Skkn Rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 4

 


        1. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn sáng kiến

Để đáp ứng các nhu cầu thực tiễn, góp phần thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước thì giáo dục đã và đang có những đổi mới. Việc đổi mới đó được thực hiện với tất cả các cấp học. Đại hội Đảng lần thứ XII (2016), Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ tổng quát có liên quan đến giáo dục và đào tạo là “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước”. Cùng với quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Để tạo một bước chuyển mới trong giáo dục, Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Quy định đánh giá học sinh tiểu học; Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. Trong đó, nội dung rèn năng lực tự phục vụ, tự quản là một trong những nội dung cần thiết trong đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh và là một trong những căn cứ xét hoàn thành chương trình lớp học.

Kế thừa và phát huy những ưu điểm của đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới. Đổi mới việc đánh giá thường xuyên học sinh không dùng điểm số, thay vào đó học sinh nhận được những lời nhận xét, động viên, phản hồi từ giáo viên về sản phẩm học tập, các câu trả lời của các em,… và biện pháp để các em có hướng điều chỉnh nhằm vượt qua các khó khăn trong học tập.

Tuy nhiên, trong thực tế năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh chưa được thực hiện tốt, nhiều em còn phụ thuộc nhiều vào bố mẹ, thầy cô, bạn bè; ý thức tự giác chưa cao, chưa chủ động thực hiện công việc được giao; chưa mạnh dạn, tự tin trước tập thể để bộc lộ ý kiến của mình,…

Nhằm góp phần thực hiện tốt việc đánh giá đúng chất lượng giáo dục học

sinh thông qua các môn học và hoạt động giáo dục, tôi đã chọn đề tài: “Rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 4”.

 1.2. Điểm mới của sáng kiến

Sáng kiến kinh nghiệm này tuy đã có nhiều đồng nghiệp nghiên cứu nhưng ở mỗi vùng miền, mỗi trường học, mỗi lớp học có đối tượng học sinh, điều kiện học tập khác nhau. Bản thân tôi căn cứ vào kinh nghiệm thực tế, chuyên đề về đổi mới sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề về đổi mới đánh giá học sinh, đổi mới phương pháp dạy học áp dụng mô hình trường học mới.

          Sáng kiến chủ yếu thể hiện:

+ Tìm hiểu thực trạng của việc tự phục vụ, tự quản của học sinh

+ Đề cập đến một số giải pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh

2. PHẦN NỘI DUNG

 2.1. Thực trạng của việc tự phục vụ, tự quản của học sinh

Năm học 2018 - 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 41, ngay từ tuần đầu nhận lớp, tôi đã quan sát kĩ các biểu hiện của học sinh trong từng hoạt động và nhận được kết quả khảo sát như sau:

Tổng số

Thời gian

HS có ý thức tự

phục vụ, tự quản tốt

HS có ý thức tự

phục vụ, tự quản nhưng chưa bền

Chưa có ý thức tự  phục vụ, tự quản

SL

%

SL

%

SL

%

27 em

 Đầu năm học

5

18,5 %

6

22,2%

16

55,6%

 

 Biểu hiện của những em chưa có ý thức tự phục vụ, tự quản trong lớp thể hiện rõ nhất là:

     - Học sinh thường tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát khi giáo viên gọi trả lời câu hỏi, không mạnh dạn giơ tay phát biểu xây dựng bài, ngại phát biểu trước đông người. Các em chưa thể hiện được tinh thần thi đua trong học tập, vào lớp thường không thuộc bài và làm bài, không mạnh dạn nhận xét góp ý xây dựng bài.

- Học sinh thường quên chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập. Một số học sinh vi phạm các nội quy của trường như trang phục, đầu tóc, vệ sinh thân thể, ăn quà vặt,…

- Phần lớn học sinh vẫn còn mang tính thụ động chưa có tính tự giác cao, thiếu tính năng động và sáng tạo, tâm lí ỷ lại và trông chờ vào phụ huynh và

giáo viên chủ nhiệm.

- Hội đồng tự quản, các ban trong lớp chưa thật sự hiểu rõ được nhiệm vụ của mình và cũng chưa phát huy khả năng tốt việc tự quản lớp.

