1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1 Lý do chọn sáng kiến:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Một trong những định hướng cơ bản của
việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện,
xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành
động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng
trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng
tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học.
Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà
trường.
Theo tinh thần đó, hiện nay giáo dục
Tiểu học chú trọng xây dựng môi trường học tập an toàn, khang trang, thân thiện
tạo điều kiện cho các em thực sự “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Trên cơ
sở đó, việc tổ chức các hoạt động trên lớp cũng phong phú, đa dạng, hấp dẫn
hơn, thông qua các hoạt động giáo dục để rèn kĩ năng sống cho học sinh với
phương châm “dạy chữ kết hợp dạy người”. Phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự
tin, mạnh dạn, năng lực, phẩm chất của các em từ đó mà hình thành, phát triển.
Thay đổi phương pháp, hình thức dạy học cũng đòi hỏi mỗi giáo viên tự đổi mới,
năng động, phù hợp đối tượng, dám nghĩ, dám làm nhằm tạo bước chuyển biến mới
về chất lượng giáo dục, tạo hứng thú cho học sinh, phát triển tối đa năng lực
của từng học sinh trong lớp.
Nhận thức được yêu cầu đổi mới của
giáo dục, khi được phân công dạy học và chủ nhiệm lớp 3, độ tuổi được coi như
chuyển giao giữa cấp học của Tiểu học, tôi luôn băn khoăn, trăn trở: Cần làm gì
để việc dạy học không chỉ là truyền đạt kiến thức? Phải làm sao để giúp các em
biết tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, giúp các em phát huy tính chủ động, tích
cực sáng tạo trong học tập? Làm sao để tất cả học sinh trong lớp tôi được phát
triển, hoàn thiện dần các kĩ năng theo năng lực, sở trường một cách tốt nhất?
Với những băn khoăn, trăn trở trên, tôi quyết định chọn sáng kiến “Một số biện
pháp nâng cao chất lượng dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học
sinh lớp 3” để nghiên cứu, tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học cho
lớp tôi chủ nhiệm. Sáng kiến này tôi đã nghiên cứu và thực hiện trong năm học
2017-2018, đã đạt được những kết quả khả quan vì vậy năm học 2018-2019 tôi tiếp
tục vận dụng vào lớp 32 do tôi chủ nhiệm.
1. 2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Việc nâng cao chất lượng
dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh đã được nhiều nhà quản
lý, nghiên cứu giáo dục cũng như giáo viên quan tâm, các bài viết đã chỉ ra
được các phương pháp, biện pháp để nâng cao một số năng lực cho học sinh. Tuy
nhiên để có những biện pháp cụ thể nâng cao chất lượng dạy học theo định hướng
phát triển năng lực thì chưa có bài viết nào đề cập. Với sáng kiến này tôi đã
làm rõ, cụ thể hơn một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho học sinh như: Biện pháp rèn kĩ năng tự học; nâng
cao kĩ năng đánh giá, cải tiến phương pháp dạy học truyền thống, phối hợp
phương pháp dạy học mới, đặc biệt là đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học,
coi trọng hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học theo
định hướng phát triển năng lực tự học cho học sinh; định hướng cho học sinh
biết cách tự học, tự khám phá nhằm phát huy năng lực của bản thân. Những biện
pháp tôi đã sử dụng có tính khả thi phù hợp với đổi mới dạy học trong giai đoạn
hiện nay.
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng:
2.1.1 Thuận lợi:
* Về phía học sinh:
- Học
sinh được làm quen với mô hình trường học mới từ năm lớp 2 nên một số em bước
đầu đã biết cách tự học, biết hợp tác, thảo luận, chia sẻ cùng bạn để chiếm
lĩnh kiến thức mới, Hội đồng tự quản đã biết cách điều hành lớp.
- Phụ
huynh một số em biết quan tâm đến việc học của con em, mua sắm đầy đủ sách vở,
đồ dùng học tập và phối hợp sát sao với giáo viên trong các hoạt động giáo dục.
* Về phía giáo viên:
Bản thân là một giáo viên
đã có nhiều năm công tác, linh hoạt và có kinh nghiệm trong việc đổi mới phương
pháp dạy học. Được tham gia tập huấn, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng về dạy học
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Do đó tôi đã dành thời gian
nghiên cứu kĩ chương trình, tài liệu hướng dẫn học, bám sát chuẩn kiến thức kỹ
năng để nâng cao chất lượng soạn giảng cũng như tổ chức các hoạt động học tập
phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Tôi cũng đã quan tâm, bám sát, hỗ trợ
học sinh khi gặp khó khăn trong học tập, đồng thời từng bước nâng cao chất
lượng và phát triển năng lực tự học của học sinh.
