Skkn dạy bài học phát biểu theo chủ đề bằng hình thức sáng tạo diễn đàn thanh niên tại lớp học môn ngữ văn 12

 1.     Tên sáng kiến: “Dạy bài học PHÁT BIỂU THEO CHỦ ĐỀ (Sgk Ngữ Văn 12 Cơ bản) bằng hình thức sáng tạo Diễn đàn thanh niên tại lớp học”

    2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: giảng dạy bộ môn Ngữ Văn (khối 12 Cơ bản)

    3. Mô tả bản chất của sáng kiến

3.1. Tình trạng giải pháp đã biết

- Việc sáng tạo ra những phương pháp nhằm tạo ra những tiết học Văn sinh động mà hiệu quả, không gây nhàm chán, thụ động ở các em học sinh, từ đó nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy Ngữ Văn ở cấp THPT nói chung được xem là những mục tiêu hàng đầu về chuyên môn của giáo viên, nhất là trong những năm gần đây.



- Chương trình học Ngữ Văn 12 khá nặng nề khi các em vừa phải đọc – hiểu những văn bản “nặng kí” nhất của văn học Việt Nam, thế giới; vừa phải học trong tâm thế đối mặt với kì thi THPT Quốc Gia. Vì vậy, các em thường có tâm lí lơ là đối với những bài học không - phải - là phần Đọc văn, chẳng hạn như Tiếng Việt, Tập làm văn, Rèn kĩ năng ... 

- Thực tế cho thấy, mặc dù trước tập thể, các em có vẻ thụ động thậm chí lười nhác trong việc phát biểu ý kiến, song trong suy nghĩ của các em, các em hoàn toàn có những suy nghĩ độc lập, dù đúng dù sai, dù hợp lí hay chưa hợp lí. Và mai đây, trong tương lai rất gần, các em học sinh 12 sẽ đến với những nghề nghiệp nhất định trong xã hội. Nếu không có những cơ hội để các em thật sự được chia sẻ những suy nghĩ của mình thì không những các em thiếu tự tin trong giao tiếp, không biết cách để trình bày ý kiến của mình mà đôi khi sẽ dẫn tới những sự lệch lạc lớn hơn trong nhận thức cuộc sống và con đường đời.

- Vì tất cả những lí do trên, đề tài này nhằm hướng tới một giải pháp giúp các em học sinh có cơ hội được rèn kĩ năng nói – trình bày quan điểm – phát biểu ý kiến theo chủ đề mà không gây nhàm chán hoặc tâm lí thụ động, thông qua đó, giáo viên hướng tới mục tiêu của bài học: giúp học sinh trình bày được ý kiến của mình trước tập thể phù hợp với chủ đề được nói tới; các em biết lựa chọn nội dung phát biểu phù hợp với chủ đề chung và tình hình thảo luận; dự kiến nội dung chi tiết, sắp xếp nhanh thành đề cương phát biểu; có thái độ, cử chỉ đúng mực, lịch sự, điều chỉnh giọng nói phù hợp với nội dung và cảm xúc.

3. 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến

Nội dung của giải pháp được trình bày cụ thể như sau:

Bước 1: Giao việc

- Phân công nhiệm vụ chuẩn bị theo đơn vị tổ, lớp có 4 tổ, mỗi tổ từ 6 đến 8 học sinh. Giáo viên chuẩn bị các chủ đề.

Kinh nghiệm chọn chủ đề rất quan trọng:

+ Các chủ đề cần mang tính cập nhật, tránh máy móc (không nhất thiết phải chọn các chủ đề như sách giáo khoa gợi ý).

+ Nên chọn những chủ đề gần gũi với các em, phù hợp với lứa tuổi của các em, được các em quan tâm

+ Nên chọn những chủ đề gây tính tranh cãi cao, có ý kiến đa chiều

- Thời gian giao việc: giữa tháng 10

- Thời gian nhận kết quả của việc đã giao (thời gian tiến hành bài học trên lớp): giữa tháng 11 (01 tháng kể từ ngày giao)

- Khuyến khích các em sử dụng những phương tiện công nghệ thông tin để minh họa, thu hút

- Cụ thể: giáo viên và học sinh đã thống nhất chọn những chủ đề như sau: (vì lớp có 5 em học sinh tham gia học bồi dưỡng HSG nên lớp tạm thời chỉ có 3 tổ)

+ Tổ 1: Phát biểu quan niệm của anh / chị về vấn đề: Thế nào là hạnh phúc?

+ Tổ 2: Phát biểu quan niệm của anh / chị về vấn đề: Tình yêu học đường – nên hay không nên?