- Các em chưa thực sự tự giác thực hiện theo yêu cầu nhóm, lớp và của cả giáo viên.

- Việc bố trí thời gian học tập và sinh hoạt chưa phù hợp; kết quả về học tập cũng không đồng đều.

- Thời gian sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các hoạt động tập thể,…các em chưa tập trung hoạt động, nói chuyện riêng, làm việc riêng, chưa chịu khó hợp tác.

- Một số em có ý thức tự phục vụ, tự quản nhưng chưa bền thường biểu hiện: khi có mặt của giáo viên thì tỏ ra nghiêm túc nhưng khi vắng mặt giáo viên hoặc Hội  đồng tự quản của lớp thì vẫn còn làm việc riêng,…

Theo tôi nghĩ những thực trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Giáo viên thường chỉ quan tâm đến thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng trong quá trình dạy học. Tư tưởng nhận thức của phụ huynh học sinh lẫn học sinh cũng chỉ tập trung làm sao học sinh nắm kiến thức bài học là chủ yếu, còn các nội dung khác trong đánh giá học sinh vẫn chỉ là nội dung phụ, không quan trọng.

Tiết sinh hoạt cuối tuần còn mang tính hình thức, chủ yếu là giáo viên nhận xét và thông báo kế hoạch cho tuần tới. Việc học sinh tự điều hành tiết sinh hoạt lớp chưa tốt nên kĩ năng tự phục vụ, tự quản của học sinh không được nâng cao.

2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 4

2.2.1. Phổ biến và hướng dẫn các việc làm cụ thể:

Phổ biến cho học sinh nội dung Thông tư 30 và Thông tư 22 giúp các em biết các nội dung cần thực hiện để phục vụ cho việc đánh giá từ đó các em sẽ cố gắng phấn đấu phát triển năng lực của bản thân.

Tìm các minh chứng cụ thể cho từng nội dung của năng lực tự phục vụ, tự quản để các em rõ hơn khi thực hiện. Sau đó, giáo viên phân tích, hướng dẫn từng cá nhân, nhóm, lớp thực hiện.

Ví dụ:

+ Vệ sinh thân thể, ăn, mặc: tắm rửa sạch sẽ, cắt móng tay móng chân, tóc cắt ngắn, ăn uống từ tốn, trang phục sạch sẽ, gọn gàng, …

+ Chuẩn bị đồ dùng học tập ở lớp, ở nhà: đến lớp có đầy đủ dụng cụ học tập theo thời khoá biểu và theo bộ môn,...

+ Các việc theo yêu cầu của giáo viên, làm việc cá nhân, làm việc theo sự phân công của nhóm, lớp:  thực hiện các yêu cầu học tập, tích cực cùng nhóm thảo luận bài học hay vệ sinh, trang trí lớp học theo phân công của nhóm lớp một cách tự giác,...

- Giáo viên khéo léo đưa các nội dung Thông tư vào nội quy lớp học, Điều em cần nhớ, các khẩu hiệu trang trí lớp học,...để những điều đó luôn hiện ra trước mắt các em khi đến lớp, qua đó nhắc nhở các em luôn phải thực hiện theo quy định.

 

Hình 1: Nội quy lớp em

2.2.2. Thu thập thông tin cá nhân của từng học sinh

Vào đầu năm học, khi được phân công chủ nhiệm lớp, tôi trực tiếp gặp giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm bắt tình hình chung, tình hình của từng học sinh, thông qua Sổ chủ nhiệm, Sổ học bạ để xem kết quả tổng hợp đánh giá cuối năm.

Nắm bắt thông tin học sinh qua phiếu điều tra cơ bản sau :

THÔNG TIN HỌC SINH

Họ và tên : ……….............................................Lớp:.........................................

Ngày, tháng, năm sinh :…………….................................................................. Địa chỉ :………………………………………..................................................

Họ và tên bố:................................................ Nghề nghiệp :……………..........

Họ và tên mẹ :.............................................. Nghề nghiệp :……………..........

Trong nhà có ….. người con.  Em là con thứ ………. trong nhà.

Môn học yêu thích :…………………………Lí do:…………………………

Môn học không yêu thích :………………….Lí do………………………….

Em mong ước gì khi ở lớp: .............................................................................