2.1.2 Khó khăn:
* Về phía học sinh:
-
Nhiều học sinh chưa biết cách tự học, thụ động, chủ yếu là lên lớp nghe thầy cô
giảng bài và chưa thực sự chăm học. Một số em coi việc học tập là để đối phó
với thầy cô và gia đình.
-
Nhiều gia đình phó mặc việc học tập của con cho giáo viên, chưa quan tâm phối
hợp để thực hiện các hoạt động ứng dụng cùng con, nhiều em ảnh hưởng của lối
sống hiện đại, lạm dụng công nghệ thông tin (ti vi, máy tính, điện thoại thông
minh) nên không có hứng thú việc học.
*
Về phía giáo viên:
-
Thời gian dạy học hai buổi trên ngày nên việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm
sáng tạo của học sinh còn hạn chế.
-
Học sinh trong lớp có nhiều đối tượng và lực học khác nhau nên để phát huy tối
đa năng lực của mỗi học sinh cũng là một việc làm khó.
Trong lớp tôi chủ nhiệm
nhiều em kĩ năng tự học chưa cao, thiếu tự tin mạnh dạn trình bày ý kiến của
mình trước nhóm, lớp như em: Đức Thịnh, Kiều Trang, Thế Thịnh ... Nhiều
em chưa biết tự mình đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn, chưa hoàn
thành các hoạt động theo tiến độ mà phải có sự hỗ trợ của bạn và của cô giáo. Ý
thức học tập của một số em chưa cao, thiếu sự phấn đấu vươn lên.
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán, Tiếng Việt tuần 5, năm học
2017-2018 của lớp tôi như sau:
Môn |
Hoàn
thành tốt (T) |
Hoàn
thành (H) |
Chưa
hoàn thành (C) |
|||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
Toán |
5 |
15,1 |
23 |
69,8 |
5 |
15,1 |
Tiếng
Việt |
6 |
18,1 |
23 |
69,8 |
4 |
12,1 |
+ Năng lực:
Các năng lực |
Tốt (T) |
Đạt (Đ) |
Cần cố gắng(C) |
|||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
Tự phục vụ, tự quản |
14 |
42,4 |
19 |
57,6 |
0 |
0 |
Hợp tác |
15 |
45,5 |
18 |
54,5 |
0 |
0 |
Tự học và GQVĐ |
13 |
39,5 |
17 |
51,5 |
3 |
9,0 |
2.2.
Một số biện pháp:
Từ thực trạng trên, tôi luôn trăn trở:
Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học toàn diện? Làm thế nào để việc dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh có hiệu quả ? Tôi đã tìm ra một số biện pháp sau:
2.2.1.
Kết hợp các phương pháp dạy học tích cực:
-
Phối hợp giữa các phương pháp dạy học truyền thống với phương pháp dạy học mới.
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các
phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần
bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của
chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này trước hết tôi đã
nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc
chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các
câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên,
các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh
các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy
học mới như phương pháp dạy học nhóm, phương pháp đặt và tự giải quyết vấn đề,
phương pháp đóng vai, phương pháp vấn đáp, phương pháp động não … nhằm tăng
cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo
quan điểm dạy học giải quyết vấn đề.
-
Kết hợp đa dạng các hình thức hoạt động.
Việc
sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ
theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ
chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm, học trong lớp, học ở ngoài lớp ... Tùy
theo bài học tôi luôn chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để
đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
nâng cao hứng thú cho học sinh.
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp
và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng
để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Tôi tổ chức các hình
thức dạy học đa dạng và phong phú phù hợp với từng đối tượng học sinh “cá nhân,
nhóm đôi, nhóm, lớp” trong đó hoạt động cá nhân được chú ý nhất.
Học sinh hoạt động nhóm học tập theo nhóm
Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất
đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ
mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có
thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như
phương pháp đóng vai. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc
nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên
ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến
mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và
các phương pháp dạy học tích cực khác.
Ngoài
những mục tiêu có tính chất truyền thống như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội
dung dạy học, đặc trưng môn học, phù hợp đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học
sinh, với việc đổi mới phương pháp dạy học tôi chú ý dạy học thông qua các hoạt
động học tập của học sinh theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư
duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin, được thực hiện theo
nguyên tắc tương tác nhiều chiều. (Học sinh- Học sinh; Giáo viên-Học sinh).