+ Tổ 3: Phát biểu quan niệm của anh / chị về vấn đề: Con đường lập thân, lập nghiệp của học sinh hiện nay

Bước 2: Theo dõi tiến độ làm việc của học sinh

- Giáo viên thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc các em

- Tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ nếu các em gặp khó khăn ở phần việc nào đó, gợi mở cách để tìm ý, lập dàn ý, ...

Bước 3: Tổ chức tiến hành Diễn dàn thanh niên trong lớp học

1.     Cách thức tổ chức

-         Học sinh kê bàn học của lớp thành hình chữ U, nhóm trình bày chủ đề tới lượt mình sẽ tiến đến bục giảng, quay xuống đối diện các bạn, có thể để máy vi tính ở bàn giáo viên, điều khiển bằng chuột không dây hoặc bút cảm ứng.

-         Giáo viên cũng xuống ngồi dự cùng các em của lớp, ghi chú những nội dung để nhận xét vào cuối giờ.

-         Giáo viên lưu ý các em học sinh ngồi dự phải có ghi chú, nhất là những vấn đề các em đặc biệt quan tâm, có ý kiến chủ quan – hoặc tranh cãi. Ghi chú những câu hỏi để đặt vấn đề với nhóm thuyết trình.

2.     Nội dung của diễn đàn

2.1.          Tổ 1 trình bày phần chuẩn bị của mình: Quan niệm thế nào là hạnh phúc?

Sau đây là sự lược tả nội dung của buổi học tại một lớp 12 cụ thể:

-         Hạnh phúc là quả cầu thủy tinh

-         Dùng chính đôi tay để có được hạnh phúc

-         Kể câu chuyện: Ông cụ đi tìm hạnh phúc

-         Liên hệ từ hạnh phúc cá nhân đến hạnh phúc xã hội

-         HS đặt câu hỏi với khán giả: Bạn đã từng hạnh phúc vì điều gì?

-         Một bạn HS chia sẻ về niềm hạnh phúc của mình khi được tặng chiếc xe đạp khi lên lớp 6

-         Mở rộng: có hạnh phúc, người ta lại muốn hướng đến những mục tiêu xa hơn, vì bản chất của con người là cầu tiến

-         Hỏi: Hạnh phúc kéo dài bao lâu? (liên hệ Tần Thủy Hoàng)

→ hạnh phúc chỉ cảm nhận trong một thời gian ngắn và luôn thay đổi.

-         Hạnh phúc khác nhau ở những người khác nhau, tùy vào địa vị, tính cách, độ tuổi...

-         Hạnh phúc là điều nhỏ nhặt hàng ngày (chiếu 1 clip về những điều nhỏ nhặt nhưng hạnh phúc)

-         Phê phán lối sống dựa dẫm, ỷ lại, mong ngóng, mơ hồ, bi quan, tiêu cực, ích kỉ...

Phần đặt câu hỏi cho nhóm: Thử chia sẻ hạnh phúc của bạn là gì? (từng thành viên trong nhóm)

+ Tính: Hạnh phúc là đam mê và là có cha mẹ, tình yêu thương gia đình

+ Trường: có người thân bên cạnh

+ Đan: vào trường Đại học danh tiếng

+ Khang: người thân khỏe mạnh

+ Tiến: mọi người no ấm, không phân biệt giàu nghèo

+ Long: người thân bên cạnh được bình yên

+ Lộc: đủ thành viên trong gia đình, được yêu thương, quý mến

+ Lê: được yêu thương

Giáo viên nhận xét:

+ Có ý tưởng, có chú ý đến những khía cạnh khác nhau của hạnh phúc

+ Có đầu tư về minh họa (clip, các slides trình chiếu power point)

+ Tuy nhiên, các ý chưa được sắp xếp theo một trật tự chặt chẽ, kín cạnh

+ Cần đặt ra thêm nhiều phản đề của hạnh phúc để xem thế nào là hạnh phúc thật sự

2.2.          Tổ 2 trình bày phần chuẩn bị của mình: Tình yêu học đường – nên hay không nên?

-         Thế nào là tình yêu học đường? (Tình yêu khi còn ngồi trên ghế nhà trường)

-         Cần suy nghĩ chính chắn thì tình yêu mới lâu dài

-         Những nguyên nhân dẫn đến tình yêu tuổi học đường:

+ chủ quan: đây là độ tuổi có sự thay đổi tâm sinh lý; nhu cầu an ủi, động viên, cùng nhau phát triển

-         Những mặt lợi mà tình yêu học đường mang lại:

+ Có động lực để cố gắng

+ Tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhân cách

+ Có nhiều kỉ niệm đáng nhớ về thời áo trắng

-         Những tác hại:

+ Lơ là trong học tập

+ Lệch lạc, bồng bột, thiếu suy nghĩ trước những rung động

+ Tự huyễn hoặc bản thân

→ Nhóm kết luận: Quan điểm của nhóm không phải là nên yêu hay không nên yêu mà là “nếu yêu, phải yêu như thế nào”; nhóm không đồng tình cách giải quyết của một số giáo viên chủ nhiệm là mời phụ huynh lên nói chuyện và sau đó thì phụ huynh rầy la, cấm đoán.