Sau khi nắm bắt thông tin học sinh thông qua phiếu điều tra cơ bản, tôi tập hợp các thông tin mà các em đã viết. Từ việc làm này, phần nào tôi hiểu được hoàn cảnh, biết được các em yêu thích cái gì nhất, có nguyện vọng điều gì ?... Từ đó, tôi đưa ra giải pháp cụ thể để hướng dẫn các em.

2.2.3. Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản

Thứ nhất, tổ chức bầu Hội đồng tự quản (HĐTQ)      

Hội đồng tự quản (HĐTQ) học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển về đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với những người xung quanh. HĐTQ học sinh giúp học sinh phát triển kỹ năng ra quyết định, kỹ năng hợp tác và kỹ năng lãnh đạo. Đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình.Việc bầu chọn và xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản là một công việc rất quan trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi nhận lớp mới. Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tổ chức bầu HĐTQ và thành lập các ban để lập kế hoạch và thực thi hoạt động, các công việc của lớp. Để làm công việc này tôi nghiên cứu kĩ lí lịch trích ngang, thăm dò ý kiến học sinh trong lớp, tham khảo ý kiến của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn, Tổng phụ trách Đội. Tiến trình bầu chọn HĐTQ được diễn ra như sau:

          - Trước hết, tôi phân tích để các em hiểu rõ về vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch HĐTQ, Phó Chủ tịch HĐTQ, trưởng các ban (ban học tập, ban văn nghệ - TDTT, ban sức khỏe - vệ sinh, ban quyền lợi, ban đối ngoại, ban thư viện)

          - Tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Bằng lời thuyết phục của mình để hướng các bạn trong lớp bình chọn mình. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh chọn 5 em tiêu biểu để cả lớp bầu chọn.

          - Tiến hành bầu chọn và chọn 3 học sinh đạt số phiếu cao nhất sẽ được lớp biểu quyết các nhiệm vụ (Chủ tịch HĐTQ, Phó Chủ tịch HĐTQ) sau khi có sự phân tích của giáo viên và tập thể.

Việc bầu trưởng các ban cũng thực hiện tương tự.

Thứ hai, phân công nhiệm vụ cụ thể

Sau khi đã bầu chọn được HĐTQ của lớp, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em như sau:      

         Đối với Chủ tịch HĐTQ: Phụ trách chung, tổ chức, quản lí lớp học.
        Ví dụ: Vào đầu giờ hay cuối giờ học mời các bạn đứng lên chào thầy cô giáo; Nhắc nhở các ban hoạt động vào mỗi tiết học như: Ban văn nghệ lên sinh hoạt văn nghệ; Ban học tập lên phát vở, chữa bài tập; Chủ trì xây dựng chương trình hoạt động theo tháng hay theo đợt...

Đối với Phó chủ tịch HĐTQ: (Phụ trách văn nghệ, thể dục thể thao) và trực tiếp phụ trách các Ban: Ban văn nghệ - Thể dục thể thao, đối ngoại, sức khỏe - vệ sinh

Đối với Phó chủ tịch HĐTQ: (Phụ trách học tập) và trực tiếp phụ trách các Ban: Ban học tập, thư viện, quyền lợi.
          Cụ thể:

- Ban văn nghệ - Thể dục thể thao: Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò chơi vào đầu tiết học và cuối tiết học. Theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các tiết học thể dục xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt.

- Ban học tập: Có nhiệm vụ phát vở ở lớp. Kiểm tra chuẩn bị bài, bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ học tập của mình phải quan sát bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập của lớp.

Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo viên có thể để ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa thảo luận xong. Muốn làm được tốt công việc đó, cuối mỗi buổi học, giáo viên cần  mời ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em.

- Ban sức khỏe - vệ sinh:  Nhắc nhở các bạn thực hiện tốt vệ sinh thân thể, quy định về trang phục, quét dọn lớp, sân trường sạch sẽ; chăm sóc và bảo vệ cây xanh. Nhắc nhở các bạn trật tự khi hoạt động tập thể, thu dọn ngăn nắp chỗ ngồi khi ra chơi và ra về. Theo dõi sức khỏe của các bạn, nếu bạn ốm thì báo với cô giáo.