Một
trong các hình thức tổ chức dạy học tuy vất vả, khó khăn nhưng đổi lại hiệu quả
cao đó là Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Ví
dụ: Tiết Tự nhiên xã hội: Bài 18 Thân cây có đặc điểm gì? (TNXH 3-tập 2- trang
9). Thay bằng việc cho các em quan sát cây, mẫu vật thật trong sách tại lớp,
tôi tổ chức cho các em thực hiện hoạt động tham quan vườn trường: Bao gồm quan
sát thân cây bóng mát (cây phượng, cây bàng), cây hoa (hoa hồng, hoa mười giờ)
và một số loại rau, cây thuốc nam (rau khoai lang, rau ngót, rau cải, lá lốt) …
Trước khi quan sát, tôi giao nhiệm vụ cho các em quan sát đối tượng chính là bộ
phận thân cây và ghi lại đặc điểm thân của mỗi loại cây (Việc làm này giúp học
sinh xác định đúng đối tượng, tránh quan sát tràn lan).
|
|
|
Học
sinh với tiết học Tự nhiên và Xã hội ngoài trời
2.2.2. Rèn kĩ năng tự học cho học sinh:
- Khác với
người lớn việc tự học của học sinh tiểu học bao giờ cũng cần có sự hướng dẫn
của thầy cô giáo, có sự kết hợp và hỗ trợ của cha mẹ các em bởi các em đang ở
lứa tuổi ham chơi hơn ham học. Để rèn cho học sinh lớp mình biết kĩ năng tự học
tôi đã hướng dẫn các kĩ năng cần thiết như: Kĩ năng đọc và thực hiện các lệnh ở
sách giáo khoa, hướng dẫn học; kĩ năng thảo luận, hợp tác; kĩ năng trình bày
kết quả; kĩ năng lắng nghe; kĩ năng đánh giá … vì sách giáo khoa, sách hướng
dẫn không chỉ cung cấp kiến thức có sẵn mà còn hướng dẫn người học đi tìm kiến
thức mới thông qua các lệnh hoạt động. Tuy nhiên, tùy theo mỗi bài để học sinh
phát huy tối đa năng lực vừa đảm bảo tiết học hiệu quả nhất tôi có thể điều
chỉnh lô go một số hoạt động cho phù hợp. Trong quá trình dạy học tôi cũng tập
luyện cho học sinh thực hiện nhuần nhuyễn các kĩ năng năng trên.
Ví dụ: Khi
dạy môn Toán, Bài 77: So sánh các số trong phạm vi 100 000 (HDH Toán 3 - Tập 2B
trang 16): Để thực hiện tốt các mục tiêu học sinh thực hiện theo Lô gô và câu
lệnh ở các hoạt động. Để thay đổi hình thức học tập, tăng sự hứng thú cho học
sinh, tạo điều kiện cho học sinh tìm ra đáp án cùng bạn, tôi đã định hướng cho
học sinh thay hoạt động cá nhân ở hoạt động 4 (HĐTH) bằng trò chơi học tập
trong nhóm: Thi điền nhanh điền đúng. Kết quả học sinh không chỉ tìm ra đáp án
đúng, nắm được kiến thức cơ bản, đảm bảo thời gian hoạt động mà quan trọng hơn
là các em được hoạt động cùng bạn, được rèn luyện tính nhanh nhạy, biết hợp
tác, lắng nghe, đánh giá bạn và hoạt động cũng trở nên hấp dẫn, thích thú hơn.
- Tùy tình
huống, bài tập cụ thể, tôi định hướng cho học sinh tự tìm ra kiến thức đi từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cái biết đến cái chưa biết.
Ví dụ: Tiết
Toán, Bài 19: Gấp một số lên nhiều lần - tiết 2 (HDH Toán 3 - Tập 1A trang 58),
ở HĐ2 a (HĐTH): Năm nay bé Hoa 5 tuổi, Tuổi của mẹ gấp 6 lần tuổi của bé Hoa.
Hỏi năm nay mẹ bao nhiêu tuổi?
Khi gặp bài
toán này một số em rất lúng túng không biết làm phép tính gì cho phù hợp? Bài
toán này có thể dễ dàng với học sinh mức 3,4 nhưng lại khó khăn đối với học
sinh mức 1, 2 ở lớp tôi. (có em làm phép tính cộng).
Để giải
được bài toán này, tôi định hướng học sinh cần tìm được mối liên hệ giữa cái đã
cho (đã biết): Tuổi của Hoa và tuổi mẹ gấp 6 lần tuổi Hoa và cái phải tìm (cái
chưa biết): Tuổi của mẹ. Cần chú ý đến những từ ngữ nào? (tuổi mẹ gấp 6 lần
tuổi Hoa). Làm thế nào để các em dễ dàng nhận diện và xác định phép tính đúng.