HS tham gia ý kiến: Tình yêu giữa HS với thầy giáo, cô giáo có thể được xem là tình yêu học đường không?

→ Quan điểm của nhóm: Không, vì đó là tình cảm ngưỡng mộ rồi ngộ nhận (từ phía HS) hoặc thương cảm rồi ngộ nhận (từ phía GV).

Giáo viên nhận xét:

+  Ý 2 là ý mở rộng, không nên trình bày ở phần đầu, sẽ làm loãng kết cấu

+ Chú ý diễn đạt: thay vì “Những nguyên nhân dẫn đến tình yêu tuổi học đường” thì có thể đổi thành: “Tình yêu học đường có từ đâu?”

+ Phần trình bày của nhóm có phần nhầm lẫn giữa các khái niệm, nhóm cần phân biệt giữa “tình yêu trong học đường” với “tình yêu ở lứa tuổi học đường”

+ Cần dùng thêm một số từ ngữ, cách diễn đạt để thấy được ý nghĩa tích cực của tình yêu học đường như “nguồn năng lượng kì diệu”...

+ Nhóm thiếu phần mở rộng vấn đề: chẳng hạn cần đề cập đến vấn đề ranh giới giữa tình yêu và tình dục; yêu nhất thời và yêu bền lâu (cần có những điều kiện nào); cần tránh việc ngộ nhận trong tình yêu; không nên xem tình yêu học đường như một món trang sức muốn đeo vào để thỏa mãn sự hiếu kì hoặc cho bằng bạn bằng bè

+ Cần nói thêm về tình yêu đồng giới: cần phân biệt giữa tình yêu, sự chia sẻ chân thành hay chỉ là ngộ nhận...

2.3.          Tổ 3 trình bày phần chuẩn bị của mình: Con đường lập thân, lập nghiệp của học sinh hiện nay

- Vấn đề lập thân: được hiểu là tự tạo dựng cuộc sống riêng, tự hoàn thiện bản thân mình

+ Tự kiềm chế cảm xúc

+ Bước ra khỏi vùng an toàn

+ Sống hết mình, “nếu chỉ còn một ngày để sống”

- Vấn đề lập nghiệp:

+ Đại học hay không vào đại học mà phát triển nghề? Chọn cái nào không quan trọng bằng việc bạn biết khả năng của mình đến đâu và dám đương đầu với khó khăn, dũng cảm đứng dậy trước thất bại, có ước mơ và đam mê.

- Có người lập thân rồi mới lập nghiệp, có người lập thân và lập nghiệp song hành. Khi đã lập nghiệp rồi, quá trình lập thân cũng không dừng lại.

- Ngày nay, có người không biết lập thân, lập nghiệp đúng cách, khiến cuộc sống bề bộn, lộn xộn, thực dụng và ích kỉ...

Giáo viên nhận xét:

+ Khi trình bày xong, các em cần đi đến những kết luận thật cụ thể về quan điểm của nhóm

+ Cần nói thêm về sự lập thân ở chính các em và con đường lập nghiệp sắp tới

3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp

- Áp dụng ở các lớp 12 các trường THPT

3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp

- Hiệu quả của đề tài được đánh giá thông qua thái độ, cảm xúc hứng khởi, sôi nổi của các em trong việc tham gia xây dựng, phát biểu ý kiến.

- Qua phần trình bày và nhận xét phần trình bày, các em sẽ có thêm kĩ năng tạo lập văn bản, biết thiết lập hệ thống ý (luận điểm, luận cứ, luận chứng) cho bài văn nghị luận.

- Các em học sinh trong cùng tập thể được chia sẻ với nhau những trải nghiệm trong cuộc sống cũng như những định hướng trong tương lai.

- Nhờ vào việc các em phát biểu ý kiến, quan điểm của mình trước những vấn đề rất đáng quan tâm, giáo viên có cơ hội tiếp cận tâm lý của các em, hiểu được suy nghĩ, nguyện vọng của các em, từ đó có sự định hướng phù hợp với các em, nhất là trong trường hợp các em nghĩ còn cạn, ở bề nổi của vấn đề mà chưa thấy được những mặt đa chiều của nó. Đương nhiên, khi được giáo viên định hướng với những cơ sở lý thuyết và thực tiễn hợp lí, học sinh sẽ có nhận thức đúng đắn hơn về những vấn đề mà các em còn chưa thấu đáo.

3.5. Tài liệu kèm theo: không

Nguồn: ST


Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC