1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng
kiến:
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục cũng như cải cách cấp trung học
phổ thông. Việc dạy học không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà quan
trọng hơn là dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức.Quá
trình dạy học bao gồm 2 mặt liên quan chặt chẽ: Hoạt động dạy của thầy và hoạt
động học của trò. Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung
thiết kế các hoạt động của trò sao cho họ có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh
các tri thức mới dưới sự chỉ đạo của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt
động học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học không
chủ động tự giác, không có phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực của người thầy
chỉ đem lại những kết quả hạn chế.
Tuy nhiên ở các vùng miền khác nhau thì trình độ
dân trí cũng khác nhau và đối tượng học sinh cũng có sự chênh lệch nhau về
trình độ và nhận thức. Đối với học sinh miền núi, chủ yếu là học sinh dân tộc
Bru - Vân Kiều, tư duy và nhận thức của các em còn thấp hơn nhiều so với miền
xuôi, các em học rất thụ động, nhút nhát, ít có hứng thú học tập.
Làm thế nào để các em có thể chủ động chiếm lĩnh kiến thức một cách chắc chắn
và hiệu quả. Đây là vấn đề làm tôi luôn trăn trở, suy nghĩ tìm tòi và thử
nghiệm giải pháp trong quá trình dạy học.
Mặt
khác, Sinh học là một môn khoa học thực nghiệm với
nhiều kiến thức trừu tượng và được ứng dụng rộng rãi trong đời sống. Trong các phương
pháp dạy học tích cực, phương pháp sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) sẽ giúp cho học
sinh hệ thống hóa kiến thức, xác định được kiến thức cơ bản, dễ hiểu , dễ nhớ
từ đó đạt hiệu quả cao trong học tập. Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy còn
giúp học sinh rèn luyện, khả năng tự học, phát huy tính tích cực và sáng tạo
không chỉ trong học tập môn sinh học mà còn trong các môn học khác và các vấn
đề khác trong cuộc sống.
Xuất phát từ thực tế khách quan và những lí do trên, tôi
chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng bộ môn sinh học
lớp 8 bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy”.
1. 2. Điểm
mới của sáng kiến:
Xây
dựng và sử dụng bản đồ tư duy là một đề tài không mới, đã có rất nhiều thầy cô
giáo và các nhà nghiên cứu viết về vấn đề này. Tuy nhiên cái mới trong sáng
kiến này là đưa ra phương pháp thiết lập
bản đồ tư duy đơn giản nhằm giúp học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số dễ học, dễ nhớ,
khắc sâu kiến thức một cách nhanh nhất. Bước đầu giảm bớt được tâm lý
chán học môn sinh học, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng
thời đem đến cho các em cái nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn
đối với môn học sinh học.
Việc học
sinh tự vẽ sơ đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, phát triển năng khiếu hội hoạ, sở thích của học sinh, các em tự chọn màu
sắc, đường nét, các em tự sáng tác trên mỗi bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày
kiến thức của từng học sinh và sơ đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em yêu quí,
trân trọng “tác phẩm” của mình.
Bản đồ tư duy giúp học sinh ghi chép có
hiệu quả: Do đặc điểm của bản đồ tư duy nên người thiết kế bản đồ tư duy
phải chọn lọc
thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic,
vì vậy sử dụng bản đồ tư
duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành các ghi chép giúp cho việc lĩnh hội tri
thức một cách có hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 8 tại đơn vị .
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Với
tính khả thi đã đạt được của đề tài qua quá trình áp dụng một số tiết học của sinh học lớp 8 trong năm học, trong
những năm sắp tới tôi sẽ tiếp tục thực hiện phổ biến trong toàn bộ chương trình
sinh học lớp 6, 7, 9. Có thể áp dụng rộng rải ở các môn học khác và mở rộng ra
các trường THCS trong toàn ngành.
2. NỘI DUNG
2.1.Thực trạng:
Việc
đổi mới phương pháp dạy cùng với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kĩ thuật
đã và đang phần nào đạt được những yêu cầu đặt ra. Đặc biệt là phương pháp tổ
chức hoạt động nhóm của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, dạy giáo án
điện tử, ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin vào giảng dạy. Tuy nhiên,
phương pháp này đòi hỏi mất rất nhiều thời gian, trong khi một tiết học trên
lớp chỉ có 45 phút thì không đủ thời gian cho các hoạt động.
Sinh học lớp 8 đòi hỏi
nhiều tư duy để suy luận và vận dụng thực tiễn, kiến thức đa dạng phong phú,
đặc biệt là các quá trình về sự sống, các cơ chế của quá trình, lượng kiến thức
dài. Như vậy, trong quá trình dạy và học , đặc biệt đối tượng chủ yếu
là học sinh dân tộc thiểu số thường gặp một số khó khăn:
+ Học sinh học rất thụ động,
nhút nhát , ít có hứng thú học, khả năng nhớ kiến thức còn hạn chế,nhớ
trước quên sau, không hệ thống hóa được cá kiến thức đã được học.
+ Học sinh sẽ tập trung ghi bài mà không tham gia thảo luận
nhóm, hoặc chỉ tập trung thảo luận nhóm, trao đổi và quan sát hình ảnh mà không
ghi bài. Như vậy, học sinh không thể nắm được ý chính của bài để định hướng học
tập.