Tôi hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông
qua các câu hỏi gợi ý như: Trước tiên các em phải đọc kĩ bài toán và cho biết:
Bài toán
cho biết gì? (Năm nay bé Hoa 5 tuổi )
Tuổi
mẹ gấp mấy lần tuổi Hoa? (Tuổi mẹ gấp 6 lần tuổi Hoa)
Bài toán
hỏi gì? (Năm nay mẹ bao nhiêu tuổi?)
Muốn biết năm nay mẹ bao nhiêu tuổi ta
làm phép tính gì? Nêu cách tính (5 x
6 = 30)
Muốn giải
bài toán này em thực hiện mấy bước?
Hãy đặt lời giải em cho là phù hợp
nhất.
Từ những định hướng trên học sinh tự
trình bày bài giải của mình với các cách đặt lời giải khác nhau và biết chia sẻ
cùng bạn.
- Một trong những biện pháp rèn kĩ năng tự
học cho học sinh của tôi đó là: Định hướng cho học sinh học mọi lúc, mọi nơi,
học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung. Hướng dẫn học sinh tự
tìm ra kiến thức bằng các công cụ như từ điển, sách báo, thực tế …
Ví dụ 1: Kiến thức các em có được không những học cùng cô, cùng bạn, trong các
hành vi giao tiếp, các hoạt động ngoài giờ lên lớp mà các em còn được học ở
cuộc sống xung quanh như: Buổi sáng thức dậy em xác định mặt trời mọc ở hướng
Đông từ đó để biết xác định các hướng Tây - Nam - Bắc, các em cũng có thể liên
hệ sự chuyển động của mặt trời trong một ngày; Khi ăn một gói quà, gói bánh các
em cũng có thể học Tiếng Anh về tên thức ăn, thức uống mình sử dụng (candy,
bread, milk); Cũng có thể hướng dẫn để học sinh tự học qua các tấm gương “Người
thật - việc thật”, những tấm gương gần gũi như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Họa
sĩ Lê Duy Ứng, … hay tấm gương hiếu học,
kiên trì bền bỉ vươn lên như: Bạn Hồ Thị Ái, dân tộc Bru - Vân Kiều đến từ bản Cổ
Tràng xã Trường Sơn, huyện Quảng Ninh đã nhiều năm liền đạt học sinh tiên tiến
và học sinh giỏi, giải Nhất về giới thiệu nét văn hóa và dụng cụ sản xuất của
đồng bào dân tộc Bru Vân Kiều, giải Nhì Hội thi kể chuyện Bác Hồ và Hội thi vở
sạch chữ đẹp, bạn là tấm gương sáng cho các bạn học tập và noi theo. Từ những
người thực việc thực tôi đã khơi gợi trong giúp cho các em có thêm động lực học tập, rèn luyện. Tôi cũng đã hướng dẫn các em học bằng mọi
cách thông qua các thông tin khác nhau, các phương tiên khác nhau mà đảm bảo
thời gian hợp lý: Học ý thức giữ gìn môi trường trên đường đi học, biết giữ an
toàn bản thân khi đến trường, ở nhà, biết tìm một kiến thức mới thông qua ti
vi, máy tính …
Hằng tuần hay cả trong mỗi tiết học
tôi tổ chức các trò chơi ngắn như Rung chuông vàng, Tìm nhà thông thái, Trong
đó tôi đặt các câu hỏi về kiến thức xung quanh như:
Ai là người đầu tiên lên mặt trăng?
Ai là người tìm ra Châu Mĩ?
Vì sao cây rụng lá vào mùa đông?
Vì sao khi trồng cây bóng mát người ta
lại bỏ bớt lá? ... (nguồn từ 10 vạn câu hỏi: Vì sao ?)
Thông qua các trò chơi này lâu dần học
sinh thích tìm tòi, khám phá, biết tự tìm hiểu các kiến thức xung quanh mà sách
vở chưa đề cập hết, kích thích sự tò mò, chinh phục kiến thức mà phát triển
được năng lực tự học cho các em.
Ví dụ 2: Ở lớp 3 việc tra cứu từ
điển để hiểu nghĩa tữ mặc dù còn ít nhưng đây là tiền đề để giúp các em có kĩ
năng sử dụng từ điển khi học lên lớp trên, trong một số bài, có một số từ khó
chưa hiểu nghĩa của từ, tôi đã hướng dẫn các em tra cứu để làm rõ nghĩa từ để
các em nắm chắc hơn nội dung bài đọc, nghĩa câu văn.
