
sinh tìm được câu trả lời cho câu hỏi 1.
*
Tôi tổ chức đánh giá
học sinh trong quá trình dạy học theo nguyên tắc đánh giá đa chiều (Học sinh
tự đánh giá, học sinh đánh giá lẫn nhau, kết hợp đánh giá của giáo viên, cha
mẹ học sinh...); đánh giá sự tiến bộ của học sinh.Tôi
luôn cố gắng đưa ra những đánh giá công tâm giúp học sinh tiến bộ,
khuyến khích học sinh năng khiếu, biết được sự phát triển, mức độ tiến bộ của
mỗi học sinh so với chính các em. Khi các nhóm thực hiện tốt tôi luôn động viên
kịp thời bằng nhiều hình thức khác nhau
như khen bằng lời, vỗ tay động viên hay khuyến khích cộng thêm điểm tốt ở bảng
thi đua.
* Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin
trong các bài học, khai thác tối đa thiết bị dạy học.
Ứng dụng công nghệ
thông tin giúp cho tiết dạy thêm sôi động, thu hút sự tập trung của học sinh.
Giáo viên thật sự phải có kiến thức về ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng
thành thạo máy, nếu không sẽ phản tác dụng khi thực hiện.
2.2.9 Phối hợp với nhà trường, gia đình trong công tác giáo dục học sinh:
* Phối hợp với nhà trường.
Kết thúc mỗi năm học ngoài việc đề
nghị khen thưởng những học sinh có thành tích xuất sắc trong quá trình học tập,
tôi còn chú trọng việc khen thưởng những học sinh có năng lực vượt trội như: Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, năng lực điều hành nhóm tốt,...
Tăng cường tổ chức các buổi giao lưu,
ngoại khóa như: kể chuyện, ngâm thơ, múa,...nhằm giúp các em được trải nghiệm để mạnh dạn hơn,
tự tin hơn. Đồng thời tuyên dương, động viên kịp thời làm động lực để các em cố gắng hơn.
* Phối hợp với phụ huynh.
Vào đầu năm học, thông qua buổi họp
phụ huynh tôi thường trò chuyện và tìm hiểu về hoàn cảnh, tính cách của các em
học sinh để có biện pháp giáo dục hợp lý. Đề nghị phụ huynh thường xuyên trò
chuyện, nhắc nhở việc học bài ở nhà và chuẩn bị bài trước khi đến lớp của con em mình.
Các cuộc họp phụ huynh ở giữa hay cuối
mỗi học kỳ tôi thường nêu gương những học sinh có biểu hiện năng lực học nhóm tốt, động viên
những em có tiến bộ. Phối hợp cùng gia đình để
nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình học nhóm nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Kết quả:
Trước khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm |
Sau khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm |
Học sinh chưa có
thói quen thảo luận nhóm; kĩ năng và phương pháp hoạt động theo nhóm còn hạn
chế. |
Đã hình thành cho
học sinh thói quen thảo luận nhóm; kĩ năng và và phương pháp học tập theo
nhóm thành thạo. |
Nhóm trưởng còn thiếu kĩ năng trong điều
hành và quản lý hoạt động nhóm. |
Kĩ năng điều hành và quản lý hoạt động nhóm
của các nhóm trưởng thành thạo. |
Học sinh còn rụt rè, nhút nhát trong thảo
luận nhóm. |
Học sinh mạnh dạn, tự tin chia sẻ ý kiến của
mình. |
Chưa có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ
học tập. |
Biết hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành
nhiệm vụ học tập. |
Ý thức tự giác, tự quản trong mỗi nhóm chưa cao. |
Các thành viên trong nhóm đã có ý thức tự
giác, tự quản tốt. |
Đến cuối học kì II, chất lượng lớp 22 đã có sự
vượt trội. Cụ thể:
+ Hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện: 13em.
+ Có thành tích học tập trong môn Toán:
04 em
+ Có thành tích học tập trong môn Tiếng Việt: 01 em.
+ Có tiến bộ vượt bậc trong
giao tiếp: 01 em.
Đây là một kết quả đáng khích lệ cho cả cô và
trò, là động lực để bản thân tôi cố gắng hơn trong công tác giảng dạy của
mình.
3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng
kiến kinh nghiệm:
Dạy học theo nhóm không chỉ chú trọng đến việc
học sinh nắm được kiến thức của bài học mà phải quan tâm đến việc rèn kĩ năng
giao tiếp, kĩ năng sống... cho học sinh. Ý thức được điều này, bản thân tôi
luôn không ngừng học hỏi phương pháp giảng dạy, cách thức tổ chức lớp học theo
mô hình trường học mới để đào tạo ra những “giáo viên nhỏ” trợ giúp mình trong
công tác điều hành hoạt động nhóm.
Từ việc áp dụng những kinh nghiệm về tổ
chức hoạt động nhóm trong dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi phát huy được
tính tích cực, chủ động; các em mạnh dạn tham gia ý
kiến của mình. Các em biết hợp tác, giúp đỡ nhau để tìm ra
tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn và phát triển những kĩ
năng giao tiếp.
Đồng thời kĩ năng tổ chức, điều hành hoạt động nhóm của học sinh thành thạo hơn. Còn giáo viên có thời gian quan tâm đến các học
sinh có năng khiếu và học sinh chưa hoàn thành. Những học sinh năng khiếu
có điều kiện phát huy hơn năng lực của mình. Còn những em vốn nhút
nhát, tiếp thu bài chậm, ít trao đổi thì nay mạnh dạn hơn, tự tin
hơn, sôi nổi trong học tập và các hoạt động. Các em biết hợp tác,
giúp đỡ, giao tiếp, học hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự phát hiện và
tự chiếm lĩnh kiến thức. Tiết học nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động và hiệu quả. Lớp
học trở nên thân thiện, gần gũi tạo cho các em có được cảm giác mỗi ngày đến
trường là một ngày vui.
Việc nâng cao chất lượng
dạy học theo nhóm không phải ngày một ngày hai là thành công nên đòi hỏi người giáo viên phải
kiên trì, phải thực sự tâm huyết trong mọi hoạt động “Tất cả vì học sinh thân
yêu”. Đó chính là chìa khóa thành công của mô hình trường học mới.
3.2.
Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với Nhà trường:
Để hoạt động hướng dẫn và dạy học theo
nhóm trở thành hoạt động dạy học thường xuyên, có chất lượng, mang lại hiệu quả cao cho công
tác dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục. Cụm chuyên môn và trường thường
xuyên tổ chức các chuyên đề theo từng môn và các hoạt động giáo dục cho giáo
viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau; tổ chức thi nhóm trưởng, hội đồng tự quản điều hành giỏi. Quan
tâm hơn và tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo cho việc dạy học theo
mô hình trường học mới.
- Đối với các giáo viên dạy: Cần có tâm huyết hơn, biết sáng tạo và linh hoạt hơn trong quá trình dạy học nhằm đưa chất lượng giảng dạy ngày một cao hơn.