1. Phần mở đầu:
1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng và nhà nước ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh. Yếu tố con người luôn giữ vị trí hàng đầu: “Con người ngoài việc phải có trình độ chuyên môn, năng lực hoạt động còn cần phải có sức khỏe, có thể lực mới có thể đáp ứng được nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Ngay từ những năm đầu khai sinh đất
nước, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập nha thể dục thể thao và ra lời kiêu
gọi toàn dân tập thể dục.
Từ đó giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ là một
trong những nội dung quan trọng không chỉ ở ngành Giáo dục và Đào tạo mà còn là
mối quan tâm của toàn xã hội.
Từ khi chưa có hướng đổi mới phương pháp dạy học, thì tất cả
các môn học khác cũng như bộ môn thể dục thường dạy theo lối cũ, giờ học đơn
điệu, tẻ nhạt, giáo viên thiếu nhiệt tình, chưa năng động, dụng cụ tập luyện
thiếu, học sinh vận động quá ít, chưa tích cực năng động, chơi nhiều nên chưa
đạt yêu cầu lượng vận động cần thiết đối với lứa tuổi học sinh dẫn đến thành
tích còn thấp. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cơ thể, thể chất
học sinh, chưa thúc đẩy sự phát triển toàn diện ở các em. Kết quả đạt được còn
thấp, nó thể hiện rõ qua việc đánh giá kết quả học tập ở cuối học kì, cuối năm
học. Và đặc biệt là qua các kì Hội khỏe Phù Đổng thành tích nhiều môn thể thao
- điền kinh chưa cao.
Trong các môn của điền kinh, chạy nhanh là một trong số các môn có lịch sử
phát triển lâu đời. Từ phương pháp để người xưa vượt qua các hào, rãnh trong
săn bắn, hái lượm... chạy nhanh dần trở thành một phương tiện rèn luyện để phát
triển các tố chất thể lực, đặc biệt là tốc độ, sức mạnh tốc độ, sự phát triển
linh hoạt, khéo léo và trở thành một môn thể thao.
Trong các kĩ thuật, chạy nhanh là nội dung thường được các vận động viên có
trình độ cao lựa chọn để thi đấu, đây là kĩ thuật phức tạp, hoạt động không
mang tính chu kỳ, đòi hỏi người tập phải nắm vững những tư duy động tác đồng
thời hực hiện động tác một cách nhịp nhàng, thuần thục.
Như chúng ta đã biết thành tích của các môn phụ thuộc vào hai yếu tố đó là
kĩ thuật và thể lực. Hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, có tác dụng thúc
đẩy để đạt thành tích cao. Đặc biệt là yếu tố kĩ thuật, qua kinh nghiệm thực tế
của các huấn luyện viên lâu năm và các công trình nghiên cứu khoa học thể dục
thể thao của các tác giả trong nước đã chứng minh rằng động tác kĩ thuật càng
thành thục, chính xác thì càng tiết kiệm được sức, vận dụng và phát huy được
khả năng dùng sức của cơ thể giúp nâng cao thành tích của mình.
Để đạt được mục đích đó thì mỗi giáo viên giảng dạy giáo dục thể chất phải
làm thế nào để môn thể dục thực sự trở thành môn học yêu thích của học sinh.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh còn e ngại và lười biếng tập thể dục thể thao,
nhiều em còn xem nhẹ môn thể dục. Chính vì vậy nên chất lượng giáo dục thể chất
ở một số trường chưa cao.
Hiện nay, bộ môn Thể dục cũng là một
môn học chính khóa trong nhà trường, nhằm từng bước nâng cao thể lực cho học
sinh. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Thể dục ở nhà
trường đang là vấn đề cấp thiết, cần có định hướng, đổi mới phương pháp giảng
dạy tối ưu về phía giáo viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bộ môn này cả
chiều rộng lẫn chiều sâu.
Trong chương trình Thể dục dành cho học sinh THCS, môn Điền
kinh bao gồm các môn: Chạy, Nhảy chiếm tỷ lệ lớn về nội dung, khối lượng và cả
thời gian giảng dạy. Ở các lớp 6, 7 học sinh chủ yếu học các động tác đơn giản
kết hợp với các động tác bổ trợ. Lên lớp 8, 9 yêu cầu giảng dạy môn Điền kinh
được nâng cao hơn.
Thông
qua thực tế giảng dạy kết hợp với kết quả, chất lượng học tập môn Thể dục và
các hoạt động phong trào TDTT của học sinh ở các trường mà bản thân đã từng
giảng dạy trong những năm qua, tôi đã rút ra những kinh nghiệm quý xin được
chia sẻ cùng đồng nghiệp, đó là: Đổi mới phương pháp giảng dạy kĩ thuật xuất
phát thấp cho học sinh khối 8.