+ Mặt khác, hạn chế của
học sinh là chưa biết cách học, cách ghi kiến
thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc
nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật”
trong bài học, hoặc không biết liên tưởng,
liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Chất lượng bộ môn
còn thấp. Kết quả khảo sát đầu năm, khi chưa áp dụng phương pháp:
STT |
Môn |
Lớp |
TSHS |
Giỏi |
Khá |
TB |
Yếu |
Trên TB |
|||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||||
1 |
Sinh |
8A |
24 |
1 |
4.2 |
7 |
29.2 |
11 |
45.8 |
5 |
20.8 |
19 |
79.2 |
2 |
Sinh |
8B |
23 |
1 |
4.3 |
6 |
26.1 |
12 |
52.2 |
4 |
17.4 |
19 |
82.6 |
Cộng |
47 |
2 |
4.3 |
13 |
27.7 |
23 |
48.9 |
9 |
19.1 |
38 |
80.9 |
Trước thực trạng
đó, tôi đã tiến hành tìm “phương pháp sử
dụng bản đồ tư duy” để từ đó có hướng tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng học bộ môn và kĩ năng ghi nhớ kiến thức cho học
sinh.
2.2. Các giải pháp:
Qua
tìm hiểu thực tế sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn sinh học ở đơn vị bản thân đã thực hiện các giải
pháp để sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn sinh học
như sau:
2.2.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:
Đối với giáo viên, để thiết kế một sơ
đồ tư duy đối với một bài học, chúng ta có thể thiết kế bằng bảng vẽ trên giấy,
hoặc hệ thống kiến thức bằng sơ đồ trên bảng, hoặc có thể dùng phần mềm
Mindmap. Đối với phần mềm này giáo viên có thể thực hiện thành một giáo án hay
một bài giảng điện tử với kiến thức được xây dựng thành một sơ đồ, qua đó còn
có thể kết hợp để trình chiếu những nội dung cần lưu ý hay những đoạn phim có
liên quan được liên kết với sơ đồ. Qua đó có thể giúp học sinh hệ thống được
kiến thức vừa học, khắc sâu được kiến thức trọng tâm.
Đối với học sinh, trước hết giáo viên phải
giới thiệu một số sơ đồ tư duy cho các em làm quen, sau đó hướng các em từ từ
xây dựng các sơ đồ riêng cho mình. Bước đầu, chỉ yêu cầu học sinh xác định được
vấn đề trọng tâm, sau đó hệ thống các kiến thức liên quan thành sơ đồ phân
nhánh, rồi từ đó học sinh sẽ thiết kế thành nhưng sơ đồ theo tư duy của mỗi cá
nhân. Có thể áp dụng dùng sơ đồ trước hay sau khi học một bài học, với bài học
mới, có thể cho học sinh xây dựng theo một nhóm, rồi dựa vào sơ đồ học sinh sẽ
thảo luận, sau đó nhóm sẽ trình bày kiến thức theo hình thức thuyết trình dựa
trên sơ đồ đã xây dựng, sau bài học thì có thể yêu cầu học sinh tự hệ thống lại
kiến thức bằng sơ đồ theo cách riêng của mình. Việc phối hợp linh động nhiều
phương pháp trong quá trình giảng dạy, kết hợp với việc thiết lập sơ đồ tư duy
để hệ thống kiến thức đã giúp cho học sinh nắm được bài nhanh hơn và nhớ lâu
hơn.
Dựa vào nguyên tắc dạy học và tác dụng
của bản đồ tư duy chúng ta áp dụng dạy được ở nhiều dạng bài: Bài mới, ôn tập,
hệ thống chương hoặc giai đoạn, làm bài tập, đặc biệt là củng cố bài. Giáo viên
hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của bản
đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy:
(Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát
triển thêm.
Thực hiện dạy học bằng cách lập Bản
đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như
sau:
Bước 1: Học sinh lập Bản đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi
ý, hướng dẫn của giáo viên.
Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh
về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn
thiện Bản đồ tư duy về kiến thức
của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn
chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Bước 4: Củng cố kiến thức bằng
một Bản đồ tư duy mà giáo viên
đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho
học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
2.2.2. Vận dụng Bản đồ tư duy trong quá trình dạy học môn
Sinh học:
2.2.2.1. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ:
Vì thời gian kiểm tra bài cũ không
nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó,
không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường
yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh
lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của
học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng “học vẹt”,
đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc
kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ “phần nhớ”
mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa
đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng bản
đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh
đối với bài học cũ. Các bản đồ thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thiếu
thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về
mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
*Ví dụ : Trước khi học tiết
26 – Tiêu hoá ở khoang miệng sinh học 8. Giáo viên tiến hành kiểm tra bài củ
với câu hỏi sau:
Hệ tiêu hoá ở người có cấu tạo như thế nào ?
Giáo viên chiếu sơ đồ tư duy về nội dung bài Tiêu hoá và
các cơ quan tiêu hoá.
Trong đó nội dung liên quan đến câu hỏi kiểm tra bài củ
giáo viên để trống và yêu cầu học sinh lên trình bày ( hoặc điền vào những nội
dung còn thiếu)
Hoặc
giáo viên đưa ra một từ khoá (vẽ từ khoá lên bảng) nêu lên nội dung kiến thức
của bài cũ rồi yê u cầu học
sinh vẽ Bản đồ tư duy bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em tìm ra các nội
dung liên quan đến từ khóa đó để các em có thể vẽ các nhánh con và hoàn thiện
Bản đồ tư duy. Qua Bản đồ tư duy đó, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung đã học và
từ đó khắc sâu kiến thức.
...
Nguồn: ST
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/