Khi dạy môn Tiếng Việt Bài 25A: Xem
hội thật là vui (HDH TV3 - Tập 2A, trang 87 Hoạt động 3 - HĐ cơ bản): Học sinh
dùng từ điển để hiểu nghĩa từ: tứ xứ, sới vật, khôn lường, keo vật, khố để chọn
nối từ với nghĩa đúng.
Bên cạnh đó, tôi cũng đã khuyến khích
học sinh tìm các sách báo, tạp chí phù hợp. Tôi kết hợp với giáo viên TPT Đội,
Phụ trách thư viện mượn các tập san để các em đọc lúc rảnh rỗi, đầu giờ, giữa
buổi như: Báo Chăm học, Nhi đồng, Văn học tuổi trẻ, Trạng nguyên, … Hướng dẫn
các em đánh dấu chỗ mình thích, chỗ mình cần trợ giúp của bạn, của cô giáo, ghi
lại những câu văn hay… Nhờ vậy vốn từ, kĩ năng viết câu, viết đoạn văn của học
sinh lớp tôi ngày một phong phú, tiến bộ hơn.
2.2.3. Nâng cao năng lực đánh giá:
Tại
mục 2 - Điều 3. Mục đích đánh giá - Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT cũng quy định:
“Giúp học sinh có khả năng tự nhận xét, tham gia nhận xét; tự học, tự điều
chỉnh cách học, giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ”.
Đánh giá thường xuyên là một bộ phận của kế hoạch (quá trình) dạy học. Nó tập
trung phản hồi và làm rõ thông tin về học tập, rèn luyện của học sinh; nuôi
dưỡng hứng thú, động cơ học tập của học sinh; giúp học sinh biết làm thế nào để
cải thiện thành tích học tập, rèn luyện theo mục tiêu; Hỗ trợ phát triển năng
lực tự đánh giá của HS đồng thời gia tăng sự hiểu biết về các mục tiêu và các
tiêu chí đánh giá; ghi nhận đầy đủ những cố gắng của người học và giúp giải
thích kết quả ĐGĐK. Các phương pháp và kĩ thuật đánh giá thường xuyên là: nhóm
phương pháp quan sát; nhóm phương pháp vấn đáp; nhóm phương pháp viết và một số
kĩ thuật khác, để thực hiện tốt việc đánh giá thường xuyên tôi nghiêm túc xây
dựng kế hoạch tích hợp đánh giá thường xuyên, tập luyện cho học sinh cách đánh
giá và thực hiện đánh giá thường xuyên trên lớp một cách hiệu quả. Cụ thể:
Về giáo viên: Trong dạy học, tùy nội dung từng
bài, tôi sử dụng phiếu hỏi, bảng điểm, thang đo, xây dựng tiêu chí đánh giá,
trả lời nhanh những câu hỏi mở, các trò chơi … viết ra những gì em đang suy
nghĩ/lo lắng… Tôi luôn khích lệ, định hướng các em học tập: suy ngẫm, tự đánh
giá, trả lời các câu hỏi mở và giám sát sự tiến bộ của các em thông qua quá
trình học tập, ghi chép thường nhật…
Trong thiết kế dạy học tôi đặc biệt chú trọng xây dựng bộ tiêu chí
đánh giá trong từng môn học, tiết học, từng hoạt động, làm sao để phát huy tối
đa năng lực của từng em theo từng đối tượng. Trong dạy học trên lớp, tôi luôn
bám sát các tiêu chí đánh giá đã xây dựng nhằm đánh giá chính xác mức độ đạt được
của học sinh. Tôi luôn động viên học sinh kịp thời dù chỉ là những tiến bộ nhỏ
nhất để tạo cho em hứng thú tự tin vươn lên trong học tập.
Về học
sinh: Tôi tập cho học sinh biết tự đánh giá hoạt động và kết quả đạt được của
bản thân, qua đó giúp học sinh nhận thức
sâu sắc hơn về những gì mình đã học, đã tiến bộ và những gì cần cố gắng, học
sinh biết chịu trách nhiệm trước kết quả
học tập của mình, tự tin hơn về những gì các em có thể làm được, rèn luyện được
cách tự học cho học sinh. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng cho học sinh biết đánh
giá lẫn nhau như tham gia vào việc đánh giá sản phẩm, công việc của những học
sinh khác trong nhóm, trong lớp hay quan
sát các bạn trong quá trình học tập, vì vậy thông tin mà các em có về hoạt động
của nhau mang tính chi tiết, cụ thể. Qua đánh giá hoạt động, sản phẩm của bạn, học
sinh có thể học hỏi những điểm hay rút kinh nghiệm từ những gì chưa tốt của bạn,
hình thành khả năng tự chịu trách nhiệm với những nhận xét, đánh giá của mình về
bạn học, hình thành rõ ràng hơn trong bản thân mình các yêu cầu học tập, về
cách ứng xử với người khác, từ đó điều chỉnh hay phát triển hành vi, thái độ của
bản thân.
Ví dụ: Môn Tiếng Việt 2A - Bài 26C: Chúng
em đi dự hội (HDH TV3- T2 trang 111) HĐ5 ở
HĐCB. Khi học sinh đọc bài. Tôi định hướng cho học sinh tự đánh giá
mình, đánh giá bạn bằng các câu hỏi gợi ý như: Bạn cảm thấy thế nào sau khi đọc
bài? Bạn đọc có hay hơn các bài tập đọc trước không? Bạn đọc lại từ mà bạn thấy
mình đọc chưa đúng ?... Hôm nay bạn đọc thế nào so với hôm trước? Để đọc hay
hơn theo bạn nên đọc giọng đọc thế nào?Bạn đã đi rước đèn khi nào?.. hoặc Mình
thấy bạn đọc đúng từ, ngắt nghỉ đúng câu dài, nếu bạn đọc chậm rãi câu cuối
cùng của bài thì bài đọc của bạn sẽ hay hơn.
Tuy nhiên, đánh giá lẫn nhau phụ thuộc rất
nhiều vào cảm tính của HS, khó thu thập được thông tin về những HS nhút nhát, ít
được bạn bè chú ý. Để khắc phục vấn đề này tôi thường quan tâm, động viên những
học sinh hoàn thành chậm, rụt rè, hướng dẫn học sinh khi chia sẻ dùng từ ngữ
khích lệ, động viên phù hợp.
Với
những việc làm trên, học sinh lớp tôi ngày một tiến bộ trong việc đánh giá
thường xuyên trên lớp, các em thực hiện tự nhiên, tích cực, hợp tác chia sẻ mà
không cần sự gợi ý của giáo viên. Những lời nhận xét của các em là những thông
điệp chở đầy cảm xúc tích cực, có khả năng “chạm tới trái tim” thúc đẩy hoạt
động học tập góp phần phát triển nhân cách. Quá trình trao đổi, chia sẻ, tương
tác giữa cô và trò, cũng chính là những lời tâm tình, định hướng, gợi mở giúp
học sinh nảy sinh các ý tưởng hay, tạo dựng niềm tin, nuôi dưỡng hứng thú học
tập, thúc đẩy sự nỗ lực vượt khó. Tôi cũng nhận ra rằng: chỉ những ai hiểu rõ
đánh giá giáo dục mới thấy rõ đánh giá thường xuyên bằng nhận xét quan trọng
như thế nào.
2.2.4. Tăng cường sử dụng phương tiện
dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin hợp lý
Phương tiện dạy học có vai trò quan
trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và
thí nghiệm, thực hành trong dạy học.
Trong dạy học tôi luôn phát huy tối
đa các phương tiện dạy học hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin một cách hiệu
quả nhất như: Khai thác kiến thức từ Internet; Thiết kế bài giảng E-Learning;
Thiết kế các hoạt động trình chiếu nhằm đổi mới phương pháp dạy học, kích thích
sự hứng thú học tập của học sinh trong từng tiết học.
Hướng dẫn, khuyến khích học sinh học
tập với các phần mềm hỗ trợ phù hợp góp phần nâng cao chất lượng học tập các
môn học cho các em như: Violympic Toán, IOE, Trạng nguyên Tiếng Việt, Giao
thông thông minh …
Tôi thấy rằng sử dụng CNTT và các
phương tiện dạy học hiện đại một cách hợp lí có thể tăng cường bổ trợ và nâng
cao chất lượng giáo dục, giúp quá trình dạy và học trở nên năng động, hấp dẫn,
dễ hiểu đặc biệt là phù hợp với thực tiễn cuộc sống hiện nay.
