1. Phần mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Hiện
nay, các môn học nói chung và đối với môn Ngữ văn nói riêng, vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học đã trở thành vấn đề cấp thiết của xã hội nhằm đáp ứng những
yêu cầu ngày càng cao của giáo dục hiện đại và chú trọng hơn đến sự phát triển
năng lực của học sinh. Môn ngữ văn không chỉ là một môn học nghệ thuật mà còn là môn
học công cụ. Dạy - học tác phẩm văn học trong nhà trường có nhiệm vụ nâng cao
chất lượng
cho học sinh, làm phong phú hơn về tâm hồn và phát triển nhân cách của các em.
Nó cung cấp những kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn trong tâm
hồn con người; khơi gợi lên một thế giới lung linh sắc màu bởi vẻ đẹp nhân văn
trong mỗi sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Từ sự nhận thức đó, các em đi đến tự ý thức,tự điều chỉnh mình trong
cuộc sống. Đặc biệt là trong quá trình giảng dạy theo phương pháp đổi
mới môn ngữ văn theo hướng tích hợp. Để phát huy tính tích cực của học sinh
trong hoạt động học tập thì người giáo viên có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động
của học sinh. Học sinh phải là chủ thể tự giác tích cực trong quá trình lĩnh
hội kiến thức. Muốn giờ học tác phẩm văn học được sinh động, vai trò của học
sinh trong giờ học được khẳng định và mối liên hệ qua lại giữa thầy và trò được
duy trì thì không thể thiếu hệ thống câu hỏi nêu vấn đề. Một bài văn, một tác
phẩm văn chương hay số phận nhân vật chỉ trở thành đối tượng suy tư của mỗi
người khi chính người đó nhận ra trong đó có những tình huống, vấn đề, tâm
trạng có liên quan đến tầm suy nghĩ hay rung động của mình. Tác phẩm nào cũng
có vấn đề nhưng không phải bất kì vấn đề nào trong tác phẩm cũng tự nhiên trở
thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người đọc - học sinh. Điều quan
trọng là giáo viên phải có tầm tri thức, linh hoạt vận dụng các thao tác và kĩ
thuật dạy học nhằm phát hiện và khơi gợi những tình huống có vấn đề thông qua
các câu hỏi nêu vấn đề. Có như vậy, học sinh mới “động não” và hứng thú hoạt động trong giờ học.
Nhưng
việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề như thế nào trong giờ học để đem lại hiệu quả
cao đó là điều mà người giáo viên dạy văn cần trăn trở và suy nghĩ. Qua thực tế
giảng dạy tôi thấy rằng cách đặt câu hỏi trong giờ dạy tác phẩm văn chương vẫn
còn những hạn chế. Có trường hợp giáo viên nêu câu hỏi nhiều nhưng chưa tập
trung hoặc chưa có hệ thống, câu hỏi chỉ mang tính chất tái hiện chưa phát huy
sáng tạo của học sinh. Giáo viên chưa đặt học sinh vào tình huống có vấn đề
được dẫn dắt và tổ chức bằng các câu hỏi có giá trị gợi mở tư duy.
Xây
dựng được tình huống có vấn đề thông qua cách đặt câu hỏi nêu vấn đề là một
hoạt động sư phạm phù hợp với mục đích dạy học mới hiện nay, vừa thích ứng với
quy luật cảm thụ văn học và đặc trưng của văn học. Từ thực tế trên, tôi mạnh
dạn đưa ra một số ý kiến nhỏ gọi là kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm sử dụng câu
hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn học lớp 9” nhằm mục đích nâng
cao chất lượng dạy học văn, đồng thời góp phần phát triển năng lực lĩnh hội và
giải quyết các câu hỏi, tình huống có vấn đề của học sinh. Tuy nhiên, với dung
lượng hạn chế của đề tài, tôi chỉ chú trọng vào một số văn bản thơ, truyện
trong chương trình lớp 9 bằng một số dạng câu hỏi tạo tình huống có vấn đề nhằm
giúp các em phát triển năng lực tư duy và sáng tạo.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Đề
tài tập trung nghiên cứu một số phương pháp vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong
quá trình dạy - học phần văn bản trong chương trình lớp 9 nhằm góp phần định
hướng phát triển năng lực cho học sinh. Trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết và khảo
sát thực tế dạy học, khả năng nắm kiến thức của học sinh qua một giờ đọc - hiểu
văn bản, nhằm đưa ra những giải pháp, những kinh nghiệm trong việc vận dụng một
số hình thức câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học phần văn bản lớp 9.
Từ
những kinh nghiệm bản thân, tôi đã đưa vào áp dụng trong thực tế dạy học và
thấy hiệu quả mang lại khá tốt. Vì vậy tôi mong muốn được chia sẻ những kinh
nghiệm của mình để các đồng nghiệp cùng tham khảo và sử dụng trong hoạt động
dạy học tác phẩm văn học nhằm mang lại hiệu quả cao hơn.
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng
của việc dạy học văn hiện nay
2.1.1.Thuận
lợi
Chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn có giảm tải được chọn lọc những tác phẩm hay có
giá trị bồi đắp tâm hồn cho học sinh. Hơn nữa, đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp và sách giáo khoa đòi hỏi mỗi giáo viên phải vận dụng các phương
pháp dạy học phù hợp để giúp học sinh nắm vững tri thức là yêu cầu cấp bách
trong tình hình hiện nay.
Được
sự quan tâm của ngành, của nhà trường và phụ huynh trong việc đầu tư các nguồn
kinh phí cho việc trang bị các phương tiện, thiết bị dạy học giúp học sinh tăng
cường thực hành, vận dụng kỹ năng… Hằng năm, giáo viên lại được tập huấn bồi
dưỡng thường xuyên nâng cao kiến thức chuyên môn và vận dụng phương pháp mới
trong dạy và học. Từ đó thôi thúc người dạy phải linh hoạt hơn, sáng tạo hơn và
thích ứng nhanh hơn trong việc giảng dạy.
Đội
ngũ giáo viên trẻ, giảng dạy nhiệt tình, có trách nhiệm. Có ý thức tìm tòi, học
hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nhanh nhạy trong việc vận dụng
các phương pháp dạy học mới để nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học.
Có
tương đối đầy đủ đồ dùng phục vụ cho dạy
học. Tài liệu tham khảo phong phú giúp ích rất nhiều cho giáo viên cho việc
soạn giảng.
Giáo viên đã biết ứng dụng công nghệ thông tin
vào bài dạy. Đây là một trợ thủ đắc lực của giáo viên, góp phần làm cho tiết
dạy sinh động, hấp dẫn và cuốn hút học sinh hơn.
Học
sinh có tinh thần ham học hỏi, có ý thức xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối
đầy đủ trước khi đến lớp.
2.1.2.
Khó khăn
*
Về phía giáo viên
Việc
dạy học văn trong nhà trường hiện nay còn một số tồn tại không chỉ ở phương
diện lí luận phương pháp dạy học, mà còn phía chủ quan của giáo viên dạy văn
như:
Kiểu
dạy học truyền thụ kiến thức một chiều (GV giảng, HS nghe, ghi tái hiện) vẫn
còn ở một số giáo viên trong khi mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học đã
thay đổi.
Thông
thường giáo viên chỉ cốt hiểu và nắm được nội dung của bài học rồi truyền đạt
cho học sinh sao cho hấp dẫn, để các em có thể ghi nhớ tái hiện và đồng cảm.
Không ít giáo viên cho rằng nói cho hay để nhồi nhét được kiến thức vào học
sinh.
Mặc
dù vấn đề đổi mới phương pháp được đề cập
nhiều năm nay nhưng chưa được triển khai bồi dưỡng thường xuyên.
Giáo
viên chưa nắm rõ yêu
cầu định hướng đổi mới phương pháp, có những giờ giảng văn giáo
viên cũng nêu câu hỏi đặt vấn đề cho học sinh tìm tòi suy nghĩ, song vấn đề nêu
ra thường nghiêng về tính chất tái hiên nội dung tác phẩm (câu hỏi tái hiện)
chưa phát huy tính sáng tạo của học sinh.
Vì
lượng kiến thức bài học lớn nên không đủ thời gian để giáo viên tập trung đặt
câu hỏi tạo tình huống, có trường hợp giáo viên nêu câu hỏi nhiều nhưng còn vụn
vặt, chưa tập trung hoặc chưa có hệ thống. Vì vậy, chưa thật sự “lôi cuốn” được các em vào giờ học, dễ
gây cảm giác nhàm chán.
*Về
phía học sinh
Hiện
nay đa số học sinh không yêu thích bộ môn Văn. Các em còn thụ động trong quá
trình học tập, quen nghe nhớ tái hiện những gì giáo viên nói .
Học
sinh chưa có thói quen chủ động tìm tòi khám phá bài học nếu không được giao
nhiệm vụ. Năng lực cảm thụ văn học và
khả năng tư duy của các em chưa được huy động ở mức tối đa để tìm tòi
khám phá tác phẩm. Các em không có năng lực độc lập suy nghĩ nên gặp khó khăn
khi phải trả lời các câu suy luận hay cảm thụ văn học.
Nhiều
em học còn quá yếu, lười học, lười suy nghĩ. Đa số các em chưa dành nhiều cho
bộ môn văn, chưa chủ động sáng tạo. Các em học còn đối phó, còn phụ thuộc vào
sách giải bài tập sách học tốt quá nhiều. Nhiều em chưa biết cảm thụ văn học.
Vậy
để có tiết học sinh động, tích cực hóa
hoạt động học tập nhằm phát huy
tính sáng tạo, kích thích hứng thú học
tập ở học sinh thì việc sử dụng câu hỏi
nêu vấn đề không thể thiếu trong việc dạy học một tác phẩm văn học.
2.2. Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện
Tác
phẩm văn chương là một bức tranh phản ánh đầy đủ và sinh động hiện thực cuộc
sống xung quanh chúng ta. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng về tác phẩm văn
học mà mình được tiếp xúc. Học sinh khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương, được
học trong nhà trường cũng vậy. Vì thế, trong giờ giảng văn cần phát huy hết
năng lực tư duy, khả năng tìm tòi phát hiện cảm nhận theo những suy nghĩ riêng
của học sinh. Như vậy, tác phẩm văn học sẽ trở thành đối tượng của thầy và trò
trong quá trình dạy học. Hiện nay phương pháp giảng dạy tích cực theo quan điểm
“Lấy học sinh làm trung tâm” đã được
ứng dụng. Để phát huy tính tích cực của học sinh thì người giáo viên có nhiệm
vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động học tập của
các em. Học sinh phải là chủ thể tự giác tích cực trong quá trình lĩnh hội kiến
thức. Trong quá trình giảng dạy, tuỳ vào điều kiện thực tế, tuỳ cách sáng tạo
của mỗi giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi và tiến hành thực hiên cách hỏi
nhằm định hướng và tổ chức điều khiển hoạt động của học sinh trong giờ học. Để
phát huy tính sáng tạo, năng lực tư duy của học sinh thì việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề có vai trò
quan trong trong tiết học .