1.2. Điểm mới của sáng kiến:
Đây là một sáng kiến có thể có
nhiều Thầy, Cô giáo, các đồng nghiệp qua nhiều thế hệ đã áp dụng vào những tiết dạy của mình nhưng chưa cụ thể trong phần trình
bày các giải pháp. Bằng sự tâm huyết, đam mê với nghề, với kiến thức mà tôi đã tích lũy được từ những năm
học chuyên nghiệp, hay qua các lớp tập huấn, tham khảo nhiều tài liệu, sự học
hỏi ở các bạn đồng nghiệp cùng kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm công tác tại các
trường trong và ngoài Huyện nên tôi đã đầu tư nghiên cứu tìm ra các giải pháp
mang tính khả thi để làm thế nào chất lượng bộ môn Thể dục, trong đó Điền kinh
là nội dung vô cùng quan trọng mà tôi đảm nhiệm có kết quả cao cho học sinh tại
trường mình. Cụ thể là tạo được sự hưng phấn, sự yêu thích của học sinh nâng
cao được lượng vận động mà không cảm thấy mệt mỏi, nhàm chán. Ý thức tổ chức kỷ
luật được nâng cao, giáo dục được tính nhanh nhẹn, sự phản xạ nhanh. Tạo được
cảm giác thoải mái, không bị nhàm chán khi học môn Thể dục, đặc biệt là trong
quá trình tập luyện đội tuyển tham gia các kỳ Hội khỏe Phù Đổng cấp Huyện, Tỉnh.
2. Phần nội dung:
2.1. Thực trạng của sáng
kiến cần giải
quyết:
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, giáo viên giảng
dạy bộ môn Thể dục phần lớn ở độ tuổi đang còn trẻ, ít kinh nghiệm. Bộ
môn Thể dục ít được quan tâm, chú trọng trong nhà trường do nhiều vấn đề khách
quan lẫn chủ quan. Giáo viên ít được tham gia bồi dưỡng tập huấn về chuyên môn,
dự giờ, thao giảng, chuyên đề nên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay. Số tiết quy định trên tuần của bộ môn
Thể dục cũng ít hơn so với một số bộ môn khác nên quá trình học hỏi từ đồng
nghiệp cũng gặp những khó khăn nhất định. Những trường có số lớp ít có khi chỉ
có một giáo viên dạy bộ môn Thể dục nên việc trao đổi về chuyên môn trong
trường gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá
trình giảng dạy còn nặng về phân tích kỹ thuật, động tác làm mất thời gian tiết
dạy.
Đối với học sinh nhiều em không
thích học môn Thể dục với nhiều lý do khác nhau: hoặc do sức khoẻ, hoặc chưa có
sự đam mê nên các em còn thực hiện một cách đối phó. Giáo viên yêu cầu thực
hiện thì thực hiện còn không là miễn cưỡng làm cho xong, chính vì thế mà các em
xem nhẹ bộ môn Thể dục, giờ học chưa sinh động chưa tạo được sự hấp dẫn, sự lặp
đi, lặp lại của bài tập nhiều lần trong một tiết học. Thêm vào đó đại đa số phụ
huynh chưa có sự nhìn nhận đúng đắn về môn Thể dục sẽ mang lại gì cho con em
nên chưa có sự động viên khích lệ các em học, đặc biệt là các em có tố chất thể
thao đủ điều kiện để tham gia các đội tuyển đi thi Hội khỏe Phù Đổng Huyện,
Tỉnh.
Mặt khác, do có các quán
Internet xung quanh trường học làm cho một số học sinh chưa hiểu hết về tầm
quan trọng của môn học. Chính vì thế mà các em luôn tìm cách bỏ tiết, bỏ giờ khi
đi học trái buổi để ngồi hàng giờ ở các quán Internet với các trò chơi nguy hại
đến sức khỏe mà gia đình cũng như Thầy, Cô không hay biết.
* Khảo sát thực tế:
Trước khi nghiên cứu sáng
kiến này, tôi đã khảo sát sự hứng thú của môn Điền kinh ở 3 lớp mà tôi trực
tiếp giảng dạy:
- Nội dung khảo sát:
Câu 1. Thái độ học tập
môn Điền kinh của các em là:
A- Rất thích; B- Thích;
C- Bình thường; D- Không thích.
Câu 2. Khi tham gia tập
luyện thái độ học tập như thế nào?
A- Tham gia tích cực; B- Tham gia thụ
động; C- Đứng quan sát.
Hãy khoanh tròn chữ cái đứng trước
câu trả lời của em.
- Kết quả:
Câu 1:
Lớp |
Tổng |
Rất thích |
Thích |
Bình thường |
Không thích |
81 |
31 |
8 |
18 |
5 |
0 |
82 |
29 |
9 |
16 |
4 |
0 |
83 |
30 |
11 |
17 |
2 |
0 |
Câu 2:
Lớp |
Tổng |
Tham gia tích cực |
Tham gia thụ động |
Đứng quan sát |
81 |
31 |
20 |
11 |
0 |
82 |
29 |
22 |
7 |
0 |
83 |
30 |
22 |
8 |
0 |
- Kết quả khảo sát sự yêu
thích học môn Điền kinh của 3 lớp tôi trực tiếp giảng dạy tại trường THCS “A”
trước khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm như sau:
Lớp |
Sĩ số |
Đạt |
Chưa đạt |
||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
||
81 |
31 |
24 |
77,4 |
7 |
22,6 |
82 |
29 |
24 |
82,8 |
5 |
17,2 |
83 |
30 |
22 |
73,3 |
8 |
26,7 |
2.2. Những biện pháp -
giải pháp đã thực hiện:
2.2.1. Nội dung của kiến thức cần đạt:
Một tiết học Thể dục gồm
3 phần: Phần mở đầu, phần cơ bản, phần kết thúc.