Ứng dụng CNTT trong dạy
học
2.2.5. Làm tốt công tác kết hợp với
phụ huynh
Việc phối hợp giữa nhà trường, gia
đình và xã hội trong giáo dục học sinh là một nguyên tắc cơ bản nếu muốn có sự
thành công. Sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục trên, trước là để đảm
bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt động giáo dục cùng một hướng,
một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy
quá trình phát triển nhân cách của trẻ, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân
cách. Đầu mỗi năm học, khi mới nhận lớp, tôi coi trọng việc nắm bắt các thông
tin học sinh để có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình các em; Trong cuộc họp
PHHS đầu năm tôi cẩn thận trong xây dựng kế hoạch cho cuộc họp, tổ chức buổi
họp “lấy học trò làm trung tâm”: Tôi nhận xét chi
tiết về từng học sinh và trao đổi những vấn đề bố mẹ cần quan tâm để phối hợp
với nhà trường dạy dỗ con tốt hơn, làm thế nào để bố mẹ hiểu con hơn, biết rõ
những điểm mạnh cũng như hạn chế của con. Ngoài ra, tôi giới thiệu cho phụ
huynh nắm được chương trình học của con trong năm học sẽ có những kiến thức gì,
các con cần phải chú ý và đạt được những yêu cầu như thế nào ở từng môn học…
chia sẻ với phụ huynh phương pháp kèm con học bài ở nhà để đạt hiệu quả cao và
phù hợp với cách học trên lớp. Tôi viết lên bảng một số ví dụ cụ thể cách giải
một số bài tập môn Toán và Tiếng Việt, môt số Hoạt động ứng dụng để phụ huynh
hiểu được phương pháp học của con hiện nay và hợp tác khi con học ở nhà. Qua đó
phụ huynh cả lớp đều cảm thấy thật thú vị và hào hứng, cảm thấy yên tâm mình có
thể phối hợp tốt cùng cô giáo vào việc kèm con học ở nhà. Tôi mời phụ
huynh học sinh tham gia hoặc quan sát các hoạt động dạy học, giáo dục của lớp,
hướng dẫn cha mẹ đáp ứng các yêu cầu đúng của HS trong quá trình học tập nhất
là những hoạt động học tập, sinh hoạt ở gia đình, cộng đồng (dự một tiết học,
tiết sinh hoạt lớp, tham gia cùng con, Hoạt động giao lưu tìm hiểu kiến thức
ATGT, Tổ chức Lễ hội Trung thu, Ngày hội học sinh tiểu học, Ngày hội đọc sách…); Tôi cũng thông qua mục tiêu, cách thức, tiêu chí
đánh giá theo Thông tư 22 để phụ huynh biết phối hợp trong đánh giá. Ngoài điện
thoại, viết sổ liên lạc tôi hướng dẫn phụ huynh học sinh viết phiếu đánh giá
con mình 2 lần/năm học nhằm thu thập thông tin cho đánh giá cuối kì cuối năm.
Trong dạy học, tôi đặc biệt quan tâm
đến các hoạt động ứng dụng khi ở nhà. Tôi kiểm chứng kết quả Hoạt động ứng dụng
hằng ngày để biết sự phối hợp của cha mẹ cùng các em và thấy rằng đây là một
hoạt động quan trọng thể hiện năng lực vận dụng vào cuộc sống của học sinh.
Ví dụ: Môn Toán Bài
3: Cộng các số có ba chữ số (HDH Toán 3-
T1 trang 10)
Hoạt động ứng dụng: Em hỏi mỗi người
trong nhà em cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam. Tính xem cả nhà cân nặng bao nhiêu
kg?
Để làm được bài này và
một số bài tập vận dụng khác học sinh phải có sự hợp tác của phụ huynh.
Phụ huynh cùng con thực hiện bài
tập ứng dụng (Ảnh do Phụ huynh cung cấp)
Qua kiểm tra kết quả làm hoạt động ứng dụng của học sinh, tôi cảm thấy
rất vui vì có nhiều em cùng cha mẹ thực hiện các hoạt động một cách sáng tạo, dễ
hiểu, gần gũi, góp phần cho các em vừa khắc sâu kiến thức, vừa xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp, trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình.
Bên cạnh đó phụ huynh lớp tôi cùng
tham gia các hoạt động khác rất tích như lao động xây dựng khuôn viên, trang trí
lớp học.
Phụ huynh tham gia lao động xây dựng
khuôn viên và trang trí lớp học
Trường học đẹp, phòng học khang trang là động
lực thúc đẩy học sinh hứng thú đến trường để “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
2. 3. Kết quả
Với những biện pháp trên, trong năm học qua tôi thấy việc dạy học theo
định hướng phát triển năng lực cho học sinh đã ngày một nâng cao, học sinh hoạt
động ngày một tích cực, tự giác, các tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu
quả, chất lượng toàn diện của lớp nâng lên rõ rệt. Các em tự tin, mạnh dạn, kĩ
năng được trau dồi và phát triển. Những em chưa tự tin mạnh dạn trước đây như
em Đức Thịnh, Kiều
Trang, Thế Thịnh đã biết hoạt động cá nhân, nhóm đôi, chia sẽ
bài học cùng bạn. Đa số các em đã biết tự mình hoàn thành các nhiệm vụ học tập,
biết đánh giá mình và đánh giá bạn, nhiều em biết vươn lên trong học tập.