Câu
hỏi nêu vấn đề là loại câu hỏi đặt ra cho học sinh và được học sinh tiếp nhận
một cách có ý thức, không phải do từ ngoài dội vào mà do nhu cầu khám phá tìm
hiểu tư duy sáng tạo của học sinh qua sự gợi ý của giáo viên.
Câu
hỏi nêu vấn đề là câu hỏi nhằm xác định rõ vấn đề và tạo ra tình huống có vấn
đề. Câu hỏi cần phải làm sáng rõ được các vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, gây hứng
thú cho học sinh khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Câu
hỏi nêu vấn đề làm rõ hoặc đặt người nghe vào tình huống có vấn đề. Nó là
phương tiện quan trọng để giáo viên đưa vấn đề vào tình huống có vấn đề. Như vậy
vấn đề có sẵn trong đơn vị bài học, còn tình
huống có vấn đề, câu hỏi có vấn đề là sản phẩm nghệ thuật sư phạm .
Việc thành công hay không thành công của một tiết dạy học tác phẩm văn chương
phụ thuộc vào việc xây dựng hệ thống câu hỏi và biết sử dụng câu hỏi nêu vấn đề
và tình huống có vấn đề .Vậy để tiết dạy có hiệu quả thì giáo viên phải:
- Chọn đơn vị kiến thức để đặt câu
hỏi
- Hướng dẫn học sinh giải quyết câu hỏi
- Nâng cao vấn đề từ câu trả lời của học sinh
Câu
hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến tình huống có vấn đề. Tình huống có
vấn đề là tình huống làm nảy sinh trạng thái tâm lí muốn khắc phục của chủ thể
khi đứng trước những khó khăn. Xây dựng thành công câu hỏi nêu vấn đề sẽ góp
phần tạo lập các tình huống có vấn đề trong quá trình dạy - học. Loại câu hỏi
này phải khơi gợi được vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, gây hứng thú nhận thức và
động viên, khuyến khích học sinh phát triển năng lực sáng tạo và thẩm mĩ nhằm
giải quyết vấn đề đã nêu.
Về
bản chất, câu hỏi nêu vấn đề thường có tính chất phức tạp về nội dung. Nó chứa
những băn khoăn, thắc mắc, những mâu thuẫn, những bế tắc mà học sinh gặp phải
trên con đường nhận thức. Nếu muốn nhận thức tiếp phải giải quyết vấn đề đó.
Theo tôi, có thể dựa vào những tình huống
có vấn đề đã học trong các tài liệu giảng dạy về phương pháp dạy - học văn
để ứng dụng những câu hỏi nêu vấn đề với các dạng sau đây:
Thứ nhất: Sử
dụng câu hỏi nêu vấn đề để tạo tình huống mâu thuẫn, bất ngờ
Tình
huống bất ngờ là tình huống không nằm trong dự định và “tầm kiểm soát” của học sinh. Trong quá trình dạy học việc nêu
ra những tình huống “lạ” nhằm khơi
gợi học sinh động não và lí giải thông qua một hệ thống các câu hỏi gợi mở hợp
lí là điều rất quan trọng.
Khi
phát hiện được một tín hiệu nội dung hay một tín hiệu nghệ thuật nào đó trong
tác phẩm có tính chất kì lạ, bất bình thường, mâu thuẫn, ta vận dụng dạng thức
trên để khơi gợi sự khám phá sáng tạo của học sinh. Để tạo được những tình
huống có tính chất mâu thuẫn, bất ngờ thông thường giáo viên thường sử dụng
phương pháp đào sâu bằng dạng câu hỏi như:
Tại sao? Vì lí do gì? Có gì không mâu
thuẫn, không hợp lí?...
Ví dụ: Khi dạy văn
bản “Chuyện người con gái Nam Xương”
(Trích Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ) giáo viên có thể nêu một số câu hỏi tạo tình huống bất ngờ.
- Khi
phân tích đoạn văn đầu kể những việc trong đời Vũ Nương khi chồng đi lính, có 3
sự việc ( tiễn chồng; có mang- sinh con và chăm sóc mẹ chồng).
+ GV
đặt câu hỏi nêu vấn đề: ? Trong 3 sự việc
trên sự việc nào là quan trọng nhất. Vì sao?
+
HS trả lời: Sự việc quan trọng nhất: Vũ Nương sinh con .Vì đó là đầu mối cho sự
rắc rối sau này. Sự việc này được tác giả kể thoáng qua chỉ một câu, đó là nghệ
thật khéo léo dấu đi những đầu mối đầu cho sự bất ngờ sau này...)
-
Khi phân tích đoạn Trương Sinh đi lính trở về
+ GV
đặt câu hỏi nêu vấn đề: ? Vì sao Vũ Nương
bị oan?
+ HS trả lời: Vì câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã
nhầm lẫn cái bóng với người, gieo nghi ngờ trong óc người cha...Kết cục chàng
vẫn không tin, không nghe lời phân trần của Vũ Nương và lời giãi bày của làng
xóm...