* Phần mở đầu. (Từ 7 - 10 phút):
Qua thực tế, khi giờ học
lấy học sinh làm trung tâm thì đòi hỏi học sinh tự giác tập trung lớp học dưới
sự chỉ huy của lớp trưởng, tiếp đó lớp trưởng điều khiển lớp tập bài khởi động
chung với các động tác phát triển chung và khởi động chuyên môn như: quay các
khớp, tập các động tác bổ trợ cho kĩ thuật chạy ngắn như: chạy bước nhỏ, chạy
nâng cao đùi, chạy đạp sau, chạy tăng tốc. Cuối cùng là giáo viên nhận lớp, phổ
biến nội dung và nhiệm vụ của tiết học.
Ví dụ: Khi dạy kĩ thuật
xuất phát thấp. Sau khi lớp trưởng cho cả lớp tự giác khởi động các bài tập kể
trên, giáo viên sẽ cho các em tập thêm động tác bổ trợ đánh tay trong khi chạy
ngay sau khi khởi động xong, tiếp đó mới cho các em dồn hàng để làm thủ tục
nhận lớp đi vào các phần tiếp theo của bài. Điều đó giúp cho tiết học vừa rút
ngắn được thời gian cho phần mở đầu, vừa có tác dụng giáo dục sự nhanh nhẹn, ý
thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể cao, thói quen rèn luyện của mỗi một học
sinh và phát huy được vai trò của lớp trưởng một cách hiệu quả nhất.
* Phần cơ bản. (Từ 25 - 30 phút):
Sau
khi cho học sinh thực hiện động tác bổ trợ đánh tay trong khi chạy thì giáo
viên mới tập trung các em, củng cố lại những kiến thức cũ đã được học ở những
giờ học trước thông qua một số câu hỏi sau:
+
Kĩ thuật chạy ngắn được chia thành mấy giai đoạn ?
+
Trong các giai đoạn đó giai đoạn nào là quan trọng nhất? vì sao?
Giáo
viên cho các em trả lời từng câu hỏi một, tiếp đến giáo viên nhắc lại và củng
cố kiến thức của giai đoạn xuất phát thấp của kĩ thuật chạy ngắn. Đó là kĩ
thuật chạy ngắn được chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn xuất phát - Giai đoạn chạy
lao - Giai đoạn chạy giữa quãng - Giai đoạn về đích. Giai đoạn quan trọng nhất,
quyết định đến thành tích trong chạy ngắn là giai đoạn chạy giữa quãng. Vì đây
là giai đoạn có quãng đường dài nhất, nếu giai đoạn này mà các em k có tố chất,
thể lực tốt thì các em sẽ không có được thành tích tốt. Trong khi chạy phải phối
hợp nhịp nhàng giữa đánh tay với bước chạy, khi chạy phải tăng dần tốc độ trong
suốt quãng đường và duy trì tốc độ tối đa đến hết cự ly, chân tiếp xúc với đất
phải bằng nữa bàn chân trước, thân người thả lỏng, chạy thẳng hướng trên một
đường thẳng, không được quay về sau, trong quá trình chạy hạn chế hít thở quá
nhiều. Nếu không thực hiện tốt những yêu cầu đó thì sẽ không mang lại hiệu quả
cho giai đoạn này.
Xen
lẫn trong quá trình tập luyện của tiết học, giáo viên đưa ra một số câu hỏi để
dẫn dắt học sinh vào bài mới, đó là:
+
Em hãy cho biết ở lớp 6, 7 các em đã được học kĩ thuật xuất phát gì ?
+ Ở lớp 8 thì các em được
học kĩ thuật xuất phát gì trong chạy ngắn ?
+ Em hãy kể tên 4 giai
đoạn của kĩ thuật chạy ngắn mà em đã được học ?
+
Trong thi đấu Điền kinh, vận động viên thường dùng loại xuất phát gì ?
+
Khi xuất phát các vận động viên sử dụng gì khi chạy ?
…
Giáo
viên cho các em làm quen và biết cách đóng bàn đạp thông qua tranh vẽ: Vị trí
đóng bàn đạp thường được tính bằng độ dài của bàn chân đo nối tiếp nhau từ mép
vạch xuất phát ra phía sau. Tùy theo khổ người và trình độ tập luyện của mỗi
người mà có nhiều cách đóng bàn đạp khác nhau.
Cách đóng bàn đạp xuất phát cơ bản
đối với học sinh cấp THCS:
Song song với việc cho
các em quan sát tranh vẽ thì giáo viên gọi 3 - 5 em lên thực hiện các cách bố
trí bàn đạp, các em còn lại đứng quan sát các bạn thực hiện. Từ đó mà giúp các
em củng cố được kiến thức đã học và biết được cách đóng bàn đạp mà các vận động
viên chuyên nghiệp thực hiện khi thi đấu các giải khi xem ở truyền hình.
Khi
các em đã nắm được cách đóng và bố trí các bàn đạp, giáo viên phân tích và thị
phạm từng giai đoạn của kĩ thuật xuất phát thấp. Các động tác của kĩ thuật xuất
phát được thực hiện tương ứng với 3 khẩu lệnh: “Vào chỗ”, “Sẵn sàng” và “Chạy !”.
Tiếp
đó giáo viên làm mẫu, thị phạm lại toàn bộ kĩ thuật xuất phát thấp với 3 khẩu
lệnh: “Vào chỗ”, “Sẵn sàng” và “Chạy !”. Thông qua tranh vẽ minh họa cùng với
động tác làm mẫu, thị phạm của giáo viên thì các em sẽ tư duy động tác được
nhanh, đúng và chính xác. Giáo viên cho gọi lớp trưởng và các em được phân công
làm tổ trưởng lên tập luyện trước và sửa sai kỹ thuật cho các em để các em nắm
rõ, qua đó có thể tự sửa sai cho người khác trong quá trình tập luyện.
Sau
khi các em đã nắm được kĩ thuật động tác, giáo viên cho các em dàn hàng ngang.
Giáo viên cho kẻ trước mỗi hàng ngang một vạch chừng 1m và lấy đó làm vạch xuất
phát để cho các em luyện tập. Giáo viên cho các em tập theo khẩu lệnh “Vào
chỗ”. Khi các em thực hiện động tác vào vị trí xuất phát, giáo viên cho học
sinh giữ nguyên tư thế để lớp trưởng cùng các em tổ trưởng đi kiểm tra từng
hàng, sửa cho các bạn còn làm sai như khoảng cách giữa hai tay, hai chân, tay
tiếp xúc với đất… Tiếp đó giáo viên cho các em tập giai đoạn tiếp theo là giai
đoạn “Sẵn sàng”, giáo viên lưu ý các em về cách chuyển trọng tâm từ chân sau
sang vai, hai tay và chân trước, cách đổ vai và hô khẩu lệnh cho học sinh thực
hiện.
Ở giai đoạn này, giáo
viên cũng cho học sinh giữ nguyên tư thế để kiểm tra và sửa sai khi cần. Sau
khi uốn nắn sửa sai, giáo viên cho các em ôn lại giai đoạn “Vào chỗ”, và tập
tiếp giai đoạn “Sẵn sàng” từ 3 - 5 lần. Tiếp đó giáo viên cho các em thả lỏng
tại chỗ, đồng thời nhắc các em về giai đoạn “Chạy”, khi chạy chú ý động tác đạp
chân, cách đánh tay để giữ thăng bằng trong quá trình chạy. Giáo viên cho các
em thực hiện đầy đủ 3 giai đoạn, đó là: “Vào chỗ”, “Sẵn sàng” và “Chạy” khoảng
10 - 15m.
Sau
khi cho lớp tập xong 3 giai đoạn của kĩ thuật xuất phát thấp, giáo viên cho các
em tập theo nhóm. Mỗi nhóm từ 5 đến 7 học sinh dưới sự chỉ huy của lớp trưởng
và các tổ trưởng luyện tập kĩ thuật xuất phát thấp. Các em phải phát huy được
tính tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật, tích cực tập luyện luân phiên nhau. Giáo
viên đi kiểm tra, nhắc nhở khi các em làm sai, chú ý tư thế đánh tay để giữ
thăng bằng trong khi chạy.
Việc phân nhóm nhỏ tập
luyện giúp thời lượng tập luyện quay vòng của các em nhiều hơn, đảm bảo lượng
vận động của các em được phát huy tối đa nhất.
Giáo
viên gọi 3 - 5em bất kỳ lên thực hiện lại toàn bộ kĩ thuật xuất phát thấp để cả
lớp cùng quan sát và cho lớp nhận xét sau khi các bạn thực hiện xong.
Cuối cùng giáo viên củng
cố lại cách đo cũng như vị trí đặt bàn đạp và đặc biệt là 4 giai đoạn của kĩ
thuật xuất phát thấp để các em nắm một lần nữa.
* Phần kết thúc (Từ 5 - 10 phút):
Giáo
viên cho các em thả lỏng, thư giãn cơ bắp sau khi các em đã trải qua quá trình
tập luyện vất vả. Cuối cùng, giáo viên nhận xét về ưu, khuyết điểm mà các em đã
tập tập luyện và củng cố lại kiến thức cần nắm cũng như hướng dẫn các em về nhà
tập luyện thêm.
2.2.2. Áp dụng một số bài tập có hiệu quả gây hứng thú tập luyện:
a. Một số động tác
bổ trợ và phát triển thể lực:
TT |
Tên
bài tập |
Cách
thức thực hiện |
Yếu
tố kĩ thuật cần chú ý |
1 |
Đứng
mặt hướng chạy - xuất phát |
Thực hiện cá
nhân. |
Đứng hai bàn
chân song song sát vào nhau, mũi bàn chân sát vạch xuất phát. |
2 |
Ngồi
- xuất phát |
Thực hiện cá
nhân. |
Hai
bàn chân chạm đất bằng nửa bàn chân trên. |
3 |
Xuất phát cao |
Thực hiện cá
nhân. |
Chân khỏe trước,
sát sau vạch xuất phát. Trọng tâm dồn đều vào hai chân |
b.