Tôi rất vui mừng với kết quả mà lớp tôi
phụ trách đã đạt được. Tôi thiết nghĩ dạy học theo định hướng phát triển năng lực
cho học sinh là một trong những biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng toàn
diện cho học sinh.
Kết quả khảo sát cuối năm lớp tôi cụ thể như sau:
Môn |
Hoàn
thành tốt (T) |
Hoàn
thành (H) |
Chưa
hoàn thành (C) |
|||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
Toán |
16 |
48,5 |
17 |
51,5 |
0 |
0 |
Tiếng
Việt |
15 |
45,5 |
18 |
54,5 |
0 |
0 |
+
Năng lực:
Các năng lực |
Tốt (T) |
Đạt (Đ) |
Cần cố gắng(C) |
|||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
Tự phục vụ, tự quản |
27 |
81,8 |
6 |
15,2 |
0 |
0 |
Hợp tác |
25 |
75,8 |
8 |
24,2 |
0 |
0 |
Tự học và GQVĐ |
27 |
81,8 |
6 |
18,2 |
0 |
0 |
Vào đầu năm học 2018 - 2019, vận dụng
những biện pháp trên vào dạy học ở lớp mới, dù ban đầu các em còn bỡ ngỡ nhưng
tôi thấy các hoạt động trên lớp tiến bộ dần lên, hiệu quả tiết học cao hơn so với
thời điểm này năm trước. Các em dần có kĩ năng tự học, tự đánh giá, hợp tác tốt
với bạn,… Trong những bài học tiếp theo, tôi tiếp tục vận dụng những biện pháp
trên vào dạy học nhằm đưa chất lượng của lớp đạt mục tiêu đề ra.
3. KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa của sáng kiến
Dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không
chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện
năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và học tập,
đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV - HS theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh cần tôn trọng
quyền cơ bản tự phát triển, tự thể hiện, tự khẳng định mình của học sinh. Giáo
viên hoàn toàn không thể hiện uy quyền, mệnh lệnh, cưỡng ép, gò bó, áp đặt kìm
hãm sáng kiến của học sinh.
Người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với nghề, luôn tìm
tòi khám phá các cách tổ chức dạy học hay, hấp dẫn, nhẹ nhàng kết hợp với việc
phát triển năng lực cho học sinh thì chắc rằng các em sẽ phát huy hết tố chất sẵn
có của mình tự học, tự tìm tòi, hợp tác với bạn để có tri thức mới. Có như vậy
mới vươn tới mục tiêu đổi mới của giáo dục hiện nay. Làm sao để trở thành người
giáo viên biết giải thích, biết minh họa và quan trọng nhất là biết truyền cảm
hứng để các em hứng thú trong mỗi bài học, mỗi hoạt động, mỗi ứng dụng vào cuộc
sống.
Muốn nâng cao chất lượng dạy học theo định hướng phát triển năng lực
cho học sinh đòi hỏi mỗi một giáo viên phải thực hiện tốt việc hướng dẫn, rèn
luyện cho học sinh có ý thức tự học, tự khám phá, tự chiếm lĩnh kiến thức, biết
tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau; đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa học
sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên, giữa nhà trường với gia đình.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
* Với giáo viên:
Mỗi giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng linh
hoạt các hình thức dạy học, nâng cao năng lực đánh giá học sinh. Các tổ chuyên
môn cần tăng cường tổ chức các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học theo định
hướng phát triển năng lực học sinh.
* Với phụ huynh học sinh:
Cần quan tâm, hỗ trợ các em trong hoạt động học tập ở nhà (Hướng dẫn
các em làm tốt HĐ ứng dụng ở HDH), hạn chế cho các em sử dụng các thiết bị công
nghệ hiện đại như: xem ti vi quá nhiều, chơi điện thoại thông minh,… ; Tiếp tục
phát huy tinh thần nhiệt tình, tích cực trong việc tham gia các hoạt động giáo
dục ở trường;
* Với nhà trường:
Tiếp tục tổ chức các đợt tập huấn, hội thảo về đổi mới phương pháp dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh; Có kế hoạch huy động, kêu gọi
đầu tư xây dựng các khu trải nghiệm cho học sinh trong trường học; Tiếp tục động
viên, khuyến khích kịp thời những giáo viên tích cực trong việc dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho học sinh.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi vận dụng có hiệu quả nhằm
nâng cao chất lượng dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp
3 của bản thân tôi, tuy nhiên vẫn còn nhiều thiếu sót cần được bổ sung, hoàn
thiện. Rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của đồng chí đồng nghiệp để SKKN có
tính khả thi rộng rãi hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong thời
gian tới.