+ GV hỏi: Thực ra tấn thảm kịch có thể tránh được. Chi tiết nào trong chuyện mở
ra khả năng giải quyết thảm kịch dễ dàng. Nhưng tại sao không giải quyết được?
+ HS trả
lời: Chỉ cần Trương Sinh nói ra lời đứa con nói thì Vũ Nương nói ra sự thật rõ
ràng. Thế nhưng vì tính đa nghi, hồ đồ cộng thêm bản chất gia trưởng, vũ phu
nên Trương Sinh một mực không nói ra nguyên cớ. Đó cũng là dụng ý nghệ thuật thắt
nút khéo léo của tác giả..
Hoặc
giáo viên có thể đặt câu hỏi: Vũ Nương
nói sẽ trở về khi chồng lập đàn giải oan nhưng tại sao cuối cùng nàng lại không
trở về đoàn tụ cùng chồng và con? Câu hỏi này cũng sẽ tạo ra một tình huống
có tính mâu thuẫn buộc các em phải suy nghĩ và lí giải. Sau đó, giáo viên gợi
mở và định hướng để các em thấy được đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc,
mang nhiều nội dung ý nghĩa. Và đứng trên phương diện đặc trưng thể loại cũng
như ý thức quan niệm xã hội, Nguyễn Dữ không đời nào để cho một người phụ nữ “Thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”
như Vũ Nương trở thành nạn nhân của chế độ nam quyền bất công cùng với những hủ
tục lạc hậu đày đọa nữa. Nàng phải được sống hạnh phúc sung sướng ở một thế
giới khác theo ước mơ ngàn đời của nhân dân “Ở
hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
Từ
những đáp án trên, giáo viên khích lệ các em tiếp tục mạnh dạn đưa ra những suy
nghĩ của bản thân đồng thời hướng các em vào nội dung bài học: Vũ Nương nói sẽ
trở về khi Trương Sinh lập đàn giải oan vì nàng khát khao được phục hồi danh
dự, mong được chồng chiêu tuyết cho nỗi oan khuất của mình… Nhưng cuối cùng lại
không trở về, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi, mà điều chủ yếu
là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người
bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh
phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu
hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã
hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Từ đây, giáo viên có thể linh
hoạt liên hệ thực tế, tích hợp những bài học về rèn luyện đạo đức, phẩm chất
cho các em.
Ví dụ : Khi dạy
truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, để
thể hiện tình yêu làng sâu nặng, tha thiết của nhân vật ông Hai, giáo viên có
thể đặt câu hỏi nêu vấn đề: Trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân có đoạn
kể về nhân vật ông Hai cứ múa tay lên mà khoe khi nhà ông bị giặc đốt, đốt
nhẵn. Tại sao lại như vậy?
Học
sinh sẽ có thể nhận ra đây là một tình huống có tính mâu thuẫn, bởi đối với mỗi
người, ngôi nhà là cả gia tài và cuộc sống của họ. Nếu nhà chẳng may bị giặc
đốt hẳn họ sẽ rất đau lòng. Thế nhưng ông Hai lại đi khắp nơi, múa tay lên khoe
với mọi người là nhà ông bị giặc đốt, đốt nhẵn. Các em có thể đưa ra kiến giải
của bản thân:
Điều
khiến ta cảm động là mặc dù nhà bị đốt nhưng ông không hề nghĩ nuối tiếc hay
buồn khi nhà của ông bị đốt nhẵn mà ông còn hả hê khoe với mọi người “Tây nó đót nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn”. Vì ông Hai vui quá, đó là bằng chứng hùng
hồn của việc gia đình ông không những
không theo giặc mà là gia đình kháng chiến, làng Dầu của ông vẫn theo kháng
chiến, theo cách mạng. Ông vui sướng hả hê đến cực điểm. Qua đó ta thấy được
ông Hai là người coi trọng danh dự, yêu làng sâu sắc hơn tất cả. Ông đã quên sự
mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê,
đất nước. Tình yêu làng quê được mở rộng, hoà quyện trong tình yêu nước thật
sâu nặng và thiêng liêng. Ông Hai tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam yêu
làng, yêu nước, tin vào kháng chiến....
Ví dụ : Khi dạy truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, để làm nổi bật tình
cảm cha con thiêng liêng sâu nặng, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Trong
truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng hình ảnh ông Sáu khi bị đạn
giặc bắn trúng ngực theo lời kể của Bác Ba “Anh đưa tay vào túi, móc cây lược
đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu” và Bác Ba nhận xét “chỉ có tình cha con
là không thể chết được” Theo em vì sao Bác Ba có thể nhận xét như vậy?
Điều
bất ngờ học sinh nhận ra là ông Sáu đang ở vào tình thế nguy kịch đối mặt với
cái chết, giờ phút cuối cùng ấy ông không đủ sức để trăng trối lại điều gì chỉ
đủ sức làm cái việc cuối cùng là “Anh đưa
tay vào túi, móc cây lược, .... nhìn tôi một hồi lâu” cái nhìn ấy của ông
với người đồng đội thay mình thực hiện mong ước của con bởi thế nên người
đồng đội - Bác Ba đã cảm nhận được sự bất tử của tình phụ tử thiêng liêng kiên
định “chỉ có tình cha con là không thể
chết được”.