Một số trò chơi nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh.
- Chạy đuổi.
- Chạy tốc độ cao.
- Chạy theo hiệu lệnh
còi.
- Chạy tiếp sức.
- Lò cò tiếp sức.
- Chạy thoi tiếp sức.
2.2.3. Tổ chức các trò chơi bổ trợ và khuyến khích học sinh tập luyện ở nhà.
Trong
tiết học thể dục có xen kẻ nhiều trò chơi và hấp dẫn bao giờ học sinh cũng
thích thú. Nắm được đặc điểm này tôi luôn luôn tạo ra không khí vui vẻ và thi
đua trong lớp, giúp học sinh hoàn thành nhanh các bài tập, đồng thời nâng cao
kết quả học tập của từng học sinh.
Khuyến khích học sinh về nhà tập thể
dục (không nhất thiết là các bài tập trên lớp). Điều đó giúp các em ham thích
hoạt động và có sức khỏe hơn, không uể oải trong giờ học thể dục.
Ví dụ như: Tôi khuyến khích các em về buổi sáng
hoặc chiều có thể chạy bộ, đá bóng, đánh cầu lông...Đó cũng chính là cách tập
luyện ở nhà của mỗi học sinh.
Cùng với đó là tổ chức các trò chơi liên quan đến
nội dung học cho phù hợp để tăng thêm phần hứng khởi cho các em giúp các em tập
luyện tích cực hơn.
Ví dụ như: Chạy tiếp sức – bổ trợ cho giai đoạn
chạy giữa quãng.
Kết hợp với nhà trường tổ chức thi các môn thể thao
nhằm làm cho học sinh thêm yêu thích môn học hơn hổ trợ cho giáo viên tuyển chọ
học sinh có năng khiếu tham gia vào các đội tuyển.
2.2.4. Các biện pháp thực hiện trên lớp:
* Khâu
kiểm tra:
Cần kiểm tra độ an toàn của sân tập, dụng cụ học tập và kiểm tra sự chuẩn bị trang phục tập luyện của học sinh. Đây là khâu quan trọng vì nếu không
kiểm tra kỹ thì giáo viên sẽ không làm chủ được tiết dạy, độ an toàn của việc
tập luyện không cao, tâm lí học sinh không thật sự vững vàng khi bước vào giờ
học.
* Giải thích kĩ thuật
động tác cần ngắn gọn, chính xác:
Không nhất thiết phải giải thích kỹ quá. Khi học sinh đã học những vấn đề
cơ bản ở các tiết trước không cần nhắc lại. Xen kẽ giữa hai lần tập giáo viên
nên cho học sinh nghỉ một cách tích cực để giáo viên giải thích thêm những điều
học sinh chưa hiểu kỹ, củng cố và bổ sung những kiến thức có liên quan. Như vậy
học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với luyện tập để nắm vững, củng cố và
nâng cao kiến thức, kĩ năng vận động và rèn luyện thể lực cho học sinh.
* Phối hợp khởi động
và các bài tập bổ trợ:
Thông
thường giáo viên cho học sinh tập bài khởi động, tiếp đến là bài tập bổ trợ cho
nội dung bài học. Khi thực hiện như vậy sẽ làm mất thời gian, vì vậy giáo viên
có thể cho học sinh kết hợp hai bài tập thành một. Để làm được điều này giáo
viên cần căn cứ vào từng tiết dạy để chọn những động tác vừa có tác dụng khởi
động, vừa có tác dụng bổ trợ cho các động tác chính mà học sinh sẽ học tiếp
ngay sau đó.
* Kết hợp làm mẫu của
giáo viên với việc sử dụng tranh kĩ thuật:
Việc
làm mẫu của giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu khi lên
lớp, nếu không làm mẫu chuẩn thì học sinh sẽ không nắm được kĩ thuật dẫn đến
việc tập luyện sẽ không chính xác, đặc biệt là khi dạy kĩ thuật mới. Tuy nhiên
do nhiều nguyên nhân: trình độ chuyên môn, sức khoẻ, năng khiếu thể thao của
giáo viên nên việc làm mẫu của giáo viên còn gặp nhiều hạn chế nhất định như:
làm mẫu không chuẩn, không dứt khoát, không rõ kĩ thuật dẫn đến việc
nắm bắt kĩ thuật của các em k tốt.
Để khắc phục những
hạn chế đó, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh kĩ thuật
giới thiệu và phân
tích để học sinh nhận biết kĩ thuật, động tác dễ hơn. Mặt khác, học sinh vừa
học vừa đối chiếu với hình vẽ để tự sửa chữa những kĩ thuật còn chưa đúng của
mình. Nhưng cũng không nên lạm dụng tranh vẽ, mà phải suy nghĩ và tính toán xem
sử dụng tranh kĩ thuật vào thời điểm nào, sử dụng như thế nào để phát huy được
tác dụng của tranh kĩ thuật, học sinh có ấn tượng sâu và có hứng thú trong quá
trình học tập.
* Tổ chức lên lớp phải
thực sự khoa học:
Việc tổ chức học sinh luyện tập là khâu quan trọng và then chốt. Những tiết
dạy của giáo viên chưa thành công cũng phần lớn là do khâu tổ chức luyện tập
cho học sinh còn yếu. Các nhóm, tổ hoạt động không thường xuyên,
giáo viên phân việc chưa khoa học hoặc giáo viên không có kỹ năng bao quát,
quản lí học sinh... Điều đó làm ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả của bài dạy,
và như vậy kĩ năng vận động không thành, thể lực cũng không đạt.
Do vậy, ngay từ khi soạn bài, chuẩn bị cho bài lên lớp giáo viên phải tính
đến khâu tổ chức luyện tập thực sự khoa học, thể hiện ở những nội dung sau:
- Vị trí luyện tập để học sinh quan sát được tranh kĩ thuật hay người làm
mẫu.
- Khoảng cách đứng cách nhau bao nhiêu để không ảnh hưởng đến nhóm, tổ
khác.
* Tổ chức trò chơi:
Thường xuyên tổ chức các trò chơi để gây hứng thú học tập. Giáo viên nghiên
cứu kỹ các hoạt động và chuyển một số hoạt động thành trò chơi để thay đổi
không khí học tập.
* Công tác kiểm tra, đánh giá:
Việc kiểm tra, đánh giá chiếm vị trí rất quan trọng. Nếu việc kiểm tra,
đánh giá không thường xuyên sẽ dẫn đến việc học sinh chủ quan, xem nhẹ và không
chú ý học tập và rèn luyện.
2.2.5. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên:
* Nguyên nhân chủ quan.
- Đối với giáo viên:
Bên cạnh những giáo viên rất nhiệt tình, tận tụy, không ngừng
học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để nâng cao chất lượng các giờ học nói chung và
chất lượng của việc dạy học tự chọn trong môn Thể dục nói riêng thì vẫn còn một
số ít giáo viên chưa thực sự nhận biết được tầm quan trọng của việc đưa những
phương pháp vào giảng dạy dẫn đến hiệu quả giờ học chưa cao. Ngoài ra, một số
giáo viên chưa có phương pháp phù hợp và hiệu quả. Có giáo viên do phương pháp
yếu nên học sinh thực hiện các động tác trong môn học chưa hiệu quả, hoặc đưa
ra phương pháp chưa lôi cuốn được học sinh, thị phạm động tác còn chưa dứt
khoát nên học sinh làm theo cái sai của chính giáo viên dạy.
-
Đối với học sinh:
Bên
cạnh những học sinh có ý thức học, có ý thức tập luyện, thì còn rất nhiều học
sinh chưa thực sự nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn, còn uể oải, lười
vận động, thực hiện các động tác còn chưa tập trung, mang tính chất chiếu lệ,
đối phó, một số em còn sợ khi tập luyện vì thế tập luyện không tích cực dẫn tới
chất lượng các giờ học Thể dục chưa đạt kết quả cao như mong muốn.
*
Nguyên nhân khách quan:
-
Đối với giáo viên:
Do
lượng thời gian cho mỗi tiết học còn ít nên giáo viên không quan tâm hết mọi
học sinh trong lớp, chỉ quan tâm đến các em thực hiên tốt và khá tốt.
Do
cơ sở vật chất, đồ dùng thiết bị dạy học cũng chưa thực sự đầy đủ, đáp
ứng được yêu cầu cần thiết nên có ảnh hưởng tới chất lượng giờ học.
Do
môn thể dục ở các trường không được coi trọng ở trường trung học cơ sở nên giáo
viên chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức tới việc nghiên cứu phương pháp vào
bài dạy.
-
Đối với học sinh :
Do
học sinh chưa thực sự nhận được hướng dẫn của giáo viên, chưa nhận được sự quan
tâm đúng mực của các phụ huynh ...nên hiện thực học sinh còn yếu trong các
trường trung học cơ sở.
2.2.6. Kết quả thực hiện sáng
kiến:
Nhờ áp dụng các giải pháp
trên mà trong những năm gần đây chất lượng dạy học môn Thể dục và chất lượng
thành tích thi đấu thể dục thể thao mà tôi đảm nhận đã có bước tiến bộ rõ rệt.
Qua quá trình vận dụng vào trong giảng dạy tôi đã chọn lọc rất nhiều bài tập bổ trợ lồng ghép vào
quá trình dạy học nên bước đầu đã đạt được những dấu hiệu tích cực cho học
sinh: Học sinh chăm chú lắng nghe thầy, cô giảng bài,
nổ lực tập luyện để hoàn thành nhiệm vụ bài học. Kích thích được tính hiếu động
của học sinh, học sinh thích học môn Thể dục nhiều hơn, chất lượng môn học và
thể lực của các em được nâng lên:
Lớp |
Tổng |
Rất thích |
Thích |
Bình thường |
Không thích |
81 |
31 |
17 |
13 |
1 |
0 |
82 |
29 |
14 |
14 |
1 |
0 |
83 |
30 |
16 |
14 |
0 |
0 |
-
Kết quả khảo sát chất lượng sau khi kết thúc bộ môn học Điền kinh của 3 lớp tôi trực tiếp giảng dạy
tại trường THCS “A” sau khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm như sau:
Lớp |
Sĩ số |
Đạt |
Chưa đạt |
||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
||
81 |
31 |
31 |
100,0 |
0 |
0,0 |
82 |
29 |
28 |
96,6 |
1 |
3,4 |
83 |
30 |
29 |
96,7 |
1 |
3,3 |
Từ kết quả trên để kiểm
chứng việc lựa chọn nhiều phương pháp vào giảng dạy đã đem lại kết quả cao hơn
nhiều so với đầu năm học chưa áp dụng trước đó, cũng như sự yêu thích của học
sinh đã tăng rất nhiều, các em đã yêu thích môn học nhiều hơn, không còn lo sợ
và thờ ơ với nội dung bài học. Từ kết quả trên cho phép tôi đưa ra bài học sau
kinh nghiệm sau khi giảng dạy phần “Đổi
mới phương pháp giảng dạy kĩ thuật xuất phát thấp cho học sinh khối 8”:
- Nội dung chương trình phải xây dựng cho
thật phù hợp với đối tượng của học sinh, không yêu cầu cao quá đối với học sinh
có tố chất trung bình cũng như bài tập không đơn điệu quá đối với những em có
tố chất tốt. Trong đó đặc biệt chú ý đến một số em còn yếu (năng khiếu) để có
bài tập bổ trợ dẫn dắt riêng. Chú ý đến những em có năng khiếu, các bài
tập dành cho những học sinh này phải mang tính sinh động, hấp dẫn để lôi cuốn
các em.
- Phương pháp sử dụng dạy học giáo viên nên chọn phương pháp
phân nhóm, quay vòng. Những học sinh yếu hơn cho tập riêng các
bài tập dễ hơn và chậm hơn so với các em có năng khiếu.
- Sử dụng cán sự lớp hoặc những em có năng khiếu để sửa sai cho nhóm có
trình độ tiếp thu kĩ thuật chậm.
- Đồ dùng dạy học cần phải đủ, phù hợp để học sinh tập
luyện, tránh tình trạng 2 - 4 em tập cả
lớp ngồi xem.
- Khuyến khích được học sinh tự giác trong tập luyện ở trường cũng như ở
nhà bằng hình thức thi đấu giữa các nhóm, tổ.
3. Phần kết luận:
3.1. Ý nghĩa, phạm vi ứng dụng của sáng
kiến:
Qua một
năm nghiên cứu và áp dụng sáng kiến này, tôi nhận thấy
các em đã hiểu được vai trò, tác dụng của việc học tập môn Thể dục nói chung và
môn chạy ngắn nói riêng, trong đó kĩ thuật xuất phát thấp hết sức quan trọng.
Các em đã biết tự tập luyện, nâng cao thành tích, hầu hết các em đều ham thích
học môn này. Qua đây, tôi hứng thú hơn trong công tác chuyên môn, giảng dạy
chương trình chính khóa cũng như huấn luyện tham gia thi các giải đạt kết quả.
Năm học trước tôi nhận thấy, các em khi tập luyện còn chưa nhiệt tình, sợ tập
thể dục, kết quả giảng dạy bộ môn còn chưa cao, học sinh tham gia các giải mới
chỉ dừng lại ở cấp Huyện, chưa có cấp Tỉnh. Các em chưa thực sự hiểu được vai
trò, tác dụng của việc học tập môn Thể dục nói chung và môn chạy cự lý ngắn nói
riêng, trong đó có kĩ thuật xuất phát thấp. Giờ học còn gò bó,
nặng nề. Nhưng với lòng say mê nghề nghiệp, tôi thường xuyên tham gia dự giờ,
trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, không ngừng học tập, nhất là trong kỳ thi giáo
viên dạy giỏi. Giáo viên đã khắc phục được các nhược điểm, phát huy được khả
năng sở trường của học sinh tạo phong trào thể dục thể thao trong nhà trường
sôi nổi góp phần đưa thành tích thể dục thể thao của nhà trường ngày một đi lên.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã thay đổi phương pháp dạy sao cho phù hợp với
đặc điểm lứa tuổi ở các khối lớp. Qua việc nghiên cứu và thể nghiệm sáng kiến
vào thực tế giảng dạy, tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
- Nâng cao hứng thú và chất lượng tiếp
thu các bài tập, động tác ở học sinh. Do đó, học sinh đạt kết quả khá - giỏi
cao và không còn học sinh yếu - kém mô thể dục. Qua giảng dạy, tôi khắc phục
được tình trạng không đồng đều giữa các em đáp ứng yêu cầu của chương trình thể
dục mới.
- Hoạt động tập luyện của các em diễn
ra chủ động tích cực, mạnh dạn hơn. Qua tập luyện, tôi đã phát hiện và động
viên các em tham gia thi thể thao các cấp và đạt kết quả cao.
- Quỹ thời gian giáo viên hoạt động
giảm dần và tăng dần hoạt động tập luyện của học sinh. Lúc này người giáo viên
với vai trò hướng dẫn động tác, quan sát tập luyện và củng cố động tác, bài tập
kĩ thuật cho học sinh.
- Tạo không khí vui vẻ và thi đua sôi nổi cho
tất cả học sinh tham gia vào trò chơi để nâng cao chất lượng tiết học. Đồng
thời khuyến khích học sinh tập luyện ở nhà.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Qua sáng kiến kinh nghiệm
này, xin được đề xuất một số ý kiến kiến nghị sau:
- Nhà trường cần đầu tư
mua sắm tài liệu chuyên môn, đồ dung tập luyện đủ, đảm bảo tiêu chuẩn, kịp thời
để công tác học tập và tập luyện không bị gián đoạn.
- Tham mưu với chính
quyền địa phương mở rộng khuôn viên sân thể dục đảm bảo theo quy định, tạo điều
kiện tốt cho việc dạy và tập luyện.
- Tuyên truyền với các bậc
phụ huynh và học sinh tác dụng, lợi ích của tập luyện Thể dục nói riêng và các môn thể thao
khác nói chung, từ đó nhờ sự giúp sức của phụ huynh trên một số mặt của công tác
tập luyện.
- Giáo viên cần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để khi tập
luyện không lúng túng, yếu về chuyên môn trước học sinh của mình.
- Thường xuyên tổ chức
các cuộc thi năng khiếu để các em bộc lộ những kĩ năng học được của mình, từ đó
có cơ tham gia tập luyện nâng cao hơn nữa kĩ thuật và
thành tích của mình đã
tiếp thu được.
- Cần đảm bảo chất lượng
giảng dạy chính khoá môn thể dục, quan tâm phát triển ngoại khoá các môn thể
thao.
- Khuyến khích, động viên giáo viên tìm tòi và
đưa các trò chơi vận động
phù hợp với yêu cầu từng bài học và đặc điểm sức khỏe, giới tính của từng học
sinh vào bài dạy một cách sinh động, lôi cuốn các em.
- Người giáo viên phải
kết hợp linh hoạt giữa đánh giá kiểm tra của Thầy với tự đánh giá của trò. Qua
đó uốn nắn, động viên, nhắc nhở sửa chữa cho phù hợp và hiệu quả với từng cá
nhân học sinh.
Trên đây là những kinh
nghiệm nhỏ, một vài phương pháp dạy mà cá nhân tôi rút ra được qua quá trình
giảng dạy nên không tránh khỏi thiếu sót mong rằng qua sáng kiến này nhận được
sự đóng góp ý kiến của cấp trên, của các đồng nghiệp để sáng kiến này hoàn
thiện hơn, được áp dụng rộng rãi hơn. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy môn Thể dục nói riêng và chất lượng giáo dục thể chất nói chung.
Mục lục Trang
1. Phần mở đầu:……………………………………………………………….
1.1. Lí do chọn sáng kiến:…………………………………………………….
1.2. Điểm mới của sáng kiến:…………………………………………………
2. Phần nội dung:................................................................................................
2.1. Thực trạng của sáng kiến
cần giải quyết:.....................................................
2.2. Những biện pháp - giải pháp đã
thực hiện:………………………………..
2.2.1. Nội dung của kiến thức cần
đạt:…………………………………………
2.2.2. Áp dụng một số bài tập có hiệu
quả gây hứng thú tập luyện:……………
2.2.3. Tổ chức các trò chơi bổ trợ và khuyến khích học sinh tập luyện ở nhà:….
2.2.4. Các biện
pháp thực hiện trên lớp:.............................................................
2.2.5. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên:..........................................................
2.2.6. Kết quả thực hiện sáng kiến:……………………………………………
3. Phần kết luận:................................................................................................
3.1. Ý nghĩa,
phạm vi ứng dụng của sáng kiến:................................................
3.2. Kiến nghị, đề xuất:……………………………………………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thứ tự |
Tên sách |
Tên tác giả |
Nhà xuất bản |
Năm xuất bản |
1 |
Sách giáo viên
thể dục 6. |
Trần Đồng Lâm |
Giáo dục Việt
Nam |
2002 |
2 |
Sách giáo viên
thể dục 7. |
Trần Đồng Lâm |
Giáo dục Việt
Nam |
2003 |
3 |
Sách giáo viên
thể dục 8. |
Trần Đồng Lâm |
Giáo dục Việt
Nam |
2004 |
4 |
Sách giáo viên
thể dục 9. |
Trần Đồng Lâm |
Giáo dục Việt
Nam |
2005 |
5 |
Bác Hồ với thể
thao Việt Nam |
PGS: Lê Bửu |
TDTT Hà Nội |
1995 |
6 |
Sách Điền kinh |
Đồng tác giả |
TDTT Hà Nội |
2000 |
7 |
Lý luận và
phương pháp thể dục thể thao. |
PGS-PTS:
Nguyễn Toán GS-PTS: Lê Văn Lẫm PTS: Phạm Duy Tốn |
TDTT Hà Nội |
2000 |