- Ban quyền lợi: Quyền được được học tập và rèn luyện đầy đủ. Quyền được đối xử công bằng, tôn trọng, bình đẳng. Quyền được trợ giúp, bảo vệ tính mạng, thân thể, danh dự. Báo cáo với thầy, cô phân xử, xử lý các tình huống, sự việc xảy ra trong lớp.

- Ban đối ngoại: Tổ chức các bạn lớp mình giao lưu, hợp tác, ứng xử tốt với học sinh lớp khác. Tổ chức các bạn lớp mình giao lưu, ứng xử tốt với thầy, cô giáo trong trường. Chào hỏi, giới thiệu về trường, lớp, các góc học tập, cô giáo, các bạn với khách.

- Ban thư viện: Hướng dẫn, nhắc nhở các bạn mượn sách, đọc sách, trả sách đúng quy định. Hướng dẫn, nhắc nhở các bạn sắp xếp, bảo vệ thư viện trường, lớp gọn gàng, ngăn nắp. Giúp các bạn tự quản tốt các "tiết đọc sách". Vận động các bạn quyên góp, ủng hộ sách, truyện cho thư viện.

Sau mỗi buổi học, HĐTQ ở lại về sau các bạn 5 phút để gặp giáo viên báo cáo những việc đã làm được những việc chưa làm được còn gặp khó khăn để giáo viên kịp thời tư vấn giúp đỡ và giao nhiệm vụ ngày mai cho các bạn.      

2.2.4. Thông qua phong trào Lớp học thân thiện.

Với phong trào lớp học thân thiện, giáo viên sẽ giúp học sinh cùng nhau thực hiện các hoạt động chung của lớp, hình thành kĩ năng tự phục vụ, biết xem lớp học thân thiện là hình ảnh đẹp để cá nhân tự điều chỉnh mình thực hiện theo cái đẹp như ăn mặc gọn gàng, vệ sinh thân thể tốt, biết sắp xếp đồ dùng ngăn nắp,...Hàng tuần/ tháng, cùng với sự chỉ đạo của Liên đội, tôi tổ chức cho lớp tổng dọn vệ sinh lớp học: quét mạng nhện, lau cửa kính, bảng biểu trong  lớp, chăm sóc bồn hoa ...  Hàng ngày, yêu cầu nhóm trực phải  đổ rác đúng nơi, theo dõi việc thực hiện vệ sinh của học sinh trong lớp, trong việc phân loại rác, thực hiện tiết kiệm nước, đi tiểu tiện đúng nơi quy định. Các nhóm trưởng phải thường xuyên kiểm tra việc sắp xếp bàn ghế, đồ dùng học tập của thành viên đảm bảo gọn gàng,.... để nhắc nhở các bạn, có tổng hợp đánh giá cụ thể trong tiết sinh hoạt. Mỗi hành vi sai không chịu chỉnh sửa theo góp ý của bạn tôi đều để học sinh tự phân tích tác hại thái độ đó đối với trường với lớp của các em một cách tự giác để giúp các em tự nhìn thấy trách nhiệm của mình mà sửa chữa. Nhờ vậy mà lớp học của tôi luôn đảm bảo tốt vệ sinh, lớp học sạch sẽ, học sinh có thói quen tốt trong việc giữ gìn vệ sinh trường lớp, hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc bồn hoa, khu vực được phân công lao động, đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau, tự giác hoàn thành các yêu cầu chung của nhóm, lớp trong học tập. Bên cạnh đó, các nội quy, hình ảnh, khẩu hiệu trang trí lớp vừa tạo lớp học đẹp, vừa góp phần giáo dục các em rèn các kĩ năng. Phong trào Lớp học thân thiện cũng luôn được nhà trường khen ngợi.                

   

Hình 2:  Học sinh tích cực giữ gìn vệ sinh

2.2.5. Hình thành, phát triển các mối quan hệ trong lớp:

Bản thân tôi nhận thức việc xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa thầy và trò, giữa trò và trò là một việc làm cần thiết. Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa; lời nói, cử chỉ nhẹ nhàng. Giáo viên cần phải quan tâm một cách nghiêm túc tới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần để nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh và phát triển quan hệ giữa giáo viên - học sinh, học sinh với nhau.Trên cơ sở có được Hội đồng tự quản đã biết làm việc, tổ chức giờ sinh hoạt lớp là điều kiện để các em thể hiện tính chủ động, tự quản, vai trò của mình đối với lớp.

          + Hội đồng tự quản: Được đánh giá về những việc làm được và chưa được của các bạn.

          + Học sinh: Được phát biểu tự do, thoải mái, thể hiện hết tâm tư nguyện vọng của mình.

 Ngoài ra, tôi còn tổ chức một cuộc “đối thoại nóng” với học sinh, vừa để nắm được một cách cụ thể chi tiết hơn tình hình của từng học sinh trên  lớp,

vừa tạo cơ hội để các em thể hiện tâm tư nguyện vọng…

Ví dụ: Tôi hỏi các câu: “Các em nói cho cô nghe ăn mặc, vệ sinh thân thể như thế nào là đúng, thế nào là chưa đúng?” hoặc “ Các em không tự giác thực hiện tốt các yêu cầu, nội quy thì có ảnh hưởng gì tới lớp mình không?”. Như vậy, để các em tự nói là cách để các em tự điều chỉnh làm sao cho đúng. Trong giờ sinh hoạt các em được nói, được hát, được chơi, được thể hiện hết mình, nên giờ sinh hoạt đã trở thành sự háo hức, sự chờ đợi đối với các em. Nó thực sự lôi cuốn được cả tập thể lớp nên tính tự quản, tinh thần tập thể có dịp để phát huy.

          Bạn bè là người để các em chia sẻ buồn vui ngoài những người thân trong gia đình. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác, chia sẻ của nhiều học sinh.

Ví dụ: Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý ‎về việc làm, cách cư xử của các bạn trong lớp, bỏ vào hộp thư “Điều em muốn nói”, chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Sau cuối mỗi tuần, tôi kiểm tra hộp thư và căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải xin lỗi bạn và phải sửa chữa.

 

                 

Hình 4: Hộp thư Điều em muốn nói         Hình 5: Học sinh gửi tâm sự vào hộp thư

Từ mối quan hệ này, tôi thấy các em đã gắn bó tình đoàn kết, tạo tính tự giác, tính mạnh dạn, biết lắng nghe, biết tự điều chỉnh khắc phục những lỗi mắc phải nhằm thực hiện tốt các hoạt động, kế hoạch đề ra trong nhóm, lớp.

(

2.2.6. Sự gương mẫu giáo viên.

Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình

thành tính cách của học sinh. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo.

Giáo viên chủ nhiệm có sắp xếp khoa học công việc của mình thì sẽ là một gương sáng thuyết phục các em học sinh có thói quen tổ chức việc chuẩn bị đồ dùng, sắp xếp góc học tập, cặp đi học, bàn học,… của mình khoa học hơn. Bàn giáo viên phải có khăn bàn, lọ hoa, hộp đựng bút và được xếp ngay ngắn.

Hình ảnh một giáo viên luôn chủ động trong giảng dạy kiến thức, sử dụng tốt đồ dùng dạy học trên lớp sẽ giúp học sinh tin tưởng giáo viên hơn. Vì vậy, mỗi giờ dạy, tôi nghiên cứu kĩ nội dung, chuẩn bị các hình thức tổ chức cũng như sử dụng đầy đủ các đồ dùng dạy học. Có như vậy, tiết học sẽ sinh động hơn. Học sinh sẽ thấy việc mình chuẩn bị nội dung học tập, đồ dùng học tập cho tiết học góp phần tạo thành công trong tiết học. Từ đó, các em sẽ noi gương theo sự chuẩn bị chu đáo của giáo viên.

Như vậy, thông qua hình ảnh đẹp của giáo viên, học sinh sẽ noi gương

thực hiện tốt hơn hình thức của mình cũng như chú ý hơn đến sắp xếp đồ dùng

sách vở của mình trên lớp cũng như ở nhà, chuẩn bị tốt bài vở, đồ dùng học tập trước khi đến lớp.

         2.2.7. Thông qua giảng dạy các môn học       

Thông qua kiến thức, giáo dục phẩm chất, năng lực cho học sinh và cũng là mục tiêu chung của ngành giáo dục. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài học các môn, tìm các nội dung phù hợp nhằm lồng ghép giáo dục thêm trong các môn học. Qua đó gián tiếp rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh.