Ví dụ: Trong đoạn trích “Chị
em Thúy Kiều” của Nguyễn Du, tác giả nếu chỉ tả kĩ vẻ đẹp của Thúy Vân sau
đó thêm hai câu thơ để miêu tả khái quát Thúy kiều:
“Kiều càng
sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc
lại là phần hơn”
Người đọc có thể hình dung ra Thúy
kiều hay không? So với Thúy Vân các chi tiết miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều có
nhiều không? Tai sao nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước và chỉ khái quát khi
miêu tả Thúy Kiều?
Tạo tình
huống học sinh tranh luận giả định rồi lựa chọn, tranh luận.
Học sinh thấy rõ thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy
của Nguyễn Du khi tả kỹ Thúy Vân làm nền để tả Thúy Kiều. Sử dụng hai câu thơ
so sánh để khẳng định vẻ đẹp vượt trội của Thúy Kiều “So bề tài sắc lại là phần hơn”.
Như
vậy, đứng trước một vấn đề có tính mâu thuẫn, các em đã biết đặt mình vào vị
trí của nhân vật, của tác giả để thấu hiểu. Đó cũng là cách các em thu nhận
những giá trị sống cho bản thân thông qua hành trình tư duy, lí giải mà chính
giáo viên là người dẫn dắt, định hướng.
Thứ
hai: Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để tạo tình huống so sánh
Sự
so sánh đối chiếu là một hình thức của thao tác phân tích trong tư duy. Thông
qua những câu hỏi so sánh, đối chiếu học sinh có thể nhận ra những nét độc đáo,
những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Thực ra khi sử dụng dạng thức so sánh, giáo
viên có thể kết hợp vận dụng các câu hỏi nêu vấn đề để tạo tình huống bất ngờ.
Một câu hỏi nêu vấn đề để tạo tình huống bất ngờ không bắt buộc phải dùng phép
so sánh nhưng ngược lại khi sử dụng câu hỏi tạo tình huống so sánh, giáo viên
có thể tạo ra những tình huống đầy bất ngờ cho học sinh. Nhờ vậy, học sinh tích
cực tham gia vào giờ học để giải quyết vấn đề. Thông thường, những câu hỏi tạo
tình huống so sánh thường là những câu hỏi có tính chất khó. Vì vậy, trong quá
trình học, giáo viên cần tích cực sử dụng các câu hỏi gợi mở cho học sinh.
Không những vậy, để lôi kéo các em học sinh trung bình, yếu tham gia vào bài
học giáo viên cần khuyến khích các em hoạt động, tránh để tình trạng các em có
cảm giác bị “bỏ rơi” khi bắt gặp
những câu hỏi dạng này vì cho rằng đây là những kiến thức ngoài tầm với. Giáo
viên có thể cho học sinh tổ chức thảo luận nhóm, có thể tạo từng nhóm nhỏ, chia
đều các em học sinh khá, giỏi vào mỗi nhóm để cùng tranh luận. Trong mỗi tiết
học như vậy, cần phải tạo được không khí thoải mái, thân thiện để khi bắt gặp
những câu hỏi dạng này, các em lại càng hứng thú tham gia.
Dạng 1: Đặt câu hỏi theo dạng so sánh
lựa chọn: A hay B?
Tình
huống lựa chọn là tình huống xuất hiện khi có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn
đề buộc ta phải lựa chọn cách giải quyết hợp lí nhất, tối ưu nhất. Khi đưa ra
được đáp án và sự lựa chọn của bản thân, học sinh buộc phải thực hiện bước tư
duy so sánh giữa các đối tượng. Năng lực sáng tạo của người học nhờ vậy được phát
triển. Đứng trước những sự lựa chọn có tính chất bắt buộc các em có khả năng
phân tích vấn đề và mạnh dạn đưa ra quyết định. Có như vậy, giáo viên đã góp
phần tác động, khơi dậy khát khao được làm chủ bản thân của các em. Kết quả,
các em hứng thú tham gia vào bài học, tiết học sẽ trở nên sinh động hơn.
Ví dụ : Khi dạy văn
bản “Chuyện người con gái Nam Xương”,
giáo viên có thể hỏi theo một cách khác: Khi
bị Trương Sinh nghi oan, đánh đập, chửi mắng là thất tiết, Vũ Nương đã chọn cái
chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Có ý kiến cho rằng hành động trẫm
mình của Vũ Nương là hành động bột phát trong cơn nóng giận. Có ý kiến lại cho
rằng đó là hành động có sự chỉ đạo của lý trí ? Em tán thành ý kiến nào? Vì
sao?
Câu
hỏi này đặt ra khi phân tích nội dung: Nỗi oan của Vũ Nương. Để giúp học sinh giải quyết được câu hỏi trên, giáo viên có thể
gợi mở, liên hệ với cốt truyện vay mượn “Vợ
chàng Trương”, giúp học sinh thấy được sự khác nhau trong hành động của 2
nhân vật chính . Học sinh tiến hành thảo luận, tranh biện. Có thể tổ chức cho
các nhóm luân phiên đặt câu hỏi và trả lời. Học sinh có thể đưa ra những ý kiến
riêng của bản thân. Sau đó, giáo viên hướng các em vào câu trả lời hợp lí nhất:
Hành động tự trẫm mình của Vũ Nương là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo
toàn danh dự. có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng người đọc cũng thấy được lòng
tự trọng, sự chỉ đạo của lý trí, chứ không như hành động bột phát trong cơn
nóng giận như truyện cổ tích “Vợ chàng
Trương” miêu tả “Nàng chạy một mạch
ra sông, đâm đầu xuống nước tự vẫn”. Vũ Nương đã có sự tính toán kỹ lưỡng
cho hành động của mình: “Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt
lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con
rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài
chứng giám...”
Dạng 2. Đặt câu hỏi theo dạng so sánh
lí giải: Tại sao không A mà B?
Đây
là dạng câu hỏi so sánh có tính chất phản biện, lật ngược vấn đề, đáp án đã có,
điều quan trọng là chủ thể cần lí giải. Trả lời được câu hỏi này, tức học sinh
đã có sự so sánh giữa A và B, đồng thời trong quá trình đó đã đưa ra được sự
lựa chọn của bản thân. Để đưa đến câu trả lời, giáo viên có thể gợi mở cho học
sinh thông qua những hình thức câu hỏi như: Nếu
chọn A thì thế nào? B ưu thế gì hơn A?...
Ví dụ : Khi dạy truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân, giáo
viên có thể đặt câu hỏi: Truyện nói về
tình yêu làng chợ Dầu của nhân vật ông Hai. Tại sao nhan đề của truyện lại là
“Làng” mà không phải là “Làng Chợ Dầu”?
Để
trả lời câu hỏi này, học sinh phải biết được dụng ý nghệ thuật của tác giả:
Nhan đề của truyện là "Làng"
không phải là “Làng Chợ Dầu” vì nếu
là “Làng Chợ Dầu” thì vấn đề mà tác
giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng. Dụng ý của tác
giả muốn nói tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong
mọi người nông dân. Bởi thế "Làng"
là nhan đề hợp với dụng ý của tác giả. Qua đó ta hiểu chủ đề của truyện: ca
ngợi tình yêu làng quê tha thiết của những người nông dân Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp. Như vậy, nhan đề "Làng"
vừa nói lên được cái riêng là tình yêu làng của ông Hai, đồng thời qua cái
riêng ấy, cũng nói lên được cái chung: tấm lòng của những người dân quê đất
Việt.
Ví dụ : Khi dạy về bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” giáo viên có thể đặt câu hỏi: Tại sao nhan đề bài thơ không là “Tiểu đội
xe không kính”? Thêm ba từ “Bài thơ về...”, ý nghĩa của nhan đề có thay đổi
không?
Để
trả lời câu hỏi này, học sinh phải biết được dụng ý nghệ thuật của tác giả:
Nhan
đề bài thơ khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thực ra lại rất lạ và độc đáo.
Bài thơ là cách đưa chất liệu văn xuôi vào thơ, những câu thơ “đặc” văn xuôi được kết hợp trong một
cảm hứng chung thể hiện cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Đó là
chất thơ của hiện thực khốc liệt; chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm,
trẻ trung, vượt lên thiếu thốn gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh.
Đây
là dạng câu hỏi tạo tình huống có vấn đề nhằm giúp học sinh tư duy so sánh giữa
hai hình tượng nhân vật hoặc hai chi tiết nghệ thuật... Học sinh sẽ không ngừng
động não để đưa ra những cách giải thích khác nhau, giáo viên có thể tạo nhóm
cặp đôi để các em cùng thảo luận. Sau quá trình thảo luận, các em sẽ cử đại
diện đứng dạy trình bày. Giáo viên hướng học sinh đến nội dung bài học.
Dạng 3: Sử dụng
câu hỏi theo dạng thức so sánh các tư liệu khác có liên quan.
Các
câu hỏi dạng này có thể so sánh các hình ảnh, chi tiết, vấn đề trong tác phẩm
với các tác phẩm khác hoặc so sánh những dị bản khác nhau của cùng một tác
phẩm.
Ví dụ: Sau khi phân tích hình tượng người lính trong hai bài
thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu và bài
thơ “Bài thơ về tiều đội xe không kính”
của Phạm Tiến Duật, giáo viên có thể hỏi:
Vẻ đẹp của những người lính qua hai bài thơ có gì giống và khác nhau?
Ví dụ: “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là những
truyện ngắn hay, đã khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hãy phân tích nhân vật anh thanh niên và nhân
vật Phương Định trong sự đối sánh để làm rõ những khám phá, sáng tạo riêng của
mỗi tác phẩm trong việc thực hiện chủ đề chung đó?
Ví dụ: Hình ảnh
người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa hiện lên như thế nào qua nhân vật Vũ
Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du?
Khi
đặt câu hỏi dạng này, giáo viên phải yêu cầu học sinh liên tưởng đến những tác
phẩm khác hoặc liên tưởng đến thực tế đời thường để đối sánh với hình tượng văn
học nhằm nêu bật lên những nét đẹp về nội dung và nghệ thuật cũng như dụng ý mà
tác giả muốn gửi đến chúng ta. Bằng cách này, một mặt tạo điều kiện cho các em
bộc lộ suy nghĩ và phát triển năng lực tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, mặt
khác vừa có thể tích hợp và xâu chuỗi kiến thức giữa các bài học với nhau.
Thứ
ba: Đặt câu hỏi nêu vấn đề tạo tình huống giả định, kích thích trí tưởng tượng,
sáng tạo
Tình
huống giả định là một sự gỉả định để làm rõ vấn đề hay sự việc cần tìm hiểu,
đánh giá…tình huống mà giúp học sinh được biểu lộ năng lực thích ứng trong tình
huống của cuộc sống, học sinh được nhập vai.