Ví dụ 1: Để định hướng cho học sinh những hành vi đúng trong sinh hoạt, quan hệ bạn bè, tôi cho học sinh xử lý các tình huống, trò chơi đóng vai...(môn Đạo đức), hay sắp xếp bố trí thời gian học tập và sinh hoạt hợp lí qua bài Đạo đức Tiết kiệm thời giờ,...Từ đó các em biết tự sửa sai, học tập và làm theo gương tốt một cách nhẹ nhàng, thoải mái.

Đối với Bài 5: “Tiết kiệm thời giờ” tôi tiến hành như sau:

Hoạt động 1: Tìm hiểu truyện kể “Một phút”

 Việc 1: Học sinh chia vai kể lại câu chuyện của Mi - chi - a

Việc 2: Chia sẻ câu chuyện, trả lời câu hỏi: Từ câu chuyện của Mi - chi - a các em rút ra bài học gì?

Việc 3: Báo cáo kết quả

Đánh giá:

- Tích cực hợp tác với bạn tìm hiểu câu chuyện.

- Học sinh biết quý trọng và tiết kiệm thời giờ. Biết tự phục vụ bản thân:

 sắp xếp thời gian biểu học tập và vui chơi hợp lí.

Ví dụ 2: Để giúp học sinh có các năng lực: vệ sinh thân thể sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng qua các bài: Phòng một số bệnh lây qua đường tiêu hoá, Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh (Khoa học), Mở rộng vốn từ: Sức khoẻ. Cái đẹp (Luyện từ và câu),...

           Bài 14 : Phòng một số bệnh lây qua đường tiêu hóa
           Hoạt động  2: Nguyên nhân và cách phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá

  Việc 1:  Cá nhân quan sát tranh ở sách giáo khoa trang 30, 31.

         Việc 2:  Hoàn thành câu hỏi theo phiếu học tập:
        - Bạn nào có việc làm đúng, bạn nào có việc làm sai dẫn đến bệnh lây qua  đường tiêu hóa? Giải thích?
        - Nêu nguyên nhân và cách phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá? 
        - Để phòng các bệnh lây qua đường tiêu hoá ta cần làm thế nào?
            Việc 3:   Nhóm trưởng tổng kết câu trả lời, báo cáo. 

             Đánh giá: - Nêu được nguyên nhân và cách phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá.

            - Mạnh dạn, tự tin khi khi trình bày trước lớp.

            - Biết giữ gìn vệ sinh thân thê: ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ,...

Ngoài ra, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tìm hiểu bài theo nhóm để hình thành tinh thần trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, động viên nhau thực hiện các yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên.

                    

Hình 6: Tích cực thực hiện yêu cầu học tập của nhóm

2.2.8. Phối hợp chặt chẽ với tổ chức đội, sao trong nhà trường và các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường

Các tổ chức trong nhà trường, đặc biệt là đội, luôn có tác động tới học sinh. Việc kiểm tra, đánh giá nề nếp tác phong hàng ngày (qua đội cờ đỏ), kiểm tra hàng tuần của Tổng phụ trách, các em sẽ có ý thức thực hiện tốt để không ảnh hưởng đến thi đua của lớp.

 Phối hợp với cha mẹ học sinh để cùng trao đổi nắm vững tình hình học tập và thói quen, hành vi đạo đức của các em ở lớp và ở nhà. Trong các cuộc họp phụ huynh hoặc liên hệ, khuyến khích phụ huynh hướng dẫn hoặc kiểm tra con em mình thực hiện các nề nếp tập trung vào rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản như:

+ Tích cực hướng dẫn con em mình tự làm một số việc để phục vụ bản thân như đánh răng, rửa mặt, gấp chăn màn, mặc quần áo, sắp xếp sách vở và đồ dùng học tập,... phù hợp với lứa tuổi;

+ Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình; nhắc nhở con em chuẩn bị các nội dung học tập ngày mai, sách vở và đồ dùng học tập trước khi đến lớp;

+ Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi; sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, giờ nào việc nấy, tránh tình trạng vừa học vừa

chơi, tự phân bố thời gian học tập, sinh hoạt khi không có người lớn,...

- Giáo viên thông báo kịp thời qua thư trao đổi, điện thoại hoặc đến nhà, trao đổi trực tiếp về sự tiến bộ của các em nên cũng giúp cho các em tự giác thực hiện tốt các yêu cầu, từng bước nâng cao kĩ năng tự phục vụ.

Theo tôi, dù là sử dụng hình thức hay phương pháp nào để rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản thì việc nêu gương, khen thưởng đóng một vai trò quan trọng. Bởi vì, tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi thực hiện các việc sau:

          - Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh lớp về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt yêu cầu, nội quy.

- Sau mỗi tuần học, Chủ tịch HĐTQ đánh giá chung các mặt hoạt động, trưởng các ban đánh giá cụ thể các mặt hoạt động của từng thành viên, sau đó bầu chọn học sinh tuyên dương trước lớp và nhận thưởng. Đặc biệt chú ý đến học sinh chậm tiến trong học tập nhưng có tiến bộ về các mặt vệ sinh, thực hiện tốt các hoạt động, yêu cầu thì được tuyên dương và khen thưởng. Tôi đã chú ý tìm ra những ưu điểm, tiến bộ của học sinh dù là việc nhỏ cũng khen các em để động viên, tạo nguồn động lực cho các em.

*Từ những việc làm trên, giáo viên đã động viên khích lệ tinh thần các em khi thực hiện các yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên, các nội quy, quy định.

2.3 Kết quả

Qua thời gian áp dụng những phương pháp trên, bản thân tôi nhận thấy lớp học đã đạt được những kết quả như sau:

- Tất cả các em học sinh biết tự phục vụ bản thân, giữ vệ sinh cá nhân, tham gia mọi hoạt động của trường, của lớp một cách nhiệt tình và có hiệu quả. Luôn tự giác chấp hành các quy định, yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên.

- Nề nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy cũ hơn. Học sinh tự giác trong công tác vệ sinh trường lớp, trình bày bài trong vở, …

- Kỹ năng giao tiếp của các em trôi chảy, lưu loát hơn; các em tự tin hơn trong giao tiếp, học tập, mạnh dạn trao đổi những khó khăn vướng mắc với giáo

viên chủ nhiệm.

- Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong trào thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc theo nhóm hiệu quả cao hơn.

- Nghiêm túc tập thể dục, múa hát giữa giờ, xếp hàng ra vào lớp một cách trật tự. Sinh hoạt 15 phút đầu giờ nghiêm túc, chất lượng (kể cả những khi

không có giáo viên chủ nhiệm).

- Kết quả theo dõi của đội sao đỏ trong những tuần gần đây đã có tiến bộ rõ rệt, cụ thể:

Tuần

1

2

3

4

5

6

7

8

Xếp thứ

8

9

7

5

3

1

1

1

 

 3. PHẦN KẾT LUẬN

     3.1. Ý nghĩa và phạm vi áp dụng của sáng kiến

      Việc vận dụng các biện pháp trên không những giúp các em có kĩ năng tự phục vụ tự quản, góp phần hình thành và phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của học sinh: tự phục vụ, tự quản; hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề; phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; đoàn kết, yêu thương. Giúp các em hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống.

* Phạm vi áp dụng:

Sáng kiến này được áp dụng trong việc rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 41 có kết quả tốt. Tôi nhận thấy có thể áp dụng sáng kiến này cho tất cả các lớp ở trường Tiểu học và có thể nhân rộng cho các lớp trên.

3.2. Kiến nghị, đề xuất

Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, cùng chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm của nhau để giúp học sinh rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản nói riêng và các năng lực, phẩm chất nói chung.

  Cần khen thưởng kịp thời đối với những tập thể lớp, cá nhân thực hiện có hiệu quả việc xây dựng nền nếp lớp học, tấm gương tốt của học sinh về học tập, rèn luyện đạo đức, giúp đỡ bạn bè, thực hiện gương mẫu mọi hoạt động trong nhà trường.

Trên đây là một số biện pháp của bản thân trong việc “Rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản của học sinh lớp 4”. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của Ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản lý giáo dục để bản sáng kiến có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau.

Previous Post Next Post

QC

QC