Từ
việc tạo ra những tình huống không có tính chất bắt buộc qua các câu hỏi, giáo
viên có thể đưa các em vào vị trí các nhân vật để tìm ra câu trả lời cho một
vấn đề được nêu ra. Như một quy luật, học sinh sẽ rất thích thú với những câu
hỏi như vậy bởi các em có thể dễ dàng đưa ra những câu trả lời theo ý kiến
riêng của bản thân song tất nhiên việc tìm ra câu trả lời hợp lí nhất phải cần
sự chung tay của cả lớp học trong đó giáo viên chính là người “quản trò” để đi đến cách giải quyết hợp
lí nhất. Vì vậy, với cách sử dụng câu hỏi dạng này, học sinh sẽ có cơ hội tham
gia vào bài học một cách tích cực, đóng vai nhân vật, nhập vai nhân vật, cùng
tranh luận với các nhân vật khác, thúc đẩy học sinh bộc lộ quan điểm và đối
thoại.
Ví dụ: Khi học
văn bản “Chuyện người con gái Nam
Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ.
Giáo
viên có thể đặt câu hỏi: Khi Vũ Nương đã chết, đáng lẽ câu chuyện có
thể kết thúc đã hoàn chỉnh, nhưng tại sao tác giả lại thêm vào phần Vũ Nương
sống dưới thủy cung với nhiều chi tiết kỳ ảo như thế ?
+ HS có thể trả
lời: Vì do đặc diểm của yếu tố truyền kì thì không thể thiếu yếu tố hoang đường
và vì tác giả tưởng tượng thêm để làm rõ thêm nỗi oan khổ và bản chất vô
cùng tốt đẹp của Vũ Nương và càng làm tăng thêm sức tố cáo chế độ phong kiến
nam quyền độc đoán...
Ví dụ 2: Khi dạy
truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng, giáo viên hỏi: Tình
phụ tử là một tình cảm vô cùng thiêng liêng quý giá, nó càng đáng trân trọng
hơn trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh. Khoảnh khắc đoàn tụ của Ông Sáu
và bé Thu chưa được bao lâu thì ông Sáu đã bị hi sinh. Điều đó đã lấy đi nước
mắt của rất nhiều đọc giả. Nếu em là tác giả, em sẽ có cách kết thúc truyện như
thế nào?
Khi dạy văn bản này, không những bản thân tôi mà rất nhiều học sinh đã
xúc động rơi nước mắt trước tình cảm phụ tử thiêng liêng của cha con ông Sáu.
Được gặp con trong vài ba ngày phép ngắn ngủi, những tưởng sẽ được ôm ấp vỗ về
đứa con gái ngày đêm ông hằng mong nhớ và yêu thương. Thế nhưng chính vết thẹo
dài trên mặt - bằng chứng cho tội ác của chiến tranh đã khiến cho bé Thu - con
gái ông không chịu nhận ông là cha. Phút chia tay, bé Thu mới nghẹn ngào nhận
cha. Với tình yêu thương và biết bao nhiêu hứa hẹn của ông Sáu dành cho con
trước khi lên đường, những tưởng khi hòa bình lập lại, cha con ông sẽ có những
ngày hạnh phúc bình yên bên nhau. Thế nhưng, chiến tranh đã cướp đi mạng sống
của ông để lại nỗi đau không chỉ cho những người thân cho gia đình ông Sáu mà còn
là nỗi xót xa của người đọc. Chính vì vậy, với câu hỏi này, học sinh có thể
phát huy trí tưởng tượng của mình để xây dựng một cái kết có hậu hơn. Tất nhiên
vẫn tôn trọng dụng ý của tác giả Nguyễn Quang Sáng là lên án tội ác của chiến
tranh và thể hiện được tình phụ tử thiêng liêng cao quý.
Như
vậy, câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng một nội dung rộng lớn, mang tính chất tổng
hợp. thường có tính phức tạp về nội dung. Nó gợi lên những mâu thuẫn giữa cái
đã biết và cái chưa biết, giữa cái cũ và cái mới trong nhận thức của học sinh.
Do đó, câu hỏi phải mang tính hệ thống, mục đích của việc phân tích là:
Giáo
viên dẫn dắt học sinh từng bước khám phá ra quan điểm tư tưởng và ý đồ nghệ
thuật của tác giả. Do vậy, quá trình phân tích là quá trình giải quyết từng
bước những vấn đề đặt ra cho học sinh. Câu hỏi phải sát với tác phẩm và khêu
gợi hứng thú cho học sinh. Giáo viên phải tính toán để xây dựng được câu hỏi
vừa phản ánh được bản chất của tác phẩm, vừa nằm trong tầm cảm nghĩ của các em.
Khi lập hệ thống câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên vẫn ít nhiều dựa vào một số câu
hỏi tái hiện làm dữ liệu cho hoạt động sáng tạo của học sinh. Đối với dạy học
sử dụng câu hỏi nêu vấn đề không chỉ tạo điều kiện để học sinh hoạt động độc
lập, tích cực trong cảm thụ và tiếp nhận tác phẩm, rèn luyện các kĩ năng phân
tích đánh giá tác phẩm, mà còn có vai trò to lớn trong việc phát triển tư duy
và khả năng suy tưởng bằng hình tượng
cho học sinh. Khi các em trả lời được các câu hỏi nêu vấn đề, tức là các em đã
hiểu và nắm được nội dung bài học. Các em được tự tìm tòi khám phá sẽ tìm thấy
niềm say mê hứng thú trong học tập.
Vậy
sử dụng câu hỏi nêu vấn đề và dạy học nêu vấn đề không chỉ có tác dụng tích cực
của học sinh mà còn tác động tích cực đến cả giáo viên. Giáo viên là người tổ
chức định hướng quá trình học sinh tự cảm thụ và tự chiếm lĩnh tác phẩm. Giáo
viên không tìm cách áp đặt một cách phi dân chủ cách cảm cách hiểu của học sinh,
mà phải tìm cách gợi cho học sinh cách cảm và hiểu tác phẩm. Từ đó phát huy
được tính độc lập sáng tạo của các em trong quá trình dạy học tác phẩm văn
chương, cũng như trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
2.3. Kết quả đạt được
Qua quá
trình giảng dạy, kinh nghiệm cho thấy: Nếu sử dụng tốt
phương pháp sử dụng câu hỏi nêu vấn đề sẽ kích thích hứng thú học tập, nhiều em
đã nắm được phương pháp làm bài và cách học bài dễ nhớ dễ thuộc, diễn đạt trôi
chảy, rõ ràng ... có niềm say mê hứng thú học bộ môn hơn. Như lớp
91 và lớp 92 đạt hiệu quả cao.
Tôi đã tiến hành khảo sát để so
sánh đối chiếu chất lượng và thăm dò ý kiến học sinh qua hai lớp tôi đảm nhiệm
ở HK I về việc “Một số kinh nghiệm sử dụng có hiệu
quả câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn học lớp 9”. Trong đó, Bảng 1
là chất lượng khảo sát đầu vào học sinh (đối chứng), Bảng 2 là chất lượng kiểm tra cuối học kỳ I (thực nghiệm).
Bảng 1. Chất lượng khảo sát đầu năm các lớp tôi đảm nhiệm: học kì I (năm học
2017 – 2018).
Lớp |
TS HS |
Giỏi |
Khá |
T.Bình |
Yếu |
Kém |
|||||
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
||
91 |
33 |
5 |
15,1 |
12 |
36,4 |
13 |
39,4 |
3 |
9,1 |
0 |
0 |
92 |
36 |
1 |
2,7 |
11 |
30,6 |
15 |
41,7 |
9 |
25 |
0 |
0 |
Bảng 2. Chất lượng khảo sát cuối học kì I
(năm học 2017 – 2018).
Lớp |
TS HS |
Giỏi |
Khá |
T.Bình |
Yếu |
Kém |
|||||
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
TS |
% |
||
91 |
33 |
9 |
27,3 |
14 |
42,4 |
9 |
27,3 |
1 |
3,0 |
0 |
0 |
92 |
36 |
4 |
11,1 |
13 |
36,1 |
15 |
41,7 |
4 |
11,1 |
0 |
0 |
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của sáng
kiến
Để
nâng cao chất lượng của một tiết dạy - học tác phẩm văn học gây hứng thú cho
học sinh, theo bản thân tôi, trước hết người giáo viên phải nghiên cứu kĩ và
nắm chắc nội dung tác phẩm; lấy
việc tác động tâm hồn và trí tuệ của học sinh làm múc đích bài giảng. Để phát huy tính tích cực của học
sinh trong hoạt động học tập thì người giáo viên có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo
hoạt động của học sinh. Học sinh phải là chủ thể tự giác tích cực trong quá
trình lĩnh hội kiến thức. Muốn có hiệu quả, trong từng bài dạy giáo viên phải
tìm tòi suy nghĩ xây dựng hệ thống câu hỏi và sử dụng câu hỏi nêu vấn đề như
thế nào để phù hợp đối tượng học sinh và tác phẩm. Nhưng có thể nói, điều hấp
dẫn và bổ ích nhất của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề và là khả năng phát
triển những phẩm chất tư duy sáng tạo của học sinh, là làm cho các em có tâm
hồn trong sáng hơn, nuôi dưỡng tâm hồn và phát huy năng lực diễn đạt bằng lời
của học sinh, để các em có hứng thú học tập. Từ đây, các em có thể hình thành
những năng lực và kĩ năng cần thiết cho bản thân khi đứng trước một số tình
huống khó khăn. Nó khơi dậy nơi các em bản năng được chinh phục và lí giải
những trở ngại đặt ra trong học tập và cuộc sống sau này.
3.2. Phạm vi
ứng dụng
Thực tế
sáng kiến này đã được áp dụng có hiệu quả trong các tiết dạy học các tác phẩm
văn học trong nhà trường. Điều quan trọng là giáo viên phải biết xác định phạm
vi nội dung, mảng kiến thức đặt câu hỏi, dự tính các tình huống xảy ra cũng như
cách thức xử lí trước và sau khi đặt câu hỏi nêu vấn đề. Nhưng vận dụng như thế
nào cho có hiệu quả hơn nữa, thì đó là điều mà mỗi giáo viên dạy Văn đều luôn
suy nghĩ và trăn trở.
3.3. Kiến nghị đề xuất
Giáo viên cần chủ động
học tập, tìm tòi, thật sự
quan tâm, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc sử dụng các câu hỏi nêu
vấn đề trong dạy học tác phẩm.
Các trường tiếp tục tổ chức hội thảo
chuyên đề cụm để giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn có dịp học tập ,học hỏi trao đổi
kinh nghiệm để thống nhất phương pháp tối ưu, tích cực nhằm nâng cao chất lượng
và kích thích hứng thú cho học sinh học tập bộ môn.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân được đúc rút từ thực tế giảng dạy. Rất mong được sự góp ý bổ sung của đồng nghiệp để sáng kiến vận dụng được hiệu quả hơn.